Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 5

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 5

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO

Đề tài năm : Đâu là ranh giới giữa sự phản kháng cần thiết đối với chính quyền và sự phản kháng bất hợp lí? (đạo đức học chính trị hay giới răn 4)

Nhập đề :

Ngày nay có lẽ không còn ai có tham vọng sống hạnh phúc mà không cần đến xã hội, dân tộc hay người khác, dù xã hội, dân tộc hay người khác ấy có thể không tốt như mình mơ ước. Vấn đề bây giờ không phải là xét xem con người có thể phát triển không cần đến xã hội và người khác hay không, cũng không phải là xét xem có cần hay không cần một hay nhiều người lãnh đạo xã hội ấy và tập thể ấy – nói cách chuyên môn, vấn đề bây giờ không phải là xét xem chiều kích chính trị (tức là tính xã hội của con người có tổ chức) có hợp lí và cần thiết hay không. Mà vấn đề lúc này là làm thế nào để thể hiện tính chính trị ấy cách tốt nhất, hay một cách cụ thể, làm thế nào để tổ chức xã hội tốt nhất, cầm quyền tốt nhất và tham gia xã hội tốt nhất.

Khai triển :

1. Trước hết, phải bắt đầu bằng cách xác tín xã hội và nhà nước có giá trị không chỉ về mặt nhân bản mà cả về mặt thần học nữa.

1.1. Ngày nay, người ta đã tiến tới chỗ có cái nhìn quân bình về xã hội và nhà nước : không theo chủ trương xã hội duy vật của Marx (xã hội và từ đó, nhà nước là kết quả tốt nhất của cả một lịch sử tiến hoá của vật chất và vì thế, cá nhân phải hoàn toàn tùy thuộc xã hội và nhà nước) hay chủ trương xã hội duy tâm của Hegel (xã hội và từ đó, nhà nước là kết quả tốt nhất của cả một lịch sử tiến hoá của tinh thần và vì thế, cá nhân phải hoàn toàn tùy thuộc xã hội và nhà nước) ; cũng không theo chủ trương cá nhân và tự do cực đoan như của các triết gia phương Tây, đặc biệt của các triết gia hiện sinh vô thần (cá nhân - đặc biêt là những cá nhân ưu tú - là trên hết và tất cả, xã hội và nhà nước chỉ là công cụ phục vụ các nhu cầu và ước muốn của các cá nhân). Trong cả hai cái nhìn cực đoan này – thần thánh hoá xã hội và nhà nước, hay giản lược tối đa xã hội và nhà nước – xã hội hay nhà nước và cá nhân luôn ở trong thế cạnh tranh và xung đột nhau, tới mức hoặc chỉ có xã hội độc tài hoặc chỉ có xã hội vô chính phủ – chỉ có cá nhân bị đè bẹp hay chỉ có cá nhân độc đoán. Và dĩ nhiên, trong cả hai cái nhìn ấy đều không có chỗ cho Thiên Chúa.

1.2. Theo quan điểm của Kitô Giáo, bản tính xã hội của con người là do Thiên Chúa tạo thành và vì thế, chẳng những không thể bỏ qua bản tính xã hội ấy, mà bản tính ấy còn được tạo dựng để được phát triển hài hoà với ngôi vị của mỗi người. Chúng ta có thể hài hoà hai chiều kích căn bản ấy của con người – xã hội và cá nhân – bằng cách thống nhất cả hai trong ơn gọi làm con cái hay thụ tạo của Thiên Chúa. Xã hội và cá nhân có thể chung sống với nhau cách êm đẹp khi cùng làm việc dưới ánh sáng của Chúa, theo ý muốn và kế hoạch của Thiên Chúa – thể hiện qua những đòi hỏi tự nhiên nơi bản tính các sự vật. Một cách cụ thể, xã hội (mà đại diện là nhà nước) và cá nhân sẽ hợp tác với nhau để theo đuổi một mục tiêu xa là phát triển con người và thế giới theo đúng ơn gọi của chúng, và một mục tiêu gần là tạo ra các công ích giúp con người và thế giới hoàn thành ơn gọi của mình. Nói thế là nhìn nhận xã hội và nhà nước không chỉ có giá trị trong nhãn quan loài người, mà còn có giá trị trong nhãn quan Thiên Chúa. Hay xã hội và nhà nước không phải chỉ là điều con người cần, mà còn là điều Thiên Chúa muốn. Có hiểu như thế ta mới thấy tại sao không chỉ Phaolô mà cả Phêrô đều kêu gọi sự hợp tác của các kitô hữu với nhà nước – không phải hợp tác thuần túy theo luật hay vì sợ bị phạt, mà còn hợp tác tận trong lương tâm.

2. Kế đó, phải nắm vững mục tiêu gần và xa của xã hội và nhà nước

2.1. Mục tiêu gần, cũng là điều thường xuyên được viện dẫn để minh chứng sự cần thiết hay để đánh giá tầm hiệu quả của một xã hội và một nhà nước nào đó, chính là công ích. Một xã hội và một nhà nước có mặt và cần thiết, cũng như được coi là tốt, là vì nó đem lại công ích cho người dân. Công ích là tổng hợp tất cả những điều kiện – vật chất lẫn tinh thần – giúp mỗi người và mọi người hoàn thành ơn gọi của mình. Những điều kiện ấy có thể là cơ sở hạ tầng của đất nước, từ đường sá đến điện nước, là các dịch vụ của đất nước, từ dịch vụ hành chánh đến dịch vụ y tế, giáo dục, kinh tế … Những điều kiện ấy còn là cơ sở thượng tầng của đất nước như văn hoá, đạo đức, chính trị, tôn giáo… của dân chúng trong đất nước ấy. Nói chung là tất cả những gì cần thiết cho con người hoàn thành bản thân mình đúng với phẩm giá và ơn gọi của mình.

2.2. Tuy nhiên, mục tiêu gần chưa đủ là lí do biện minh cho sự có mặt và vai trò của xã hội và nhà nước. Không phải hễ tạo ra càng nhiều công ích như vừa kể là đã chu toàn trách nhiệm của xã hội và nhà nước. Mà còn cần phải làm sao cho các công ích ấy thực sự phục vụ conngười trong xã hội (mục tiêu xa). Có nhiều công ích không phục vụ con người thực sự hay thậm chí còn gây hại (luật, chế độ, cơ sở … cho phép cờ bạc, mãi dâm, phá thai, li dị… vượt xa mức tương nhượng, nghĩa là không chỉ để làm giảm bớt những điều xấu lớn hơn mà còn làm tăng những điều xấu…). Cũng có nhiều công ích vẫn còn nằm trên giấy tờ hay chưa đi vào thực tế phục vụ dân chúng (những hình thức công ích lãng phí hay không được phân phối đồng đều…). Vì thế, còn phải xét xem các công ích do xã hội và nhà nước tạo ra có thực sự phục vụ mỗi người và mọi người không. Ở đây, không thể không đụng chạm đến quan điểm của xã hội và nhà nước về con người. Một xã hội và nhà nước chỉ nhìn con người như một con vật biết làm kinh tế chẳng hạn sẽ không chú ý tới những công ích liên quan đến đời sống đạo đức và tôn giáo của con người.

3. Sau cùng, phải chấp nhận nguyên tắc bổ trợ và liên đới khi sinh sống và làm việc

3.1. Trong lúc theo đuổi mục tiêu gần và xa, xã hội và nhà nước không thể độc quyền làm việc hay bao cấp trong tất cả mọi lãnh vực, mà phải biết tạo điều kiện cho các cá nhân và đoàn thể tham gia, theo nguyên tắc bổ trợ và liên đới. Nguyên tắc bổ trợ (“principe de subsidiarité”) giúp tổ chức mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân hay giữa nhà nước với các đoàn thể (gia đình, trường học, nghiệp đoàn, phong trào, tổ chức văn hoá – xã hội – chính trị, các tôn giáo…) bằng cách yêu cầu nhà nước không những tôn trọng mà còn giúp các cá nhân và đoàn thể ấy ngày càng có khả năng làm việc độc lập trong lãnh vực chuyên môn của mình, và chỉ can thiệp khi các cá nhân và đoàn thể ấy chưa đủ khả năng làm việc độc lập hay có thể gây hại cho con người và xã hội. Nhà nước không độc quyền làm kinh tế, giáo dục, văn hoá, mà cả không độc quyền làm chính trị, càng không độc quyền làm tôn giáo. Nhà nước chỉ theo dõi, đôn đốc, cảnh cáo, khích lệ, thông qua luật pháp và các can thiệp hợp lí, khi thật sự cần thiết.

3.2. Ngoài nguyên tắc bổ trợ là một cách thực hành đức công bằng trong các quan hệ xã hội, nhà nước và cá nhân còn cần thi hành nguyên tắc liên đới – một hình thức của đức ái ở cấp xã hội. Nguyên tắc này sẽ bù đắp những thiếu sót do việc thi hành sự công bằng để lại : nếu chỉ thực thi công bình cách sít sao, chắc chắn sẽ có nhiều lỗ hổng và chỗ trống mà không bên nào chịu đảm nhận. Trước khi và ngay cả trong khi quan hệ với nhau, nhà nước và cá nhân sẵn sàng liên đới với nhau trong trách nhiệm và bổn phận, như thông cảm với nhau, bù đắp cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau vượt trên mức đòi hỏi của sự công bằng. Quan hệ nhà nước và cá nhân không chỉ là quan hệ pháp lí sít sao, mà còn là quan hệ của tình cảm nữa.

3.3. Trong tình hình chính trị hiện nay, nguyên tắc bổ trợ và liên đới còn được áp dụng cho các quan hệ quốc tế giữa các chính phủ với nhau, giữa chính phủ nước này với cá nhân hay đoàn thể nước khác, giữa chính phủ hay cá nhân và đoàn thể nước này với các cơ quan quốc tế… Chính vì sự phát triển của cá nhân và xã hội hiện nay không còn tùy thuộc các điều kiện hay công ích tại chỗ của một địa phương hay quốc gia, mà ngày càng tùy thuộc điều kiện hay công ích của nhiều quốc gia, thậm chí của quốc tế, nên cần phải áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới cả trên cấp độ khu vực và quốc tế nữa. Chẳng hạn cá nhân hay xã hội Việt Nam ngày nay không thể phát triển trọn vẹn chỉ nhờ vào các điều kiện giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị… của riêng nước Việt Nam, mà tùy thuộc khá nhiều vào các điều kiện giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị… của các nước chung quanh. Chính vì thế, Việt Nam phải chấp nhận tiếp thu không những các công nghệ và kĩ thuật, mà cả các mô hình giáo dục, kinh tế, xã hội, thậm chí chính trị của các nước khác; phải chấp nhận lệ thuộc phần nào – ít là bao lâu chưa độc lập đủ – không những trong các mặt hàng và công nghệ kĩ thuật, mà cả trong những chính sách và đường hướng của các nước ấy. Ngược lại, khi hỗ trợ Việt Nam, các nước khác cũng phải tìm cách làm cho Việt Nam ngày càng trưởng thành và độc lập để có thể không những đứng vững mà còn đóng góp ngược lại cho họ, thay vì tìm cách kềm hãm sự tiến bộ của Việt Nam. Về lãnh vực kinh tế, điều này đang được thể hiện qua việc thế giới cùng chấp thuận cho Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), và Việt Nam đồng ý tham gia. Dĩ nhiên, ngay cả khi đã bổ trợ cho nhau được, hai bên vẫn cần liên đới giúp đỡ nhau khi một trong hai bên đột xuất gặp tai nạn trong việc tự lực tự cường và đóng góp chung, thay vì thực thi sự công bằng quá sít sao.

3.4. Nguyên tắc bổ trợ này (được bổ sung bằng nguyên tắc liên đới) đã từng được đức cố giáo hoàng Piô XI đề xuất trong thông điệp “Quadragesimo Anno” (“Năm thứ 40” ngày Giáo Hội Công Giáo ban hành thông điệp đầu tiên về xã hội, thông điệp “Rerum Novarum” hay “Các hoàn cảnh mới” của đức cố giáo hoàng Leô XIII năm 1891), sau khi ngài chứng kiến thấy cảnh tượng các chính phủ độc tài – thành hình sau thế chiến thứ nhất – can thiệp quá sâu vào đời sống các cá nhân và các đoàn thể xã hội tới mức biến họ trở thành những nô lệ không hơn không kém.

4. Trường hợp các chính phủ bất công

4.1. Trước công đồng Vatican II, xem ra Giáo Hội đánh giá cao trật tự và ổn định hơn là những thay đổi xã hội, và vì thế tỏ ra rất ngại ngùng đưa ra quan điểm rõ ràng trước trường hợp một chính phủ trở nên bất công. Nhưng với công đồng Vatican II, Giáo Hội đã tỏ ra mạnh dạn hơn khi khẳng định: “Khi công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp công dân, lúc đó chính công dân cũng không nên từ chối những việc làm mà khách quan xét thấy phù hợp với đòi hỏi của công ích. Họ được phép bênh vực quyền lợi của riêng mình cũng như của đồng bào chống lại những lạm dụng của công quyền, trong khi vẫn tôn trọng những giới hạn của luật tự nhiên cũng như luật Phúc Aâm” (MV số 74).

4.2. Thế nào là một chính phủ bất công ? Hoặc đó là một chính phủ đã chiếm quyền một cách bất hợp pháp. Hiện nay, hầu hết mọi quyền hành của chính phủ được thủ đắc qua con đường ứng cử và bầu cử dân chủ. Thế nên, chiếm quyền bằng con đường bạo động có thể là bất hợp pháp. Trong trường hợp chính công ích đòi phải có sự đảo chính bằng quân sự, chính quyền được lập lên do quân đội chỉ có giá trị tạm thời và có bổn phận mau chóng tổ chức tuyển cử để một chính quyền dân sự được thành lập. Hoặc đó là một chính phủ đã nắm quyền cách hợp pháp, nhưng đã hoạt động một cách có hại nặng nề cho đất nước, đi ngược hiến pháp cách trầm trọng, và hầu như không thể cứu chữa được (những cải tổ của chính phủ ấy không cho thấy chính phủ ấy đang được điều chỉnh lại để trở nên hiệu quả hơn…). Không thể kết tội một chính phủ là bất công khi chính phủ ấy không làm được nhiều điều tốt cho hết mọi người trong một thời gian ngắn, nhất là khi nhìn đến hoàn cảnh quá khứ và hiện tại không mấy thuận lợi của đất nước.

4.3. Phản kháng các chính phủ này bằng cách nào ? Nếu thấy rõ không phản kháng là đồng loã với bất công, các kitô hữu – đặc biệt là giáo dân – có thể tham gia phản kháng theo trình tự sau đây :

. Trước hết, phải có cơ sở đầy đủ và xác đáng minh chứng đó là chính phủ bất công nặng nề (là một chính phủ đã chiếm quyền bất hợp pháp và không tạo được niềm tin nơi người dân qua những thành tích ổn định cuộc sống xã hội, hay một chính phủ hợp pháp nhưng đã có quá nhiều chính sách làm hại dân chúng và đất nước cách nặng nề, đã được cho thời gian sửa chữa nhưng vẫn không thành công – sửa chữa nhân sự và sửa chữa chính sách…) ;

. Thứ đến, phải phản kháng bằng những phương thế mà luật cho phép, như phản kháng bằng cách trao đổi với các cơ quan đại diện mình hay cơ quan đại diện chính phủ, bằng cách nhờ các phương tiện thông tin đại chúng lên tiếng, bằng cách khiếu nại và khởi tố với cơ quan tư pháp….

. Bước thứ ba là phản kháng mạnh hơn bằng sự bất hợp tác hay không hưởng ứng của mình đối với chính sách của chính phủ, bằng cách xuống đường biểu tình…
. Sau cùng là phản kháng mạnh nhất với sự bạo động cần thiết. Trong trường hợp này, phải cân nhắc cẩn thận mức thiệt hại và lợi ích có thể xảy ra. Giáo Hội Công Giáo chỉ coi đây là biện pháp cuối cùng khi mọi biện pháp khác đã thất bại và khi đã cân nhắc hầu chắc sẽ nắm phần thắng và có kết quả tốt hơn. Giáo Hội cũng cảnh giác không nên bạo động chỉ để trả thù hay để phù trợ cho một cá nhân hoặc một đảng phái nhất định, mà quên đi lợi ích của đông đảo quần chúng, cũng như không được bạo động hơn mức cần thiết vì có thể tái thiết từ những đổ vỡ đôi khi còn tốn kém và gây thiệt hại hơn là giữ nguyên trạng. Nếu là chính phủ đã tiếm quyền bất hợp pháp, nhưng sau nhiều lần thất bại trong việc đòi lại quyền hành, cũng như sau khi đã xác nhận những thành tích có thật của chính phủ này trong việc phục vụ dân chúng, và thấy có khả năng gây hại nhiều hơn nếu thay đổi chính quyền, thì thông thường ta đành phải chấp nhận chính quyền ấy. Tuy nhiên, đây không phải là sự chấp nhận vì tính hợp pháp của chính quyền mà là sự tương nhượng vì ích lợi của đất nước. Chính quyền này nên nhanh chóng hợp pháp hoá bản thân mình qua một cuộc tuyển cử mới.

4.4. Dựa vào cơ sở nào để phản kháng ? Dựa vào chính quyền lợi tự nhiên và căn bản của con người là được sống hạnh phúc và được tự vệ trước những đe dọa hạnh phúc, cũng như được liên kết với nhau để xây dựng cuộc sống hạnh phúc và để giúp nhau bảo vệ hạnh phúc. Thế nên, cấm tuyệt đối và một cách bất công mọi hình thức phản kháng cũng là một hành vi bất công nghiêm trọng. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, mọi phản kháng cũng đều kéo theo một tai hại không nhỏ cho cá nhân và xã hội. Vì thế, thay vì tiến hành lật đổ, đảo chính hay cách mạng, Giáo Hội mong muốn những sự cải tổ hay đổi mới hữu hiệu hơn. Và tốt nhất là xây dựng một đất nước dựa trên luật pháp công bằng, có những con người chu toàn nhiệm vụ của mình và hướng tới một sự phát triển ngày càng toàn diện hơn.

5. Tương quan giữa cộng đồng chính trị và Giáo Hội

5.1. Có người tóm tắt lịch sử mối tương quan giữa nhà nước với Giáo Hội Kitô Giáo thành những thời kì sau đây : trước hết là bách hại (thế kỉ 1-3), rồi công nhận sự có mặt (hoàng đế Constantinus) - thậm chí còn nâng lên hàng quốc giáo (thế kỉ 4, hoàng đế Theodosius), càng lúc càng lệ thuộc Giáo Hội (Giáo Hội trở thành “nhũ mẫu” trong mọi sự, không những trong tôn giáo mà cả trong xã hội) (nhất là vào thời Trung Cổ), bắt đầu tách dần khỏi sự bảo hộ của Giáo Hội – nhất là từ khi thấy Giáo Hội càng lúc càng sai lầm (thời Phục Hưng, thế kỉ 16), chính thức tách khỏi Giáo Hội và thậm chí uy hiếp Giáo Hội (thế kỉ 18, đặc biệt thời kì Aùnh Sáng), lạnh nhạt hay dửng dưng với Giáo Hội (tách biệt đạo đời ngày càng rõ, thành lập các nhà nước thế tục đúng nghĩa, từ thế kỉ 19 đến nay). Các sắc thái quan hệ này có thể được kiểm chứng nơi quan hệ giữa nhà nước Pháp và Giáo Hội Công Giáo Pháp. Mãi tới gần đây, nghĩa là sau Vatican II, người ta mới nghĩ tới việc tái hôn phối giữa Nhà Nước và Giáo Hội. Nhà Nước tôn trọng Giáo Hội nhưng cũng có một phần quyền trên Giáo Hội, ngược lại Giáo Hội tôn trọng Nhà Nước nhưng cũng có một phần trách nhiệm trên Nhà Nước. Một chủ nghĩa thế tục ôn hoà hay một chủ nghĩa thần quyền tương đối ra đời.

5.2. Tương quan giữa cộng đồng chính trị và Giáo Hội không phải chỉ là tương quan mang tính thực dụng, do hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi, mà là một tương quan căn bản xuất phát từ chính bản tính và mục tiêu của mỗi bên : cả hai đều là tổ chức xuất phát từ đòi hỏi của bản tính con người (con người vốn có bản tính xã hội – đòi liên kết với nhau trong mọi việc, và con người vốn không khép kín với mình và luôn mở ra cho vô biên), và như thế, cũng là những tổ chức do Chúa muốn (điều gì bản tính tự nhiên đòi hỏi cũng là điều Thiên Chúa Tạo Hoá muốn) ; cả hai đều phục vụ một đối tượng và một mục tiêu, dù hai bên có điểm nhấn mạnh khác nhau, làm việc theo những phương pháp khác nhau (cả hai đều nhắm giúp con người ngày càng hạnh phúc hơn theo như phẩm giá siêu việt của con người đòi hỏi : Nhà Nước chú ý hơn đến chiều kích nhân loại, Giáo Hội chú ý hơn đến chiều kích siêu việt; Nhà Nước nhấn mạnh tới những biện pháp nhân loại, Giáo Hội quan tâm tới ơn sủng. Thật ra, nói nhấn mạnh hơn có nghĩa là không loại bỏ phía bên kia mà chỉ là không quan tâm nhiều bằng). Chính vì thế, thay vì chạy trốn nhau hay tìm cách hạ bệ nhau, Nhà Nước và Giáo Hội chỉ có con đường duy nhất để tồn tại và hoạt động là hợp tác với nhau - không như một chiến thuật mang tính thời sự, mà như một đòi hỏi sinh tử và đời đời.

5.3. Thật ra, muốn xây dựng mối quan hệ giữa hai bên cho tốt đẹp và bền lâu, cả Giáo Hội lẫn Nhà Nước phải chấp nhận một cái nhìn chung về con người tới một mức nào đó : con người là một hữu thể vừa rất người vừa linh thiêng cách nào đó. Giáo Hội không thể bắt Nhà Nước chia sẻ quan điểm quá nặng tính tôn giáo về con người, cũng như Nhà Nước không thể bắt Giáo Hội chia sẻ quan điểm về con người chỉ mang tính trần tục. Giáo Hội có thể nhắc nhở Nhà Nước về chiều kích linh thiêng ấy của con người, cũng như Nhà Nước có thể làm Giáo Hội không quên chiều kích trần thế của con người. Đi từ quan điểm ấy, Giáo Hội không chỉ lên tiếng trong nhà thờ cho tín đồ của mình về những vấn đề nội bộ của mình; Giáo Hội còn có quyền và có bổn phận lên tiếng ngoài nhà thờ cho hết mọi người về những vấn đề chung của đất nước và dân tộc, nhưng dưới góc độ có liên quan tới chiều kích linh thiêng của con người. Nhà Nước không chỉ lên tiếng ngoài xã hội cho những người ngoài Giáo Hội về những vấn đề chung của đất nước và dân tộc ; Nhà Nước còn có quyền và có bổn phận lên tiếng trong khuôn khổ Giáo Hội cho cả các tín đồ và chức sắc của Giáo Hội về những vấn đề của Giáo Hội, nhưng dưới góc độ con người là một hữu thể xã hội (đọc lại hiến chế mục vụ chương IV hay “Đời sống cộng đoàn chính trị”, từ số 73 đến số 76). Nếu hai bên biết những giới hạn và chuyên môn của mình cũng như của nhau cách rõ ràng thì chắc là cá nhân và xã hội đã được thăng tiến tốt đẹp hơn nhờ sự cộng tác hữu hiệu ấy.

Kết luận :

Trước viễn tượng con người ngày càng trở nên khó phục vụ, xã hội ngày càng trở nên quá phức tạp, Nhà Nước và Giáo Hội không còn con đường nào khác là hợp tác với nhau như những người đồng hội đồng thuyền. Nhưng đã là người trên cùng một con thuyền thì không thể nào giành hết chỗ về phía mình hay giành chèo lái một mình, mà phải tương nhượng nhau, nghĩ đến nhau và giúp đỡ nhau, thậm chí sửa sai và chỉ vẽ nhau; sâu xa hơn, phải giúp nhau có “trí sáng và tâm ngay” trong mọi sự; có thế mới hy vọng sớm đưa thuyền về tới bến.

Lm. Pr. Đặng Xuân Thành

(Đại Chủng Viện Hà Nội)

NGUỒN : UBMVGIADINH
 

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 4

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 4

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 4
 

Làm sao phân biệt và giúp người kitô hữu phân biệt những biểu hiện đúng đắn của sự thờ phượng với những biểu hiện ‘mê tín’? Có những hình thức ‘mê tín’ nào đang dần dần phổ biến hiện nay? (đạo đức học tôn giáo hay giới răn 1,2 và 3)
 

Nhập đề :

Không phải chỉ từ khi bị các chủ nghĩa vô thần công kích, mà ngay từ khi xuất hiện, tôn giáo chân chính nào cũng thấy phải thường xuyên minh định bản chất thật và những hình thức biểu hiện thật của tôn giáo mình với những hiện tượng ngụy trang và những biểu hiện không đúng của mình. Nói thế có nghĩa là một đàng nguy cơ biến chất thành mê tín luôn chờ chực mọi tín đồ tôn giáo và vì thế, mọi tín đồ – nhất là giới lãnh đạo tôn giáo – phải luôn luôn cảnh giác và can thiệp kịp thời, nhưng đàng khác tôn giáo cũng đúng là một nhu cầu của con người. Như vậy, điều quan trọng là phải tỉnh táo và khôn ngoan để biết bỏ cái này nhưng vẫn giữ cái kia, “hắt nước bẩn đi nhưng không quăng cả cháu bé đang tắm trong chậu”.

Khai triển :

1. Thờ phượng, một việc làm thừa thãi, thậm chí có hại ?

Hai chữ thờ phượng thường ám chỉ những biểu hiện bên ngoài của tôn giáo, từ các việc đạo đức cá nhân (cầu nguyện, sùng kính, đọc sách thiêng liêng, hi sinh hãm mình…) đến các việc thờ phượng tập thể, thậm chí do chính Giáo Hội tổ chức và qui định (phụng vụ), và đến các bí tích (việc thờ phượng không những do Giáo Hội tổ chức và qui định mà đúng hơn, do Đức Kitô thiết lập – ít là ở mức sơ khởi – và đánh dấu các sự việc quan trọng trong đời sống người kitô hữu [đánh dấu việc sinh ra, được dạy dỗ và lớn lên, được nuôi sống, được tha thứ và giải hoà, khi ngã bệnh, khi phải gánh vác trách nhiệm trong xã hội – hôn nhân – hay trong Giáo Hội – truyền chức thánh]). Mặc dù được biểu hiện rất cụ thể bên ngoài, nhưng việc thờ phượng bao giờ cũng xuất phát từ một tâm tình trong lòng như tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa, yêu mến Chúa (ba nhân đức đối thần là linh hồn của sự thờ phượng). Công đồng Vatican II còn mở rộng các hình thức thờ phượng ra tới các hoạt động tông đồ và cả các sinh hoạt thế tục lớn nhỏ của đời sống kitô hữu. Đã là tư tế của Thiên Chúa do bí tích Rửa Tội và là tư tế trong mọi nơi mọi chỗ, nên bất cứ việc nào được người kitô hữu làm với ý thức trách nhiệm và phục vụ con người thật sự đều được kể là việc thờ phượng gián tiếp của người kitô hữu (hiến chế mục vụ của công đồng Vatican II, số 43).

Dù sao, việc thờ phượng đúng nghĩa vẫn là những việc mang tính tôn giáo rõ ràng. Và ở đây, người ta mới gặp thấy vấn đề : những việc thờ phượng trực tiếp ấy có thật sự cầnthiết và ích lợi cho cá nhân và xã hội hôm nay không ? Chúng ta không phủ nhận giá trị của các hoạt động bên ngoài của con người – nhất là những hoạt động phục vụ con người và phục vụ các giá trị của đời sống con người. Nhưng chúng ta cũng không được xem nhẹ các việc thờ phượng. Không phải chỉ vì đó là yêu cầu của luật lệ Giáo Hội, cũng không phải chỉ vì đó là một hoạt động đem lại nhiều ơn ích như tái lập sự thăng bằng cho con người và cuộc sống, giúp con người được bình an và sáng suốt, thậm chí có thể chữa bệnh và mang đến một số kết quả bất ngờ khác gần như phép lạ. Người kitô hữu làm việc thờ phượng, trên hết là vì đó là bổn phận tất yếu của người tin mình có liên hệ mật thiết với Thiên Chúa hay vì đó là hệ luận đương nhiên của người có đức tin hướng thần. Đã tin có Thiên Chúa và tin Thiên Chúa có quan hệ hết sức mật thiết với mình, người ta không thể không liên lạc với Ngài bằng đủ mọi tâm tình, lời nói, cử chỉ, hành động, thậm chí bằng cả con người và cuộc sống của mình. Người ta sẽ thấy rõ hơn sự cần thiết của tôn giáo và việc thờ phượng, khi nhận thức sâu sắc tự bản tính con người vốn là một hữu thể không khép kín với chính mình và với thế giới con người, mà mở ra với siêu việt và với đấng tối cao. Mở ra với đấng ấy cũng đồng thời là khám phá ra sự liên lụy cố hữu giữa hai bên, hai bên như đang ở trong một giao ước không biết có từ bao giờ, ràng buộc nhau và lôi kéo nhau.
Hiện tượng vô thần hay hiện tượng dửng dưng với tôn giáo hoặc hiện tượng nguội lạnh với việc thờ phượng có thể xuất phát từ những tai họa quá lớn trong đời người khiến người ta không nhìn ra được quyền năng và tình thương Chúa, cũng có thể sinh ra từ những gương xấu trầm trọng của những tín đồ “chuyên trách” và “chuyên môn” về tôn giáo. Nhưng cũng có thể là do người ta quá vụ lợi và thực dụng (chỉ tin và yêu quí những gì đem lại lợi ích trước mắt cho mình hay cho người khác), và nhất là do không nhận thức được tự bản tính con người đã có “tính tôn giáo” hay nhu cầu và khả năng hướng tới siêu việt. Càng ý thức chiều kích tâm linh hay tôn giáo là chiều kích căn bản của con người, càng thấy sự hợp lí của các hành vi tôn giáo và các việc thờ phượng. Như thế, thờ phượng chẳng những không thừa thãi và không có hại, mà còn hết sức cần thiết và hữu ích, đến nỗi gạt bỏ hẳn việc thờ phượng sẽ làm hại tới sự phát triển toàn diện của cá nhân và xã hội. Vì vậy, có người nói: xét cho cùng, chẳng ai là vô thần đúng nghĩa cả ; người ta chỉ vô thần với loại tôn giáo này hay hình ảnh thiên chúa này, nhưng lại hữu thần với loại tôn giáo khác hay hình ảnh một thiên chúa khác.

Đến đây, ta mới thấy sự đúng đắn của người Do Thái ngày xưa và của các kitô hữu sau này khi kiên trì trong đức tin tôn giáo. Lịch sử có thể chứng minh đã có rất nhiều thay đổi trong các biểu hiện tôn giáo của người Do-Thái và của các kitô hữu, nhưng trước sau như một người ta không bao giờ chủ trương không có Thiên Chúa và không có tôn giáo. Chẳng hạn người kitô hữu có thể bỏ qua phép cắt bì, không cử hành ngày sa-bát, có thể thay đổi một số lễ và một số nghi thức, bãi bỏ và thay thế các chức vụ của phẩm trật cũ trong Giáo Hội… Nhưng trước sau họ vẫn tin Thiên Chúa, vẫn thờ lạy Ngài. Nhiều khi những sự bãi bỏ và thay đổi ấy cần thiết tới mức không những giúp tránh được những hình thức thờ phượng dị đoan mê tín, mà còn giúp thanh lọc để Do-Thái Giáo và Kitô Giáo ngày càng tinh ròng hơn, đúng với bản chất của các tôn giáo ấy. Đặc biệt, người Do-Thái và người kitô hữu luôn tìm lời giải thích cuối cùng về mọi việc nơi ý định của Thiên Chúa : liên hệ với Thiên Chúa để tìm ra ý nghĩa cuối cùng của mọi sự vật.

2. Thờ phượng, một lãnh vực cần được thanh lọc và kiện toàn luôn

Có một nguyên nhân khá quan trọngï có thể giải thích tình trạng vô thần, dửng dưng tôn giáo hay nguội lạnh thờ phượng, đó là do những biểu hiện tôn giáo của nhiều người và nhiều nơi mang tính mê tín dị đoan quá rõ, khiến người ta có cảm giác chấp nhận tôn giáo và làm việc thờ phượng là đồng thời phải chấp nhận những hành xử hết sức điên rồ và phi nhân bản. Thế nên, không những để tránh những cái nhìn tiêu cực của những người ấy về tôn giáo và thờ phượng, mà nhất là để khuynh hướng dễ dãi và chuộng mới của các tín đồ không làm tôn giáo biến chất và thoái hoá qua những hình thức thờ phượng mê tín, tôn giáo nào – tôn giáo ngày xưa như Do-Thái Giáo thời Cựu Ước hay tôn giáo ngày nay như Kitô Giáo chúng ta hiện nay – cũng quan tâm bài trừ các hình thức thờ phượng mê tín, đồng thời làm mới lại các hình thức thờ phượng chân chính.

2.1. Một vài hình thức thờ phượng sai lạc

- Thờ đúng đấng phải thờ nhưng sai cách, như bằng những cách hoàn toàn phi lí hay vô nghĩa : thay vì tin rằng Chúa là đấng quyền năng và nhân từ đã cứu chữa mình khi thấy mình tha thiết với ơn ấy (sự tha thiết được bày tỏ qua việc chúng ta đọc kinh, uống nước “thánh”, hôn kính ảnh thánh…), người ta lại cho rằng sự cứu chữa ấy xuất phát từ chỗ mình đã đọc đúng kinh, đúng số lần yêu cầu, uống đúng thứ nước lấy tại nơi thánh, hôn đúng ảnh thánh, đúng số lần yêu cầu… Hay như bám chặt vào luật chữ đỏ cách cứng nhắc, giữ các lề thói tế tự cách cương quyết, tới mức cho rằng chính vì làm đúng như chữ đỏ hay lề thói qui định mà việc cử hành mới thành sự và mới đem lại ơn ích, quên rằng tất cả việc tuân giữ ấy chỉ nhằm bày tỏ lòng kính trọng và yêu mến, chỉ nhằm tăng phần trang trọng và trật tự, chứ không phải là nguyên nhân tác thành mang lại ơn thánh. Hoặc bằng những cách thế hết sức bất xứng : đọc kinh hay cử hành bí tích với những đồ dùng, y phục, tại những nơi chốn hết sức bẩn thỉu hay tội lỗi…

- Thờ sai đấng phải thờ, như thờ các thánh, các vĩ nhân và anh hùng như thể các ngài là thần linh đã sinh ra và đã cứu độ mình (thay vì chỉ tôn kính các thánh – ngưỡng mộ và noi gương bắt chước hay nhờ các ngài chuyển cầu với Thiên Chúa cho chúng ta do sự gần gũi của các ngài với Thiên Chúa), hoặc quí yêu và sùng bái các “thần tượng” (trong các lãnh vực nghệ thuật chẳng hạn) chỉ vì các thần tượng ấy đáp ứng một nhu cầu hay sở thích hoặc đam mê nào đó của mình, tới mức không kính trọng và yêu quí đủ các thần thánh và Thiên Chúa. Tệ hơn nữa là sùng bái và yêu quí các thụ tạo vô tri vô giác tới mức biến mình thành nô lệ thay vì làm chủ chúng (tôn thờ tiền bạc, sắc đẹp, quyền hành…).

- Hai hình thức thờ phượng trên đây, nếu được đẩy thật xa, sẽ trở thành mê tín hay dị đoan. Vì thế, mê tín hay dị đoan chẳng qua là những hành vi tin tưởng và thờ phượng hoặc không đúng cách (một cách phi lí và vô nghĩa hay một cách hoàn toàn bất xứng) hoặc đúng cách nhưng không đúng đối tượng (tin tưởng và thờ phượng những đối tượng không đáng được như vậy), ở mức thái quá. Thường thường, người ngày nay biểu lộ rõ sự mê tín của mình qua những việc kiêng giữ vô lí (kiêng ngày, kiêng tháng, kiêng số 13, kiêng một số đối tượng…) hay qua những việc bói toán (bằng lá bài, quả cầu thủy tinh, vị trí các ngôi sao, vật dụng liên quan đến người chết…). Khi dùng sức mạnh ma quỉ để tạo một hậu quả nào đó là đã thực hành ma thuật : nếu hậu quả đó là tốt thì gọi là ma thuật trắng, là xấu thì gọi là ma thuật đen.

- Phần lớn các thực hành mê tín và ma thuật như trên đây xuất phát từ hai nguyên nhân: một đàng do người ta không có đủ hiểu biết mang tính khoa học nên mới gán ghép sức mạnh to lớn cho các vật, các người, các sức lực tự nhiên trong khi chúng không có; đàng khác do người ta không dám sống đức tin nên mới vội vàng đi tìm các giải đáp tức thời. Ở mức độ nhẹ có thể là thực hành mê tín và ma thuật cho vui hay để thoả mãn sự tò mò ; ở mức độ nặng hơn là thực hành vì tin rằng chúng có giá trị; ở mức nghiêm trọng là thực hành say sưa tới mức cư xử và hành động hoàn toàn dựa vào đó.

2.2. Cần tỉnh táo phân biệt

- Tuy nhiên, cần tỉnh táo phân biệt mê tín dị đoan với những biểu tượng và nghi thức tôn giáo hay văn hoá : có nhiều biểu tượng và nghi thức dùng trong tôn giáo hay văn hoá đã dựa trên cơ sở lí luận xa xưa mà ngày nay không dễ dàng hiểu rõ hoặc chỉ người trong cuộc (trong tôn giáo hay trong văn hoá ấy) mới hiểu rõ. Chẳng hạn bắt tay hay ôm hôn là những cử chỉ văn hoá tượng trưng cho tình thân ái giữa hai người, ngày xưa người ta chọn làm như thế vì một lí do nào đó mà ngày nay dù không còn được mấy ai hiểu rõ nhưng bãi bỏ hay thay thế có thể còn tai hại hơn là cứ làm như xưa nay vẫn làm. Hoặc nước thánh, phép lành, dấu thánh giá… là những cử chỉ được dùng thường xuyên trong Kitô Giáo vì rất có ý nghĩa (dựa trên những cái nhìn của Kitô Giáo về Thiên Chúa, con người, thế giới…) hay dù không còn được nhiều người hiểu nữa nhưng vẫn có ý nghĩa hoặc cũng chẳng làm hại ai.

- Ngoài ra, còn cần phân biệt hành vi mê tín dị đoan với những khoa học, tuy còn mới nhưng rất phổ biến và căn bản, quen gọi là ‘siêu khoa học’ (‘parascience’) hay ‘siêu tâm lí’ (‘parapsychologie’). Chẳng hạn việc dùng hòn chỉ để dò tìm mạch nước, việc thần giao cách cảm, việc thôi miên để chi phối người và vật… Dù chưa được chứng minh hoàn toàn, nhưng nếu có cơ sở khoa học khách quan thì hành vi ấy không còn bị gán cho là mê tín dị đoan nữa. Đáng sợ nhất là người ta đã đi từ một giả thiết tiên thiên (rằng không có hiểu biết nào có giá trị hơn hiểu biết của khoa học ; rằng điều gì không chứng minh được bằng khoa học thì đó là điều mê tín dị đoan…) để kết luận rằng bất cứ thực hành nào khó hiểu hay hơi phi lí đều là mê tín dị đoan.

- Cũng nên phân biệt việc thờ phượng chân chính với các biểu hiện lòng đạo đức của quần chúng bình dân (đạo đức bình dân). Dù trong các biểu hiện ấy có nhiều chi tiết nên thanh lọc hay thậm chí bãi bỏ, nhưng bao lâu chúng chưa đi ngược hẳn đức tin Kitô Giáo và bao lâu các biểu hiện ấy không gây “sốc”, chúng ta cũng cần nâng niu giữ gìn, thanh lọc và thăng hoa các việc thờ phượng bình dân ấy. Chẳng những vì qua đó dân chúng có thể bày tỏ dễ dàng lòng sùng kính của mình, mà còn cho thấy tôn giáo bao trùm lên mọi lãnh vực và khía cạnh của đời sống con người. Cắt bỏ những gì là tình cảm, là chủ quan… không chắc sẽ làm tôn giáo tinh ròng hơn, mà có thể biến tôn giáo thành cằn cỗi khô khan, đến nỗi không còn làm ai hứng thú tham gia, như đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận xét và coi đó là một trong những nguyên nhân khiến đạo Công Giáo suy đồi ở nhiều nơi.

3. Một lời khuyên mục vụ

- Trong chiều hướng tôn trọng tự do của cá nhân và phát triển việc dân chủ hoá xã hội, các chính phủ ngày càng cho phép rộng rãi không những trong việc biểu hiện tín ngưỡng và tôn giáo, mà cả trong việc thành lập các giáo phái và các tôn giáo. Ngay cả nơi các quốc gia theo chủ nghĩa xã hội vô thần, các chính phủ cũng từ từ nhận thấy tầm quan trọng của tín ngưỡng và tôn giáo – như một hiện tượng văn hoá có vai trò giúp làm thăng bằng đời sống cá nhân và giúp tạo dựng sự ổn định xã hội. Nhưng cũng chính vì được tự do như thế, lại chưa được chuẩn bị kĩ lưỡng, nên không tránh khỏi tình trạng sinh sôi nảy nở nhiều hình thức tôn giáo và tín ngưỡng sai lạc bên cạnh những tôn giáo và tín ngưỡng đúng đắn. Không loại trừ những trường hợp tôn giáo và tín ngưỡng bị lạm dụng để phục vụ tư lợi của một cá nhân hay một phe nhóm nào đó.

- Thái độ căn bản của người mục tử Giáo Hội Công Giáo trước tình hình ấy là tỉnh táo – không hấp tấp khai trừ mà cũng không vội vàng tiếp nhận – như đã rút ra được từ cuộc “Tranh cãi về lễ nghi” giữa các nhà truyền giáo tại các giáo hội Á Châu vào thế kỉ 19. Không hấp tấp khai trừ vì trong tất cả các biểu hiện tôn giáo và tín ngưỡng ấy không hẳn là thiếu nền tảng khoa học, văn hoá và tôn giáo, càng không hẳn là thiếu thành tâm thiện chí của những người sáng tạo và những người hưởng ứng. Đó là chưa kể lí do : biết đâu Chúa Thánh Thần đang thổi qua những biểu hiện đó, cách nào chỉ có Ngài biết. Nhưng cũng không vội vàng tiếp nhận vì trong tất cả các biểu hiện ấy không loại trừ những khiếm khuyết và sai lạc, đôi khi rất nghiêm trọng, càng không loại trừ sự can thiệp kín đáo của những tính toán vị kỉ và thấp hèn. Cũng chưa kể lí do : biết đâu ma quỉ đang nhúng tay vào những biểu hiện đó để làm lung lạc các tâm hồn.

- Cũng trong tư thế tỉnh táo ấy, người mục tử Giáo Hội Công Giáo sẽ phân định bằng cách dựa vào các nền tảng giáo lí, các hiểu biết về khoa học và văn hoá, các phân tích về tâm lí và hoàn cảnh xã hội của những người liên hệ, để đánh giá đúng đắn giá trị của các biểu hiện tôn giáo và tín ngưỡng.

- Dù đã có sự đánh giá tương đối khách quan và có cơ sở, người mục tử Giáo Hội Công Giáo cũng nên xử sự khôn ngoan và nhân ái đối với các biểu hiện và phong trào ấy bằng cách bao lâu chưa tìm ra một hình thức biểu hiện tín ngưỡng và tôn giáo tốt hơn, hãy tập tương nhượng, đồng thời thanh lọc dần ; ngay cả khi đã tìm ra hình thức biểu hiện tốt hơn, vẫn cần áp dụng nguyên tắc tiệm tiến (cho mỗi địa phương, mỗi thành phần…) ; nuôi khát khao và giúp các tín đồ nuôi khát khao những biểu hiện tín ngưỡng và tôn giáo (thờ phượng) ngày càng tinh ròng hơn : không nặng tính cá nhân, không quá vật chất, không cầu lợi, không thực dụng…

Kết luận :

Cần mẫn và nghiêm túc phân tích để đánh giá và tìm ra những hình thức thờ phượng Chúa ngày càng tốt hơn, đó không chỉ là đòi hỏi tự nhiên trước nguy cơ thường xuyên của bất cứ hiện tượng văn hoá và tôn giáo nào (nguy cơ biến chất và xuống cấp) do tâm tính con người, mà còn là yêu cầu của việc đi tìm một sự thờ phượng ngày càng xứng đáng hơn với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ vì cảnh giác với mình và con người, mà còn vì yêu mến Thiên Chúa, nên mới siêng năng và cẩn thận quan sát, phân tích, đánh giá các biểu hiện của sự thờ phượng. Trong hành trình cam go và dai dẳng này, khôn ngoan và nhân ái hay tỉnh táo thôi chưa đủ, mà còn cần phải có lòng yêu mến sâu xa – yêu mến Chúa và muốn dành cho Chúa điều tốt nhất trong đời sống thờ phượng của mình.

Lm. Pr. Đặng Xuân Thành

(Đại Chủng Viện Hà Nội)

NGUỒN : UBMVGIADINH
 
 

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 3

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 3

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO  : ĐỀ TÀI 3


Đề tài ba : Thế nào là ý thức đúng đắn về tội? Những khám phá mới của các khoa Thánh Kinh, thần học, nhân văn và xã hội… có thể đóng góp gì vào quan niệm về tội? Làm sao phân biệt tội nặng và tội nhẹ theo quan điểm thần học luân lí hiện nay?

Nhập đề :

Không những các nhà lãnh đạo Công Giáo hiện nay đang lo lắng về tình trạng mất ý thức hay ý thức sai của giáo dân về tội (một trong các bằng chứng là sự sụt giảm số người xin lãnh bí tích Hoà Giải), mà cả các nhà lãnh đạo xã hội bây giờ cũng rất ưu tư trước tình hình phạm pháp ngày càng tăng của nhân dân – thậm chí phạm pháp vào độ tuổi rất trẻ và phạm pháp nhiều lần. Thế nên, khi biên soạn sách giáo lí hay tu đức, giáo trình thần học hay khảo luận luân lí, Giáo Hội Công Giáo luôn cân nhắc để trình bày thế nào về tội cho thuyết phục mà không sai sự thật của Mặc Khải.

Khai triển :

1. Đi tìm một quan niệm đúng đắn và đầy đủ về tội

Từ những quan niệm hiện hành trong xã hội…

- Tội là sự xâm phạm cách bất công tới quyền lợi của người khác : Đây là cách hiểu phổ biến nhất hiện nay vì nó đáp ứng sự nhạy bén ngày càng cao của con người tới người khác, quyền lợi và công bằng. Cái gì làm hại đến người khác đều là tội và chỉ khi nào làm hại tới người khác mới là tội. Nhưng như thế, hễ khi nào không làm hại tới người khác hoặc khi người khác bỏ qua không chấp nhất thì không có tội. Trong thực tế, các quyền lợi của người khác và các sự xâm phạm quyền lợi của người khác thường được minh định trong các bộ luật quốc gia. Thế nên, tội cũng chính là sự vi phạm các lề luật do Nhà Nước qui định. Cũng chỉ có tội khi quyền lợi người khác bị xâm phạm hay khi luật lệ Nhà Nước bị vi phạm. Và sẽ không có tội khi quyền lợi người khác được ghi trên giấy trắng mực đen của pháp chế quốc gia không bị xâm phạm, hay khi người khác hay cơ quan Nhà Nước không khởi tố, không kết án và đã tha bổng.

- Tội là sự phá hỏng nhân cách hay lí tưởng sống của bản thân mình: sở dĩ một người cảm thấy day dứt dằn vặt hay mạnh mẽ hơn, sở dĩ một người cảm thấy mình có tội là vì không hoàn thành nhân cách hay lí tưởng sống của mình. Chính vì thế, chỉ những hành vi nào cản trở sự thăng tiến của mình hay cản trở mình thực hiện lí tưởng của mình mới là tội; và chỉ cần được mình cho phép bắt đầu lại là mình đã được tha tội.

- Cả hai quan niệm trên đây, dù đã nhìn ra đúng một số hậu quả tai hại do tội gây ra (làm hại tới xã hội và bản thân mình), vẫn chưa đầy đủ và chưa sâu sắc. Vì trong tư cách là hữu thể mở ra cho tuyệt đối và vô biên hay trong tư cách là hữu thể có tôn giáo, tội còn gây hại tới quan hệ căn bản giữa con người với Đấng Tối Cao. Cũng chính vì bỏ qua chiều kích này mà trong hai quan niệm trên không có chỗ dành cho bí tích Hoà Giải (con người nhìn nhận tội trước mặt Chúa và chờ đợi Chúa tha thứ). Vì nếu tội chỉ là sự xúc phạm đến con người và xã hội, thì chỉ cần được con người và xã hội bỏ qua là hết tội, hoặc chỉ cần bồi thường cho con người và xã hội là xong. Đó là chưa kể đến trường hợp các luật lệ xã hội mà ai vi phạm là có tội không hẳn là những luật lệ công bằng và đúng đắn (trong trường hợp đó, nhiều khi giữ luật lại là gây ra tội), hay trường hợp lí tưởng mà cá nhân đã theo đuổi không thành công và vì thế có tội chưa hẳn là lí tưởng đúng đắn (trong trường hợp này, nhiều khi sống theo lí tưởng đó lại gây ra tội).

Đến quan niệm của Kitô Giáo về tội, dựa trên mặc khải Thánh Kinh

- Ngay từ đầu trong Kinh Thánh Cựu Ước, người ta đã luôn luôn nhìn tội trong tương quan với Thiên Chúa, chứ không chỉ trong tương quan với xã hội và bản thân. Thậm chí, nếu tội đụng chạm đến con người và xã hội thì tội chỉ bị khiển trách là vì con người và xã hội ấy là thụ tạo của Thiên Chúa, là hình ảnh và hiện thân của Thiên Chúa. Nói cách khác, bất cứ tội nào – dù bên ngoài có vẻ chỉ xúc phạm đến con người và xã hội – cũng đều là tội đụng đến Thiên Chúa. Tội không chỉ có chiều kích xã hội và cá nhân, mà còn có chiều kích thần học (liên quan đến Thiên Chúa). Và nếu đã có liên quan sâu đậm với Thiên Chúa thì chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng và quyền hạn kết tội chúng ta và ra hình phạt hay tha thứ. Ngay cả khi nói tội là vi phạm lề luật, người Do-Thái không hiểu đó như một bộ sách ghi các thứ luật, mà coi lề luật là chính Thiên Chúa, là chính ý muốn của Ngài, và vì thế đụng chạm đến luật là đụng chạm đến chính Thiên Chúa.

- Đức Giêsu còn minh định rõ hơn quan hệ giữa người phạm tội với Thiên Chúa là quan hệ giữa dân được cứu và Đấng Cứu Tinh, giữa con với Cha, giữa vợ với chồng, người yêu với người yêu, bè bạn với bè bạn… Những sự mô tả này càng cho thấy rõ tính nhân văn của tương quan con người và Thiên Chúa, cũng như tính nhân văn của tội: tội không phải là sự vi phạm một mệnh lệnh vô ngã hay một bộ luật vô hồn, mà là sự xúc phạm tới tình cảm của một con người rất thân thiết với mình. Chính vì tội là sự xúc phạm sâu xa tới một đấng gần gũi với chúng ta đến thế, nên tội thật kinh khủng và không có giá nào tương xứng để con người trả cho Thiên Chúa về tội của mình. Chỉ có Thiên Chúa tự nguyện tha thứ cho con người. Cũng vì muốn cho con người thấy được tầm mức kinh khủng của tội mà Thiên Chúa không ban ơn tha thứ một cách qua loa dễ dàng : Ngài tha thứ bằng cách để cho Con mình chết vì tội lỗi của chúng ta và chết thay cho chúng ta.

- Hiểu mọi tội đều là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, nhiều hay ít, nặng hay nhẹ, sẽ đưa chúng ta tới chỗ phải nhìn nhận tội trước mặt Chúa, chờ đợi Ngài đánh giá và tha thứ – qua bí tích Hoà Giải hay qua các việc làm khác cũng mang tính tôn giáo và cũng có hiệu quả tha thứ (sám hối đền tội và chay tịnh với tinh thần tôn giáo hay hướng về Chúa). Đây có thể là một trong những lí do giải thích tại sao hiện nay nhiều kitô hữu không “đi xưng tội”, dù ý thức rất rõ về tội của mình. Phải giúp các kitô hữu thấy rõ tương quan giữa tội với Thiên Chúa, họ mới hiểu ra cần phải “đi xưng tội”, tại đó họ không những được nghe sự đánh giá của Thiên Chúa về tội của họ (qua trung gian Hội Thánh hay linh mục giải tội) mà còn được chính Thiên Chúa tha thứ (cũng qua trung gian Hội Thánh hay linh mục giải tội).

2. Các khoa học về con người, đặc biệt khoa tâm lí chiều sâu, làm sáng tỏ thêm nhiều khía cạnh của tội, giúp ta đánh giá tội đúng đắn hơn

- Trong quá trình tìm hiểu cặn kẽ về con người, các khoa học khám phá ra mối tương quan hết sức mật thiết giữa con người và gia đình, con người và xã hội hay môi trường. Khác với con vật sớm có được sự độc lập trong cuộc sống, con người phải nhờ vả đến người khác rất nhiều, từ gia đình đến xã hội, từ khi bé đến khi lớn… mới được như hiện nay. Trong hành trình ấy, con người tiếp thu cả điều tốt lẫn điều xấu từ người khác và môi trường. Tiếp thu vừa nhiều vừa sâu vừa lâu dài như thế khiến con người cứ ngỡ mình đang hành động, tư duy và nói năng hoàn toàn do mình, không biết là mình đang hành động, tư duy và nói năng giống những người đi trước và những người chung quanh mình. Chính vì thế, tội không phải là một hành vi đơn lẻ hay bất ngờ, mà là kết quả của bao nhiêu điều đi trước và là một mắt xích trong một chuỗi rất dài. Bởi vậy, muốn phê phán công bằng tội của một người, người ta không chỉ phân tích cách đồng đại – tức là phân tích những gì có liên quan ngay lúc này với đuơng sự như ảnh hưởng của môi trường, dư luận, nghề nghiệp, tính khí… – mà còn phải phân tích cách xuyên đại – tức là phân tích con người qua một hành trình, đôi khi dài bằng cả một cuộc đời.

- Nói thế không có nghĩa là phủ nhận hết mọi trách nhiệm và tội của cá nhân, để qui kết cho môi trường và hoàn cảnh chung quanh, cho thế hệ và lịch sử đã qua… nhưng là để cảnh giác chúng ta cẩn thận hơn khi đánh giá một hành vi hay một con người, và nhất là để chúng ta lưu ý hơn tới việc cải tạo môi trường thay vì chỉ tập trung sửa chữa bản thân người có tội. Não trạng hay cơ cấu tội lỗi có mạnh đến đâu cũng không tước đoạt hết mọi tự do của con người, và vì thế không thể cải tạo môi trường mà quên sửa chữa cá nhân, cũng như không thể thay đổi cá nhân một con người mà không đồng thời tìm cách lành mạnh hoá môi trường.

3. Có tội nặng và nhẹ không? Làm sao phân biệt được các mức độ của tội?

3.1. Đã phân tích tội, chúng ta không thể không thấy có nhiều điều khác nhau giữa tội này với tội kia, tội lần này với tội lần nọ, tội của người này với tội của người kia. Chính luật pháp các quốc gia cũng phân biệt các mức tội để luận phạt cho công bằng. Bản thân mỗi người cũng ý thức thiệt hại nặng thiệt hại nhẹ do tội gây ra. Kinh Thánh cũng đã nhìn nhận có các loại tội khác nhau, các mức tội khác nhau, các hậu quả tội khác nhau, và vì thế các hình phạt khác nhau. Thế nên, không thể nói như một số người : tội nào cũng như nhau, hoặc tất cả đều nặng hay tất cả đều nhẹ.

3.2. Vấn đề còn lại là làm sao phân biệt đúng đắn các mức tội ấy? Người ta thường căn cứ trên hai điểm sau đây để phân biệt:

- Tầm mức của vấn đề mà chúng ta đã lỗi phạm: Thông thường, chỉ trong những hành vi có liên quan đến các vấn đề lớn chúng ta mới dồn tâm sức để suy nghĩ, tính toán, trù liệu và quyết định. Hay nói theo ngôn ngữ của thần học kinh viện, thường thường mô thức tăng theo chất thể, vụ việc càng nghiêm trọng người ta càng suy tư, bàn bạc nhiều, càng tham gia vào đó nhiều. Tuy nhiên, làm sao biết một vụ việc hay một vấn đề quan trọng? Có hai việc phải làm: một đàng tham khảo các ý kiến liên quan đến vấn đề, trong đó đáng kể nhất là lập trường chính thức của Giáo Hội (giáo lí) dựa trên mặc khải Thánh Kinh và truyền thống Giáo Hội, rồi tới ý kiến của các nhà thần học nghiêm túc, cả những quan điểm của các tôn giáo, các triết học, các xã hội…; đàng khác, phải dùng lí trí để biện biệt, căn cứ trên hậu quả lớn hay nhỏ mà hành vi ấy có thể tạo ra trên đời sống con người hay trên việc theo đuổi để thực hiện một ơn gọi.

- Mức độ dấn thân của chủ thể: song song với nhận thức tầm mức của vấn đề, đương sự còn phải xem lại mình đã tích cực tham gia vào hành vi ấy tới mức nào (hiểu biết và tự nguyện tham gia tới mức nào ? có bị những ngăn trở làm cho mình kém hiểu biết hay hiểu biết sai, và bớt tự do tự nguyện khi tham gia?). Thông thường, việc lớn thì chủ thể càng tích cực tham gia. Nhưng cũng có khi việc lớn mà lại tham gia rất hời hợt và gượng ép, hoặc việc nhỏ mà lại dấn thân tham gia tới cùng. Trong hai trường hợp này, tội không hội đủ hai yếu tố vừa kể ở mức cao (còn gọi là chất thể và mô thể) nên chỉ còn là tội nhẹ.


3.3. Mới đây, có người cho rằng ai cũng có một lựa chọn căn bản, tức là lựa chọn chi phối tất cả cuộc sống của mình, như sống độc thân tu trì hay kết hôn… Và nếu muốn đánh giá hành vi của một người, chúng ta không thể không liên hệ đến lựa chọn căn bản của người ấy. Chúng ta cũng sẽ hiểu đầy đủ hơn một hành vi của con người nếu liên hệ đến sự lựa chọn căn bản ấy, như ta sẽ hiểu rõ hơn hành vi vâng phục của một người nếu biết đó là người đã chọn đời tu và đã cam kết thể hiện lòng mến Chúa qua sự tùng phục của mình. Bằng không, chúng ta có thể đánh giá không đúng mức sự vâng phục của họ bằng cách cho rằng người ấy làm thế vì những lí do hay hoàn cảnh tự nhiên… Một khi đã nhận thức lại vị trí quan trọng của các lựa chọn căn bản trong đời sống một con người, có người cho rằng chỉ là tội nặng khi hành vi của người ấy làm người ấy bội phản lựa chọn căn bản hay khi hành vi người ấy làm trở ngại nặng nề việc thực hiện lựa chọn căn bản của mình. Nhận xét này rất sâu sắc, nhưng cũng có thể bị lạm dụng để cho rằng tôi có thể làm mọi sự không tốt miễn là chưa bội phản ơn gọi căn bản của mình, như tiêu xài hoang phí, giao du bừa bãi, tự ý tự quyết, miễn là chưa bỏ đời tu… Nên nhớ rằng không phải chỉ khi nào triệt tiêu hẳn sự lựa chọn căn bản, hành vi ấy của tôi mới là tội nặng. Mà chỉ cần làm vô hiệu hoá sự lựa chọn căn bản của mình, hay cản trở không cho tôi sống lựa chọn căn bản của mình (có sự lựa chọn ấy nhưng cũng gần như không!), các hành vi ấy cũng có thể trở thành tội nặng.

Kết luận :

Tội là một thực tại cũng có lâu như con người, đến nỗi nó gần như trở thành số kiếp của con người. Nhưng có lâu đến đâu và có trở thành số kiếp của con người tới mức nào, nó vẫn không phải là tất cả con người. Con người còn là một điều gì quí giá hơn nữa, và trong thực tế con người từ xưa đến nay vẫn đã, đang và sẽ làm được nhiều điều tốt đẹp. Đó là chưa nhắc đến phẩm giá, ơn gọi và định mệnh cao quí Thiên Chúa đã ban cho con người. Chính vì thế, khi tìm hiểu về tội, chúng ta không bao giờ tìm hiểu để buông tay đầu hàng mà là để tiến lên – trong khiêm tốn mà cũng trong tin tưỡng nữa.

Lm. Pr. Đặng Xuân Thành

(Đại Chủng Viện Hà Nội)

NGUỒN : UBMVGIADINH
 

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 2

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 2


 
MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 2

Đề tài hai : Có thể có xung đột giữa luật lệ (quyền bính) và lương tâm không? Nếu có, phải giải quyết thế nào? Phân biệt các mức độ hướng dẫn và ràng buộc của lương tâm.

Khi kết thúc đề tài thứ nhất, chúng ta đã thấy ba nguồn mà người kitô hữu phải dựa vào để tổ chức đời sống luân lí của mình: giao ước với Chúa, luật lệ và lương tâm. Trong đó, giao ước với Chúa là điểm tham chiếu quan trọng hơn cả, vì người kitô hữu giữ luật hay lắng nghe lương tâm nhằm để mỗi ngày mỗi tiến sâu hơn vào giao ước với Chúa, hay người kitô hữu chỉ giữ luật và lắng nghe lương tâm trong mức độ chúng phục vụ cho quan hệ của chúng ta với Chúa. Giao ước với Chúa hay quan hệ mật thiết với Chúa – cứu cánh của luân lí Kitô Giáo – cũng chính là chìa khóa để giải quyết các xung đột có thể có giữa lề luật và lương tâm.

1. Khi nào có xung đột giữa lề luật và lương tâm?

Lẽ ra không có sự xung đột giữa lề luật và lương tâm vì cả hai đều nhắm phục vụ giao ước giữa con người với Thiên Chúa và chỉ có giá trị trong mức độ chúng phục vụ giao ước ấy. Rất tiếc là trong thực tế không phải lề luật lúc nào cũng phục vụ mục tiêu ấy, và không phải lương tâm lúc nào cũng phát biểu theo chiều hướng có lợi cho mục tiêu ấy. Vì thế, xung đột sẽ xảy ra khi cả hai hay một trong hai bên (lề luật và lương tâm) không hoàn toàn phục vụ cho mục tiêu của luân lí, tức là giao ước giữa con người với Thiên Chúa hay sự kết hợp của con người với Thiên Chúa.

Lề luật xung đột với lương tâm khi lề luật hoặc không hoàn toàn phù hợp với ý muốn của Chúa hay không phục vụ cho mối quan hệ của con người với Chúa, thậm chí còn đi ngược ý muốn của Chúa hay kéo chúng ta ra xa quan hệ của mình với Chúa. Trong trường hợp này, chẳng những chúng ta không được nghe theo lu?t, mà đôi khi còn phải ra sức đấu tranh để tránh gây hại cho mình và cho người khác.

Lương tâm xung đột với lề luật khi lương tâm vô tình hay hữu ý chống lại yêu cầu của lề luật, có lúc vì yêu cầu của lề luật không phù hợp với ý Chúa, có lúc vì lương tâm muốn quyết định theo chiều hướng có lợi cho mình hay tập thể của mình, bất kể quyết định ấy đang đi ngược yêu cầu của lề luật.

Sự xung đột giữa lề luật và lương tâm thường được khái quát hoá thành sự xung đột giữa quyền hành và lương tâm, giữa người trên và người dưới. Giới lãnh đạo luôn muốn sự trật tự và ổn định, và coi lề luật là phương cách hữu hiệu nhất đem lại những điều ấy. Đang khi đó, người dưới luôn muốn tự do và độc lập, và coi lương tâm cá nhân là phương cách tốt nhất mang lại những điều này. Nếu hai bên chỉ nghĩ đến những kết quả mình ưa chuộng mà quên nhìn đến giao ước với Chúa hay quên nhìn đến mục tiêu chung sau cùng hay ích lợi lớn nhất của cá nhân lẫn tập thể thì thật khó giải quyết các xung đột. Lịch sử đã từng chứng kiến những đấu tranh giữa hai bên, đôi khi dẫn tới những cuộc đổ máu kinh khủng. Người ta quên mất lề luật hay quyền bính, lương tâm hay cá nhân chỉ là những “tôi tớ” phục vụ cho quyền bính và tự do lớn nhất là quyền bính của Thiên Chúa và được tự do làm con Chúa.
Và phải giải quyết thế nào?

Xưa nay thường có hai cách giải quyết sai lầm, xuất phát từ hai quan điểm khá cực đoan về lương tâm và nguồn gốc của lương tâm.

- Một là quan niệm lương tâm chỉ là sản phẩm của con người, cá nhân hay xã hội. Ý thức phân biệt phải trái, khả năng phê phán tốt xấu và thúc đẩy hành động, kèm theo những tình cảm thỏa mãn hay bất mãn, chỉ là kết quả của các nền giáo dục nhận được, kết quả của các nền văn minh và văn hoá xã hội như chủ trương của Durkheim, Spencer, hay kết quả của cả một quá trình thích nghi và làm việc như chủ trương của Carl Gustav Jung, hoặc chỉ là tàn tích của những cấm đoán từ gia đình và xã hội đối với các đòi hỏi mãnh liệt của các bản năng tự nhiên nơi con người như chủ trương của Sigmund Freud. Trong trường hợp này, lương tâm không thể là cơ sở đáng tin cậy khi quyết định các giá trị, thậm chí nhiều khi phải gạt bỏ lương tâm để con người được sống tự do và độc lập. Giới lãnh đạo thường dựa vào những chủ trương này để cho phép mình độc quyền quyết định và dập tắt mọi sáng kiến cá nhân.

- Hai là quan niệm lương tâm là tiếng nói bộc phát của Thiên Chuá và là khả năng thiên phú Thiên Chúa ban cho con người, giúp con người phê phán và quyết định. Cũng chính vì lương tâm là tiếng nói và khả năng có tầm mức siêu nhiên như thế, nên người ta phải tuyệt đối nghe theo lương tâm. Các cá nhân sẽ viện dẫn lí do này để bênh vực sự tự do của mình, thậm chí đôi khi còn để chống lại quyền bính. Không lạ gì các cá nhân thường thích nói tới lương tâm hơn.

- Người ta quên rằng dù phẩm chất của lương tâm giữa người này với người kia có khác nhau do tâm tính, hoàn cảnh và môi trường, lương tâm trước tiên vẫn là một khả năng đã có sẵn nơi con người khi con người được sinh ra. Vì làm sao con người có thể hoàn thành vai trò của mình theo như Chúa yêu cầu, nếu con người không có khả năng đọc ra ý Chúa, tức là lương tâm ? Ngược lại, dù có xuất phát từ Thiên Chúa cách sâu đậm cỡ nào, nhưng đã là của con người, lương tâm không thể không chịu các ảnh hưởng của con người và xã hội. Lương tâm cũng cần được đào tạo như bao nhiêu khả năng khác. Và chính trong quá trình đào tạo ấy, lương tâm thật khó tránh khỏi bị ảnh hưởng tốt hay xấu từ bên ngoài. Quyền hành hay luật lệ không là chuẩn mực duy nhất để tự cho phép mình gạt bỏ lương tâm của các cá nhân. Lương tâm cũng không phải là chuẩn mực tối thượng cho phép ta bỏ qua luật lệ hay quyền bính.
Trên nguyên tắc, cùng do một Thiên Chúa tạo thành và ban cho con người để hỗ trợ con người sống phù hợp với ý Chúa, lề luật và lương tâm không thể xung đột với nhau. Nhưng trong thực tế, luôn luôn có khả năng ấy vì những lí do đã nói trên đây. Lúc ấy, chúng ta sẽ ra sức dung hoà lề luật và lương tâm theo hướng phục vụ cho giao ước giữa con người với Chúa. Nếu đã cố gắng hết sức mà không được, bao lâu chưa thấy lí lẽ do lương tâm đưa ra chưa đủ mạnh và chưa được nhiều ý kiến khôn ngoan hậu thuẫn, thì bấy lâu cứ tuân theo lề luật, dù chỉ một cách hình thức. Vì dù sao ý kiến của cả một tập thể chuyên môn và trách nhiệm vẫn có khả năng đúng hơn ý kiến của một cá nhân không chuyên môn và trách nhiệm bằng. Chỉ khi nào không thể làm theo lề luật hay lề luật sai lầm quá rõ, chúng ta mới được phép bất tuân lề luật và nghe theo lương tâm, nhưng luôn sẵn sàng xét lại và nếu cần, thay đổi ý kiến. Luân lí Kitô Giáo coi đây là sự vâng phục theo đức hiếu thảo, chứ không theo đức tin đối thần, nghĩa là có thể chỉ “bằng mặt chứ không bằng lòng” hay vâng phục chỉ vì trật tự chung, chứ không phải từ sự xác tín và ưng thuận hoàn toàn của bản thân mình. Vì thế, lương tâm ở đây bất tuân không phải để chống lại đức tin đối thần hay chống lại Chúa (dẫn tới tội rất nặng), mà chỉ là hành động nhưng không thấy thỏa mãn với những sự giải thích và áp dụng của giới cầm quyền.

Nên nhớ rằng sự xung đột lương tâm rất cần được giải quyết, nếu không hoàn toàn thì ít là cơ bản, không phải chỉ vì để cho cuộc sống được yên ổn mà đó còn là điều kiện để tạo sự phát triển con người và thăng tiến xã hội toàn diện. Vì chưng, lương tâm không theo chuẩn mực hay lề luật do quyền bính nào đưa ra sẽ là lương tâm độc tôn dẫn tới tình trạng cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ và phi chuẩn mực. Ngược lại, lề luật hay quyền bính mà không được các lương tâm đón nhận sẽ trở thành chuyên chế, dẫn tới tình trạng ấu trĩ, thiếu trưởng thành và mất tính nhân linh trong đời sống con người và xã hội.

3. Những tình trạng lương tâm khác nhau dẫn đến những mức ràng buộc khác nhau

Lương tâm là khả năng giúp mỗi người phê phán các giá trị trong từng trường hợp cụ thể, để dẫn con người tới hành động. Chỉ tiếc là không phải lúc nào lương tâm cũng phê phán giúp con người và thúc đẩy con người hành động cách đúng đắn và xác tín. Vì thế mới có vấn đề lương tâm có thể lên tiếng với những cung giọng khác nhau và bởi đó ràng buộc cách khác nhau.

3.1. Lương tâm chắc chắn và đúng đắn là tình trạng lí tưởng nhất của lương tâm : không những lương tâm đưa ra một phán đoán cách xác tín (ý chí) mà còn tin chắc phán đoán ấy đúng đắn hay phù hợp với lề luật hoặc phù hợp với ý muốn của Chúa (lí trí). Trong trường hợp này, con người không những phải hành động theo lương tâm mà còn sẽ mắc tội chống lại Chúa khi không tuân theo : đã tin chắc phán đoán ấy là đúng với ý của Chúa mà không tuân theo thì chẳng phải là đã chống lại Chúa hay sao ? Ở đây, có khi lương tâm rất chắc chắc với phán đoán của mình nhưng không ngờ đó lại là phán đoán sai so với lề luật hay so với ý muốn của Chúa. Lúc ấy, cần phân biệt việc sai lầm này có được mình dự đoán hay tiên liệu hay hoàn toàn nằm ngoài hiểu biết của mình, có thể khắc phục được hay hoàn toàn nằm ngoài khả năng của mình, ít là lúc này. Nếu hoàn toàn nằm ngoài hiểu biết hay hoàn toàn không thể khắc phục được thì có thể coi sai lầm này nằm ngoài ý muốn và khả năng của mình, và vì thế có thể nghe theo toàn tâm toàn ý vì không biết (không biết thực sự và không có khả năng sửa chữa ngay) thì không thể kết tội.

3.2. Ngoài tình trạng trên đây, lương tâm có thể sai lầm và có thể không chắc chắn trong phán đoán của mình. Lương tâm có thể sai lầm như phóng khoáng quá (coi là không tội cái có tội, coi chỉ là tội nhẹ cái vốn là tội nặng) hay nghiêm nhặt quá (coi là có tội cả cái không tội, coi là tội nặng cả những cái chỉ là tội nhẹ). Lương tâm có thể không chắc chắn như bối rối (chẳng bao giờ yên tâm về phê phán của mình, kể cả khi phê phán ấy được người khác cho là đúng đắn) hay hồ nghi (không yên tâm về sự kiện ấy đúng hay sai, hoặc không yên tâm có luật ấy không và luật ấy có ràng buộc không, ràng buộc nặng hay nhẹ). Trừ trường hợp đã trở thành thói quen hay trở thành tật bệnh cần được sửa chữa một cách lâu dài và chuyên môn hơn, tất cả tình trạng lương tâm này đều có thể chữa trị : nếu do hiểu sai mà phóng khoáng hay nghiêm nhặt quá thì cần học hỏi, hay nếu do bạc nhược, ích kỉ hoặc lười biếng thì cần tổ chức lại đời sống và tăng cường đạo đức. Trong tất cả các trường hợp trên đây, chúng ta không được nghe theo lương tâm một cách vô điều kiện, mà luôn luôn phải bắt đầu bằng cách đình hoãn phê phán, kế đó là tham khảo và suy nghĩ thêm. Ở đây, nếu biết vận dụng các qui luật ưu tiên, ta sẽ có thể tìm ra câu trả lời thích đáng. Còn nếu đã vận dụng mọi phương cách mà không vẫn không tìm ra câu trả lời, đang khi đó tình huống lại không cho phép ta đình hoãn, ta có thể quyết định theo các nguyên tắc phản xạ hay theo phán đoán riêng của mình.

Kết luận :

Xung đột giữa lề luật và lương tâm là xung đột muôn thuở, song song với xung đột giữa quyền hành và tự do, giữa xã hội và cá nhân. Khôn ngoan nhất vẫn là nhìn ra giá trị và giới hạn của mỗi bên để lấy bên này bổ sung bên kia, nhất là tập trung cả hai vào một tổng hợp lấy giao ước với Chúa là đích điểm và trọng tâm. Bên cạnh việc ghi nhớ mục tiêu chung của lề luật và lương tâm, cá nhân mỗi người còn cần đào tạo lương tâm bằng cách không những cập nhật hoá các hiểu biết luân lí của mình, mà còn không ngừng thanh lọc tâm hồn mình. Phía người làm luật cũng cần thực hành các điều vừa kể và luôn nâng cao hiểu biết của mình về con người và xã hội hiện tại.

Lm. Pr. Đặng Xuân Thành

(Đại Chủng viện Hà Nội)

NGUỒN : UBMVGIADINH
 
 

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO

LỜI NÓI ĐẦU

Tập sách này không phải là một biên khảo hay một giáo trình về thần học luân lí Kitô Giáo hay đạo đức học Kitô Giáo, mà chỉ là tập hợp các bài trình bày tóm tắt một số đề tài của khoa thần học ấy, giúp các sinh viên thần học ôn tập lại bộ môn này sau một thời gian xa trường lớp và chuẩn bị quay lại với công tác mục vụ tại xứ đạo. Chính vì thế, sẽ không có sự trình bày chi tiết và đầy đủ của một giáo trình hay sự tham cứu rộng rãi và gợi mở của một biên khảo, nhưng chỉ ghi nhận những đường nét lớn của luân lí Kitô Giáo nói chung và luân lí Kitô Giáo khi khảo sát một số vấn đề quan trọng, như tôn giáo, chính trị, sự sống, tính dục và hôn nhân, kinh tế, truyền thông. Trong giới hạn ấy, có lẽ sách sẽ có ích hơn cho những ai muốn nhớ lại cách nhanh chóng và căn bản luân lí Kitô Giáo hoặc xa hơn nữa, cho những ai muốn làm quen với nền luân lí ấy trong bản chất và mục tiêu, cũng như trong khi giải quyết một số vấn đề đạo đức lớn của con người thời đại. Xin đừng quên điều này để đón nhận tập sách và thông cảm với những khiếm khuyết của tập sách. Hy vọng rằng với những hiểu biết căn bản mà tập sách cung cấp, độc giả sẽ hiểu rõ hơn con đường mà người Công Giáo thường mượn để đi tìm hạnh phúc – hạnh phúc cho mình và cho người khác.


NỘI DUNG

Luân lí Kitô Giáo đóng vai trò nào trong đời sống người kitô hữu và có những nét đặc thù nào so với các nền luân lí khác?

Có thể có xung đột giữa luật lệ (quyền bính) và lương tâm không; nếu có, phải giải quyết thế nào? Phân biệt các mức độ hướng dẫn và ràng buộc của lương tâm.-

Thế nào là ý thức đúng đắn về tội? Những khám phá mới của các khoa Thánh Kinh, thần học, nhân văn và xã hội… có thể đóng góp gì vào quan niệm về tội? Làm sao phân biệt tội nặng và tội nhẹ theo quan điểm thần học luân lí hiện nay?

Làm sao phân biệt và giúp người kitô hữu phân biệt những biểu hiện đúng đắn của sự thờ phượng với những biểu hiện ‘mê tín’? Có những hình thức ‘mê tín’ nào đang dần dần phổ biến hiện nay? (đạo đức học tôn giáo hay giới răn 1,2 và 3)

Đâu là ranh giới giữa sự phản kháng cần thiết đối với chính quyền và sự phản kháng bất hợp lí? (đạo đức học chính trị hay giới răn 4)

Đâu là những nguyên tắc lớn của luân lí Kitô Giáo liên quan đến vấn đề sự sống và sức khoẻ con người? (đạo đức sinh học hay giới răn 5)

Quan điểm tình yêu – đức ái của luân lí Kitô Giáo có thể giúp gì cho đời sống tình cảm và tính dục của con người hôm nay? (đạo đức học tính dục và hôn nhân hay giới răn 6 và 9)

Làm sao tiếp cận hai vấn đề lớn trong đời sống hôn nhân và gia đình hiện nay: vấn đề chung thủy và vấn đề sinh sản? (đạo đức tính dục và hôn nhân hay giới răn 6 và 9)
Quan điểm của luân lí Kitô Giáo về lao động và sở hữu đóng góp gì cho các quan hệ kinh tế xã hội giữa con người hiện nay? (đạo đức học kinh tế hay giới răn 7 và 10)

Thế nào là chân lí theo quan điểm luân lí Kitô Giáo và bổn phận phản ảnh chân lí của các phương tiện truyền thông xã hội hôm nay? (đạo đức học truyền thông hay giới răn 8)

Mười đề tài luân lý Ki-tô Giáo

Đề tài một :

Luân lí Kitô Giáo đóng vai trò nào trong đời sống người kitô hữu và có những nét đặc thù nào so với các nền luân lí khác?
 


Nhập đề :

Từ những ghi nhận về tình trạng luân lí suy đồi tại Việt Nam nói chung và trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng (suy đồi trong giáo dục và kinh doanh, y tế và sự sống, tính dục và hôn nhân, quyền hành và chính trị…), chúng ta thử đi tìm nguyên nhân. Không kể những nguyên nhân từ những ảnh hưởng của văn hoá và văn minh thời mới, phải kể đến tình trạng nhận thức sai lầm hay ít ra, chưa đầy đủ, về vai trò của luân lí và luân lí Kitô Giáo trong đời sống con người.

Khai triển :

1. Trong giáo huấn của Đức Giêsu và Hội Thánh Kitô Giáo sơ khai, chúng ta đã thấy vai trò hết sức quan trọng của luân lí trong đời sống cá nhân và tập thể kitô hữu
Theo giáo huấn của Đức Giêsu

- Ngay từ bài giảng đầu tiên hay đúng hơn, từ lần lên tiếng đầu tiên của mình, Đức Giêsu đã chú ý tới hành động trong tương quan với Chúa và với con người : “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng (= một hành động luân lí với Chúa và với con người), vì Nước Trời đã gần đến” (Mc 1,14-15).

- Kể từ đó, bất cứ tuyên bố nào của Ngài nhân dịp này hay nhân dịp khác đều kết thúc bằng lời yêu cầu đương sự phải làm việc tốt này hoặc việc tốt nọ (luân lí). Các phép lạ của Ngài cũng nhằm đưa đương sự tới chỗ tin vào Ngài và từ đó, hành động phù hợp với lòng tin ấy (luân lí).

- Thậm chí, đối phương đố kị và âm mưu hãm hại Ngài không phải vì nghe những lời tuyên bố chói tai của Ngài, mà vì dự đoán những hậu quả thực tiễn mà những lời tuyên bố ấy có thể đưa tới (luân lí).

- Nói cách khác, không như nhiều nhà thần học Cải Cách kết luận vội vàng, giáo huấn của Đức Giêsu không chỉ là những lời loan báo Tin Mừng vui vẻ mà còn là những đòi hỏi cam go phải đem ra thực hành, không chỉ mang màu sắc “tín lí” mà còn mang tính chất “luân lí” nữa. Môn đệ Đức Kitô không phải chỉ nghe, chỉ hiểu, chỉ vui vẻ phấn khởi, mà còn phải hành động, phải sống nữa.

Theo giáo huấn của Hội Thánh Kitô Giáo sơ khai

- Hội Thánh Kitô Giáo sơ khai đã tự mô tả mình là một cộng đoàn với ba sinh hoạt căn bản hay với ba chiều kích căn bản: lắng nghe lời Chúa và sự diễn giải của các tông đồ / ca tụng Chúa và cử hành lễ bẻ bánh (tiệc Thánh Thể) / sống với nhau như anh chị em bằng cách bỏ mọi sự làm của chung (x. Cv 2,42-47)

- Có người gọi một cách chuyên môn hơn ba sinh hoạt chính yếu hay ba chiều kích căn bản của Hội Thánh Kitô Giáo sơ khai là tin, cử hành và sống, hoặc sinh hoạt tín lí, sinh hoạt phụng vụ và sinh hoạt luân lí. Như vậy, luân lí là một trong những sinh hoạt chính yếu hay một trong ba chiều kích căn bản làm nên đời sống kitô hữu.

- Còn nếu đọc hết các sách của Tân Ước, đặc biệt các thư của các tông đồ, chúng ta sẽ thấy rõ song song với sự bành trướng của Giáo Hội, đồng thời đứng trước tình hình ngày càng phức tạp của cuộc sống, Giáo Hội càng ngày càng tỏ rõ quan tâm tới việc hướng dẫn đời sống luân lí của các kitô hữu và giải quyết các vấn đề luân lí của mình. Như thế, không những không thể gạt bỏ luân lí ra khỏi đời sống người kitô hữu, mà còn phải tìm cách thực hiện ngày càng tốt hơn sinh hoạt ấy, bên cạnh các sinh hoạt khác là hiểu biết đức tin và cử hành phụng vụ.

2. Luân lí trong tương quan với các khía cạnh khác của đời sống Kitô hữu

- Tuy nhiên, dù có quan trọng đến đâu, luân lí Kitô Giáo cũng không thể nào đứng độc lập một mình. Người kitô hữu không thể chỉ bằng lòng sống ngay lành mà thôi, cũng như đã không thể chấp nhận hiểu biết đức tin ngày càng sâu xa và cử hành phụng vụ ngày càng sốt sắng mà thôi. Đời sống luân lí của người kitô hữu không phải chỉ loay hoay với việc làm lành lánh dữ, mà còn phải làm lành lánh dữ theo giáo lí của Đức Kitô. Người kitô hữu không thực hành luân lí chỉ theo lương tâm và lương tri tự nhiên, mà quyết liệt thực hành luân lí dựa trên đức tin Kitô Giáo (luân lí dựa trên đức tin).

Ngoài ra, nỗ lực sống luân lí của người kitô hữu không phải là nỗ lực ở tầm mức con người, nhắm tới những kết quả trong thế giới con người, mà còn vươn tới tầm mức Thiên Chúa, nhắm tới những kết quả trong thế giới Thiên Chúa. Chính vì thế, sống luân lí phải đi đôi với cử hành các mầu nhiệm, nâng các sự việc của con người lên mức các mầu nhiệm qua đó Thiên Chúa cứu độ con người bằng cách cầu nguyện và kết hợp với Ngài (luân lí hướng tới và được hỗ trợ bởi ơn thánh, nhận được qua cầu nguyện và cử hành phụng vụ).

- Đây cũng là hướng giải quyết tình trạng suy đồi luân lí hiện nay trong Giáo Hội chúng ta: muốn giúp các kitô hữu sống tốt lành, phải cho họ biết cái nhìn của Thiên Chúa về điều tốt lành và phải tạo điều kiện cho họ được sự hậu thuẫn tối đa của Thiên Chúa bằng cách giúp họ bước vào thế giới Thiên Chúa từ đời này qua các cử hành phụng vụ và cầu nguyện. Nhiều kitô hữu sống luân lí bết bát có thể là do thiếu cố gắng và luyện tập, nhưng cũng có thể là do thiếu hiểu biết đúng đắn và cập nhật, và thiếu tham dự các cuộc cử hành hầu được tiếp xúc với Thiên Chúa. Các mục tử phải quan tâm cách đồng bộ tới cả ba sinh hoạt hay ba khía cạnh này, nếu muốn giúp giáo dân của mình có đời sống luân lí lành mạnh hợp ý Chúa. Đời sống luân lí được xây dựng trên hiểu biết giáo lí đầy đủ và tiếp xúc thường xuyên với Chúa (qua các bí tích và cầu nguyện).

3. Đâu là những nét đặc thù của luân lí Kitô Giáo so với các nền luân lí khác ?

Trong quá trình tìm hiểu luân lí Kitô Giáo, nhất là có đối chiếu với các nền luân lí khác, người ta khám phá ra một số nét riêng của luân lí Kitô Giáo cần phải được tôn trọng và phát huy.

3.1. Đó là một nền luân lí mang đậm nét tôn giáo hay chính xác hơn, mang đậm nét Kitô Giáo

Thật ra, không ai là không bị buộc và không tìm cách sống tốt lành, nghĩa là không ai là không có đời sống luân lí ở một mức nào đó. Chỉ có điều đó là điều tốt lành tới mức nào hay điều tốt lành theo viễn tượng nào hoặc dựa trên cơ sở nào. Người Cộng Sản theo đuổi điều tốt lành theo quan điểm mác-xít của mình. Các tín đồ các tôn giáo khác xây dựng đời sống luân lí của mình xa hơn nữa là dựa trên mệnh Trời : tốt hay xấu là tùy theo có hợp với mệnh Trời hay không. Còn người kitô hữu dứt khoát đánh giá điều tốt dựa trên giáo huấn, con người và cách sống của Đức Kitô, mà họ tin là hiện thân của Thiên Chúa hay là chính Thiên Chúa nhập thể. Vì thế, người kitô hữu không chỉ bằng lòng với điều tự nhiên cảm thấy tốt hay bằng lòng với điều mà thiên hạ cho là tốt hoặc chính mình nhận thức là tốt, mà phải cố gắng tìm ra điều Thiên Chúa quyết là tốt : “Tại sao anh gọi tôi là tốt lành, chỉ có Thiên Chúa là đấng duy nhất tốt lành?” (Mc 10,18).

3.2. Là một nền luân lí được giới thiệu cho con người qua tay Giáo Hội

Nói rằng luân lí Kitô Giáo dựa trên giáo huấn, con người và cách sống của Đức Kitô – nhưng là giáo huấn và cách sống của một con người sống cách đây hơn 2000 năm – cũng là giả thiết mỗi người sẽ phải dựa trên một cơ quan trung gian có thẩm quyền để hiểu giáo huấn, con người và cách sống ấy, hơn là chỉ dựa vào bản thân rất ích kỉ và chủ quan của mình. Theo lí tưởng, cơ quan trung gian này đã được chính Đức Kitô khi còn sống thiết lập và trao quyền. Cơ quan ấy chăûng những phải lo hoàn thiện mình trong vai trò ấy qua dòng thời gian, mà nhất là phải được chính Thiên Chúa bảo vệ và hướng dẫn. Trong thực tế, cơ quan này không phải là không thiếu sót trong trách nhiệm của mình. Nhưng nhìn chung, phải nhìn nhận cơ quan này (Giáo Hội Công Giáo gọi là Huấn Quyền hay quyền giáo huấn Giáo Hội) đã hoàn thành khá tốt vai trò của mình, nhờ luôn dựa vào nền tảng luân lí Kitô Giáo là giáo huấn, con người và cách sống của Đức Kitô, dựa vào cách giải thích của các đấng bậc đã may mắn sống sát với Đức Kitô (truyền thống các tông đồ và truyền thống các giáo phụ), cũng như nhờ luôn quan tâm và nỗ lực làm việc trong lãnh vực luân lí này.

3.3. Cũng là một nền luân lí bắt nguồn từ luân lí tự nhiên và cởi mở tiếp thu sự đóng góp của các nền luân lí và các khoa học khác của thời đại

Nếu chỉ dừng lại với hai điểm trên đây, có thể có người e ngại luân lí Kitô Giáo sẽ xa lạ với rất nhiều người. Kì thực, Thiên Chúa mà Đức Kitô và Giáo Hội dựa vào để nhận thức điều tốt điều xấu cũng là Thiên Chúa đã lập ra bản tính con người với những qui luật hướng dẫn đời sống của con người. Vì thế, luân lí Kitô Giáo chẳng những phù hợp với luân lí tự nhiên, mà còn triển khai cái vốn tiềm tàng trong luân lí tự nhiên ấy. Cũng chính vì ý thức về cội nguồn chung của hai nền luân lí ấy, nên các nhà thần học luân lí Kitô Giáo cũng luôn cởi mở tiếp thu sự đóng góp của các nền luân lí khác và của các khoa học nhân văn đương thời. Luân lí Kitô Giáo không chỉ đóng góp cho luân lí xã hội và thời đại, mà còn tiếp thu nhiều đóng góp của luân lí ấy.

Tóm lại, có thể nói luân lí Kitô Giáo là luân lí mang tính cởi mở hay đối thoại :
Cởi mở hay đối thoại với Thiên Chúa như mục tiêu cuối cùng mà luân lí muốn hướng tới, như nền tảng cuối cùng mà luân lí muốn dựa vào để bảo đảm sự đúng đắn và ràng buộc cho luân lí (mạc khải của Thiên Chúa, đặc biệt qua Thánh Kinh)

Cởi mở hay đối thoại với Giáo Hội như cơ quan trung gian mà luân lí cần có để hỗ trợ mình xác định mục tiêu cuối cùng, nền tảng sau cùng và các chuẩn mực của luân lí (giáo lí Giáo Hội hay lập trường Giáo Hội về các vấn đề)

Cởi mở hay đối thoại với các nền luân lí và các khoa học khác như các cơ sở cho luân lí tham khảo thêm hầu có được sự hiểu biết và nhận thức đúng đắn hơn về các giá trị luân lí.

4. Các nguồn cần liên hệ để thực hành luân lí

Một cách cụ thể, để thực hành và giúp người khác thực hành luân lí, người kitô hữu sẽ liên hệ hay tham khảo ba nguồn sau đây : giao ước với Chúa, lề luật và lương tâm.
4.1. Giao ước với Chúa : đây là cơ sở quan trọng nhất mà người kitô hữu cần lưu ý khi thực hành luân lí. Người kitô hữu có tuân giữ lề luật và lắng nghe lương tâm chính là vì muốn qua đó càng ngày càng đi sâu hơn vào giao ước với Chúa, bây giờ và mai sau. Không có chân trời hay viễn tượng này thì lề luật và ngay cả lương tâm cũng gây cảm giác nặng nề và bó buộc cho người kitô hữu. Hơn nữa, chính giao ước với Chúa sẽ là cơ sở biện minh cho giá trị của lề luật và lương tâm : luật nào hay tiếng lương tâm nào không giúp đưa người ta đi sâu hơn vào giao ước với Chúa đều đáng bị nghi ngờ, thậm chí cự tuyệt.

4.2. Lề luật : tuy nhiên, nếu không có lề luật hay các chuẩn mực khách quan thì người kitô hữu sẽ dễ rơi vào tình cảnh mơ hồ và lạc lối khi bước vào giao ước với Chúa. Chính các lề luật này sẽ cho họ biết phải làm gì để ngày càng giao ước thân mật hơn với Chúa.

4.3. Lương tâm : rất tiếc, lề luật chẳng bao giờ đủ vì trong cuộc sống con người có biết bao tình huống, mà mỗi người phải vận dụng lương tâm của mình để ứng dụng các lề luật vào các tình huống cụ thể ấy. Đó là chưa kể những lề luật sai, mà nếu không có lương tâm phê phán người ta rất có thể đã lạc lối.

Kết luận :

Rõ ràng là nếu muốn sống đúng phẩm giá con người thì không thể chỉ tìm điều nào có lợi hay thích thú, mà còn phải tìm kiếm những điều tốt hay những điều phù hợp với phẩm giá con người (luân lí). Con người không thể sống mà không có luân lí : con người ăn uống không chỉ tìm cái gì ngon miệng hay bổ ích, mà còn tìm điều nào xứng với phẩm giá con người. Trong tâm thức tự nhiên, con người đã luôn muốn điều tốt luân lí, huống nữa là trong tâm thức của những người được cứu độ. Đã thấy tầm quan trọng của luân lí như thế, cả trong ý thức tự nhiên lẫn trong ý thức tôn giáo, người kitô hữu chẳng những không né tránh luân lí, mà còn tìm cách xây dựng đời sống luân lí ngày càng tốt hơn, xứng với phẩm giá kitô hữu và khai thác những nét riêng của luân lí Kitô Giáo.

Lm. Pr. Đặng Xuân Thành

(Đại Chủng viện Hà Nội)

NGUỒN : UBMVGIADINH
 

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Ô CHỮ O5 NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ XXVI Năm 2011

Ô CHỮ O5 NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ XXVI Năm 2011
Với những nhân vật Thánh Kinh




NHỮNG GỢI Ý
 
01.  Sau khi đến gặp Chúa Giêsu, ông đã nói: “Thưa Thầy, Thầy chính là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Ítraen”.  (Ga 1,49)

02.  Tại bữa Tiệc ly, người môn đệ đã để đầu tựa vào ngực Chúa Giêsu là ai?(Ga 13,23)

03.  Người chị của ông Ladarô, người đã chết và được Chúa Giêsu làm cho sống lại. (Ga 11,1-14).

04.  Tại thành Philipphê, người phụ nữ tòng giáo van nài xin thánh Phaolô lưu lại nhà bà. (Cv 16,14-15).
         
05.  Chúa Giêsu ra đời thời ai làm Tổng trấn xứ Syria? (Lc 1,1-2)

06.  Vị tông đồ thất vọng vì bán Thầy mình tên là gì? Mt 27,3)
    
07.  Thời Chúa Giêsu, có một nhóm người lấy tên “Nhiệt Thành”, để chỉ họ là những người nhiệt thành với đường lối Chúa. Họ trông ngóng Thiên Chúa gởi đến cho họ vị Mesia. Họ nghĩ vị Mesia là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự như Đavít hay Giuđa Macabê, người sẽ dẹp tan mọi kẻ thù của Itraen. Nhóm Nhiệt thành tẩy chay mọi thoả hiệp với kẻ địch và nhiều khi họ lập các đơn vị xung kích để đánh quân La Mã.  Trong số 12 tông đồ của Chúa, có một vị  thuộc nhóm Nhiệt thành này. Vị ấy tên là gì ? (Mt 10,4ss)
    
08.  Vua Hêrôdê Ácrippa I cấm đạo gay gắt đã bắt tù các Thánh tông đồ và đã cho trảm quyết một vị tông đồ của Chúa. Vị được phúc tử đạo đầu tiên ấy là ai? (Cv 12,1-2)
         
09.  Ông Lêvi con Anphê, một người thu thuế được Chúa Giêsu kêu gọi làm môn đệ của Ngài, còn co tên gọi là gì? (Mt 9,9ss)

10.  Tác giả bức thư Giuđa còn có tên gọi là gì? (Gđ 1…)

11.  “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”. Người nói câu này là ai? (Ga 14,6)
         
12.   Người thành Bếtsaida, cùng quê với thánh Anrê và Phêrô, được Chúa Gêsu kêu gọi và đi theo Ngài. Không chỉ đến với Chúa một mình, ông tìm gặp Nathanaen và cả hai đã đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế như Môsê cùng các tiên tri nói tới. Vị ấy tên là gì ? (Ga 1,42-45)
    
13.  Cậu thiếu niên Êutykhô ngồi nơi cửa sổ nghe Thánh tông đồ giảng dạy và đã ngủ thiếp đi một giấc say. Vì ngủ gật, cậu đã chúi nhào xuống từ lầu 3 và đã chết. Nhưng ngài đã làm cho sống lại. Đó là ai? (Cv 20,7)

14.  Sau khi truyền tin cho tư tế Dacaria, sứ thần Gáprien truyền tin cho ai? (Lc 1,26-28).

15.  Trong danh sách các tông đồ của Chúa, có một người được gọi là Đyđymô. Đó là tên gọi của  ai? (Ga 11,16)

16.  Vì lòng nhiệt thành và yêu mến Chúa Giêsu, Thầy mình; nhưng cũng có lúc yếu đuối đã từ chối Thầy. Trong đêm Chúa Giêsu bị bắt, ông đã chối Thầy mình ba lần. (Ga 18,12..)

17.  Môn đệ của Chúa Giêsu và là anh ruột của Simon, còn gọi là Phêrô. (Ga 1,40)

Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?


LỜI GIẢI ĐÁP 
Ô CHỮ O4  NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ XXVI
Năm 2011

01. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II (xéo)
02. Thư Côlôxê (xéo)
03. Thánh Phaolô
04. Madrid
05. Tin Mừng (viết ngược)    
06. Lời Chúa
07. Bén rễ
08. Thiên Chúa 
09. Ân phúc
10. Mẹ Maria (viết ngược)
11. Thánh Thể
12. Sức mạnh


Ô CHỮ O5
 NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ XXVI

01.  Ông  Nathanaen (Ga 1,49
02.  Thánh Gioan (Ga 13,23)
03.  Bà Mácta (Ga 11,1-14).
04.  Bà Lyđia (Cv 16,14-15).
05.  Tổng trấn Quiriniô (Lc 1,1-2)
06.  Ông Giuđa Ítcariốt (Mt 27,3)
07.  Thánh Simon (Mt 10,4ss)
08.  Thánh Giacôbê (Cv 12,1-2)
09.  Thánh Mátthêu (Mt 9,9ss)
10.  Thánh Tađêô (Gđ 1…)
11.  Đức Giêsu (Ga 14,6)
12.  Thánh Philipphê (Ga 1,42-45)        
13.  Thánh Phaolô (Cv 20,7)
14.  Bà Maria (Lc 1,26-28).
15.  Thánh Tôma (Ga 11,16)
16.  Thánh Phêrô (Ga 18,12..)
17.  Thánh Anrê (Ga 1,40)

HÀNG DỌC :
NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ