Trang

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

Lời Chúa Mỗi Ngày Thứ Sáu Tuần 25 TN2



 Thầy Là Ðức Kitô
(Lc 9,18-22)


Suy Niệm:

Thầy Là Ðức Kitô

Trong số các trò chơi để trắc nghiệm mức hiểu biết của các em, có trò chơi đưa hình một danh nhân cho các em xem, sau đó yêu cầu các em nói thật vắn tắt và chính xác về nhân vật ấy. Em nào trả lời đúng sẽ được thưởng. Chúa Giêsu đã có lần áp dụng phương thức này với các môn đệ, chỉ khác ở chỗ nhân vật được đưa ra không ai xa lạ hơn là chính Ngài. Ðã có những câu trả lời được đưa ra, nhưng chỉ có câu trả lời của Phêrô là đúng, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vốn là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người. Những giả thuyết về Ngài đều từ từ bị chứng minh là sai. Có người bảo Ngài là Gioan Tẩy giả, nhưng trong cách sống và giáo lý của Ngài, có nhiều điểm khác với Gioan Tẩy giả; có kẻ bảo Ngài là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, nhưng ở đây cũng vậy, giáo lý và thái độ của Chúa Giêsu có nhiều điểm vượt quá và cắt đứt với giáo lý và thái độ của bất cứ ngôn sứ nào trong Cựu Ước. Dù đồng hóa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy giả, với Êlia hay với một ngôn sứ nào đó, tất cả đều giống nhau ở chỗ chưa có câu trả lời nào nhận ra Chúa Giêsu là nhân vật chính, còn các vị kia chỉ là người loan báo và chuẩn bị.
Chúa Giêsu đã bị dư luận quần chúng coi là một trong các vị tiền hô cuối cùng, cho đến khi Phêrô đưa ra câu trả lời chính xác: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa". Phêrô đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu chính nhân vật mà muôn dân mong đợi. Ngài là Ðức Kitô, có nghĩa là Ðấng hội tụ mọi hy vọng và chờ mong của con người, là Ðấng quyết định vận mệnh của dân tộc và cá nhân, là Ðấng nắm giữ và đưa lịch sử đến hồi kết thúc. Ðức Kitô có đủ mọi tư cách đó, bởi vì Ngài là Ðấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu linh cảm thấy lời tuyên xưng của Phêrô có thể bị giải thích sai lạc, nếu được tung ra cho mọi người biết; chính vì thế chẳng những Ngài cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai, mà kể từ đó Ngài còn đích thân nói rõ về tư cách Kitô của Ngài.
Xin Chúa cho chúng ta biết lặp đi lặp lại mỗi ngày lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa" để chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa.

(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 25 TN2
Bài đọcEccl 3:1-11; Lk 9:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử.
Sống trong trần gian, con người cảm thấy khả năng hạn hẹp của mình vì bị lệ thuộc vào trời đất, thời gian, hòan cảnh, và môi trường sinh sống. Nếu biết trước và họach định làm sao cho phù hợp với các yếu tố này, con người sẽ thành công; nếu không, sẽ nắm chắc phần thất bại. Khác hẳn với con người, Thiên Chúa luôn luôn làm mọi sự hợp thời đúng lúc vì Ngài biết mọi sự và không bị tùy thuộc vào bất cứ một yếu tố nào. Các Bài đọc hôm nay dẫn chứng những ví dụ cụ thể về hai sự khác biệt này. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thời nào việc đó. Chìa khóa thành công: phải biết 4 đúng: đúng thời, đúng nơi, đúng người, đúng chất liệu.

1.1/ Con người cần phải biết làm việc hợp thời đúng lúc để đạt được kết quả mong muốn. Người Việt-Nam chú trọng đến 3 yếu tố cần phải có để bảo đảm thành công trong bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời: thiên thời – địa lợi – nhân hòa; nếu thiếu một trong 3 yếu tố sẽ nắm chắc thất phần bại. 
(1) Thiên thời: là thời gian của Trời. Con người cần phải biết thời gian của Trời qua các hiện tượng và trật tự trong trời đất: nắng, mưa, gió, tuyết, xuân, hạ, thu, đông. Để dễ hiểu, chúng ta lấy một ví dụ về nông nghiệp: Biết những điều này sẽ giúp con người biết phác họa kế họach khi nào cầy đất, khi nào gieo mạ, khi nào cấy, bao lâu phải chờ đợi, và khi nào phải gặt. Người không hiểu biết thời gian của trời sẽ gieo khi phải gặt, và vì thế đã đi sai với thời gian của Trời, làm sao có kết quả được? Hơn nữa, con người còn cần phải kiên nhẫn chờ đợi sau khi đã gieo trong một thời gian cần thiết: không thể gặt sớm quá hoặc để lâu quá. Gặt sớm quá sẽ chưa đủ chín và để lâu quá sẽ ủng thối.
(2) Địa lợi: là cơ hội xảy đến với con người trên thế gian. Vẫn theo ví dụ về nông nghiệp, nếu con người mua được mảnh đất tốt: nằm chỗ không cao quá để khỏi bị khô cằn, không sâu quá để khỏi bị lụt lội. Rồi còn phải tùy thuộc vào phân bón, thuốc diệt sâu rầy… Nếu con người không biết nắm lấy những cơ hội xảy đến trong cuộc đời để biết cách đầu tư cho hợp thời thì cũng sẽ không thành công.
(3) Nhân hòa: là lòng người hòa thuận. Con người phải biết cách cư xử sao cho hợp tình, hợp lý, và hợp nơi chốn. Không thể cười nơi đám ma và khóc trong đám cưới như Sách Giảng Viên dạy: “một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy.” Hơn nữa, con người nào phải áp dụng cách cư xử đó; không thể áp dụng một cách cư xử cho hết mọi người. Sách Giảng Viên dạy: “một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà.” Lòng người rất phức tạp và thay đổi. Nếu không biết cư xử sao cho phù hợp lòng người cũng nắm chắc phần thất bại. 
1.2/ Trái với con người, Thiên Chúa luôn luôn làm mọi sự hợp thời và đúng lúc vì Ngài không lệ thuộc vào thời gian và thời gian của con người nằm trong tay của Ngài. Ngài cũng chẳng bị tùy thuộc vào cơ hội vì Ngài biết tất cả những gì xảy ra và Ngài tạo cơ hội cho con người. Ngài không bị lệ thuộc vào con người nhưng tất cả mọi người phải tùy thuộc nơi Ngài. Tác giả của Sách Giảng Viên xác quyết: “Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử.” 
2/ Phúc Âm: Đúng người: Thánh Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô! 
Câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” không phải chỉ quan trọng cho Tiểu Vương Hêrôđê mà còn quan trọng hơn cho các Tông Đồ, những người đang theo Chúa Giêsu. Nếu các Tông Đồ không biết đúng Ngài là ai thì làm sao các ông có thể tiếp tục sứ vụ của Chúa ở trần gian sau khi Chúa Giêsu từ giã cuộc đời để về với Chúa Cha? Nhất là khi các ông phải đối diện với những đau khổ và cái chết sắp tới của Ngài. Trình thuật của Luca đặt câu hỏi này trong bối cảnh Chúa cầu nguyện một mình, Ngài cầu xin Thiên Chúa để các Tông Đồ biết nhận ra Ngài là ai. 
2.1/ Câu hỏi đầu tiên Chúa đặt cho các ông: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlijah, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại." Tất cả những câu trả lời này tuy có nói lên được sự tôn kính và uy quyền của Chúa, nhưng vẫn không phải là câu trả lời Chúa mong muốn, vì những nhân vật này chỉ là những người dọn đường cho Đấng Thiên Sai tới mà thôi. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn câu hỏi thứ nhất: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa." Đây mới thực sự là câu trả lời Chúa Giêsu muốn nghe, vì các ông biết đích xác Ngài là Đức Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu để làm vua. Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai, vì người Do-Thái đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai khác với những gì Ngài sắp mặc khải cho các Tông Đồ. 
2.2/ Kế họach cứu độ của Thiên Chúa: Các Tông Đồ không chỉ cần biết Chúa Giêsu là ai, mà còn cần phải biết kế họach cứu độ của Thiên Chúa, vì cuộc Thương Khó của Ngài sắp diễn ra tại Jerusalem. Như những người Do-Thái khác, các ông đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai uy quyền, sẽ đánh dẹp tất cả các kẻ thù của người Do-Thái, cai trị họ trong công lý, và triều đại của Người sẽ vô tận. Nhưng kế họach cứu độ của Thiên Chúa thì rất khác với dân, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài lần đầu tiên: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy." Chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, không dễ cho các Tông Đồ hiểu và chấp nhận kế họach cứu độ của Thiên Chúa qua con đường Thập Giá. 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để đạt được kết quả như lòng mong ước, con người cần phải biết và làm đúng thời gian, đúng nơi chốn, và hợp lòng người.
- Để đạt được mục đích của cuộc đời, chúng ta cần biết Chúa Giêsu là ai, hiểu những gì Ngài mặc khải, và làm những gì Ngài truyền.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************




Anh em bảo Thầy là ai ?
Trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều quan trọng. Điều quan trọng là sống câu trả lời của mình. Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi đó. 
Suy nim:
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã đi cầu nguyện một mình,
trước khi đặt những câu hỏi quan trọng cho các môn đệ.
“Dân chúng nói Thầy là ai ?” (c. 18).
Ngài muốn biết dư luận nghĩ gì về mình.
Nói chung họ nghĩ Ngài là một ngôn sứ đầy quyền năng (x. Lc 24, 19).
Điều đó đúng nhưng không đủ.
Đức Giêsu mong nghe ý kiến của những người đã ở gần Ngài hơn.
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (c. 20).
Phêrô đại diện anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”
Câu trả lời này đúng hơn và đủ hơn,
nhưng cũng dễ gây hiểu lầm và chưa đến lúc cần công bố.
Chính vì thế Đức Giêsu đã cấm các môn đệ không được tiết lộ (c. 21).
Phêrô đã trả lời đúng, vì Thầy Giêsu quả là Đấng Kitô
hay còn gọi là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi từ bao đời.
Nhưng Phêrô có thể hiểu sai khuôn mặt của Đấng Mêsia đó.
Mêsia Giêsu không phải là người sẽ giải phóng Ítraen khỏi ách Rôma,
cũng không phải là người muốn nắm quyền lực trần thế.
Nhưng Ngài sẽ phải chịu khổ hình và bị giết chết bởi giới lãnh đạo (c. 22).
Mêsia Giêsu mang khuôn mặt đau khổ của Người Tôi Trung.
Phêrô đã đi theo Mêsia nào?
Nếu ông biết số phận bi đát đang chờ đợi Thầy của ông,
ông có còn muốn theo Ngài nữa không?
“Còn con, con bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu cũng hỏi từng người chúng ta như vậy, nhiều lần trong đời.
Tôi phải trả lời, vì tôi không nên đi theo Đấng mà tôi không biết là ai.
Tôi nghe câu hỏi trên ở mọi chặng đường của cuộc sống,
và có thể đưa ra những câu trả lời khác nhau, dựa trên kinh nghiệm,
bởi lẽ Đức Giêsu là một Mầu nhiệm không ngừng mở ra cho tôi.
Qua từng biến cố trong đời, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi Ngài.
Ngài vẫn là một, nhưng mang nhiều dáng dấp khác nhau khi đến với tôi,
để đáp lại những khát vọng sâu thẳm nơi trái tim.
Nhưng trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều quan trọng.
Điều quan trọng là sống câu trả lời của mình.
Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi đó.
Nếu tôi coi Ngài là Thầy, xin được ngồi nghe và để Thầy uốn nắn.
Nếu tôi coi Ngài như Bạn, xin được dành giờ để tâm sự, sẻ chia.
Nếu tôi tin Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người,
xin được cúi đầu thờ lạy trước tình yêu khiêm hạ.
Nếu tôi gọi Ngài là Chúa, xin được hiến trọn đời mình
để cùng Ngài phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Cha.
Nếu tôi gọi Ngài là Đấng Giải Phóng, xin Ngài cho tôi được tự do,
và cho tôi được cộng tác với Ngài giúp thế gian ra khỏi vòng nô lệ.
Cuối cùng, nếu tôi biết rõ Ngài yêu tôi cách độc nhất,
xin để cho đời mình đáp lại tình yêu.
Cầu nguyn:
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".

Cầu nguyện như Chúa

Lời tuyên xưng của thánh tông đồ Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay. Lời tuyên xưng đó chuẩn bị cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Chúa Giêsu, giai đoạn được bắt đầu cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại.

Ðoạn Phúc Âm được chia ra làm ba phần:

- Chúa Giêsu hỏi các tông đồ xem người ta nghĩ gì về chính Ngài và hỏi các tông đồ xem các ông nghĩ như thế nào về Chúa.

- Lời tuyên xưng của Phêrô: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa"

- Chúa Giêsu loan báo lần đầu tiên về cuộc thương khó của Ngài. Biến cố này cũng được kể như Phúc Âm theo thánh Marcô và Mátthêu, nhưng Luca có ghi thêm chi tiết đặc biệt, đó là việc Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ về thực thể mình là ai?

Chúng ta biết rằng thánh sử Luca luôn luôn ghi lại chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa. Chúa cầu nguyện khi lãnh nhận phép rửa của Gioan tiền hô để bắt đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng; Chúa cầu nguyện suốt đêm trước khi gọi riêng mười hai tông đồ; rồi Chúa cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ: "Các con nghĩ Thầy là ai?"; Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi dạy các tông đồ kinh Lạy Cha; Chúa Giêsu cầu nguyện nơi vườn cây dầu trước khi bước vào cuộc thương khó và Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá. Việc Chúa cầu nguyện cho những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa, mời gọi chúng ta tự vấn về đời sống thiêng liêng của mình: "tôi thường cầu nguyện lúc nào và trong những giây phút quan trọng của cuộc đời tôi có cầu nguyện hay không và cầu nguyện như thế nào?"

Biến cố Chúa Giêsu tra hỏi các môn đệ về thực thể Ngài là ai để cuối cùng đi đến lời tuyên xưng đức tin: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" là một biến cố quan trọng. Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi bắt đầu tra hỏi các môn đệ: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" để theo Chúa trọn vẹn, không cần biết rõ cái chết của Chúa cho bằng có được mối tương quan thân tình mật thiết với Chúa. Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ về giáo lý nhưng về chính mình, về chính thực thể Ngài là ai đối với họ. Và để trả lời được cho câu hỏi này thì cần phải trả lời hai điều: thứ nhất là biết Chúa và thứ hai là yêu mến Chúa. Ðây không phải là vấn đề biết Chúa một cách trí thức qua sách vở, nhưng là biết cảm nghiệm trực tiếp giữa người với người, giữa Chúa và đích thân mỗi người, biết Chúa như biết một người bạn; đây không phải là vấn đề giáo thuyết nhưng là vấn đề cụ thể con người, hoặc trực tiếp tiếp xúc với con người Chúa Giêsu Kitô, là Ðấng hằng luôn luôn hiện diện bên cạnh mỗi người chúng ta. Do đó, cần phải có đức tin và tình yêu thương thì ta mới có thể trả lời đúng cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Một người không có đức tin hay ít đức tin, sống nguội lạnh thì quả thực là khó để trả lời cho câu hỏi của Chúa.

Lạy Chúa,

Xin thương ban cho con được ơn trưởng thành trong đức tin và trong tình thương Chúa. Xin cho con luôn được trung thành với lời tuyên xưng "Thầy là Ðấng Kitô" để rồi có thể múc lấy từ đó sức mạnh để dấn thân phục vụ Chúa và anh chị em chung quanh trong mọi hoàn cảnh.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Môn đệ có cái nhìn đúng

Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa” (Lc. 9, 20)

Phải, môn đệ có cái nhìn đúng, môn đệ này chính là Phê-rô. Phê-rô này có lúc rất sáng suốt, có lúc lại té ngã lạc đường, thất vọng. Tuy nhiên chính ông đã xé được bức màn mầu nhiệm về con người của Đức Giêsu.

Một hôm, Đức Giêsu, như mỗi lần trước một biến cố quan trọng sắp xảy đến, Người đi cầu nguyện không xa các môn đệ lắm, các ông cũng tôn trọng những lúc Thầy chí thánh nói chuyện với Thiên Chúa. Tự nhiên, Người tiến đến với các ông và hỏi: “Đám đông nói Thầy là ai?” Tại sao Đức Kitô lại quan tâm lo lắng về dư luận quần chúng? tại sao Người coi đó là quan trọng? chả nhẽ Người hồ nghi về sứ mệnh của Người sao? sự oán ghét của đồng hương đối với Người là một thử thách khiến người bối rối đến nỗi phải tìm đến các môn đệ để tìm an ủi và nâng đỡ sao? hay Người sợ các ông sẽ bị lôi cuốn theo những kẻ đói nghịch đang công khai tìm mọi cơ hội truy lùng Người chăng?

Cần phải biết ý nghĩ thầm kín của Đức Kitô mới có thể trả lời tất cả các câu hỏi trên. Có phải Người lo âu hay chỉ muốn biết một cách chắc chắn người ta nghĩ gì về mình thôi chăng? bản văn của Thánh Lu-ca kể quá gọn và khô, không cho biết gì hơn nữa.
Các tông đồ cũng đơn giản trả lời Người: Kẻ thì bảo Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại nói là Ê-li-a hay một ngôn sứ thời xưa. Nhưng Phê-rô, người một ngày kia sẽ trở thành “sếp” hướng đạo các bạn, đã đứng lên trả lời Đức Kitô đã hỏi cảm nghĩ của các ông về Người rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đó chính là điều mà Đức Kitô muốn khẳng định về mình khi Người giải thích Kinh Thánh ở hội đường Nagiarét trong ngày sabát. Vậy Phê-rô đã hiểu và các bạn khác cũng thế! các ông đã không bỏ Người vì các ông biết Người như thế và các ông tin vào Người. Người hỏi các ông, tuy nhiên, Người vẫn im lặng về căn tính của mình. Người không muốn người ta hiểu lầm Người là Đấng Kitô nhất thời ở trần thế, nên Người nói thêm: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
GF.

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

THÁNH VINH SƠN PHAOLÔ, HIỂN TU

Hạnh Các Thánh

Ngày 27 tháng 9
THÁNH VINH SƠN PHAOLÔ, HIỂN TU

Các thánh là những người đã tâm niệm và sống hoàn toàn giới luật “mến Chúa yêu người”. Các thánh hiểu hơn ai hết rằng: “Làm vinh danh Chúa là tìm hạnh phúc cho tha nhân”. Vì thế, chúng ta không lạ gì thấy vòm trời Giáo hội lung linh nhiều ngôi sao bác ái! Thánh Vinh Sơn mà chúng ta đọc truyện hôm nay là một trong những ngôi sao đặc biệt ấy!…
Thánh nhân chào đời ngày 24 tháng 4 năm 1581 tại làng Rouy, một làng nhỏ xinh xinh gần kề bên thành phố Dax. Thánh nhân thuộc gia đình trung nông, cha là Gioan Phaolô, và mẹ là Betran Moras. Cả hai là những công dân uy tín, những tín hữu đầy đức tin. Vì thế, dù hoàn cảnh kinh tế chật vật, ông bà cũng gây nên một gia đình hạnh phúc với sáu mặt con, hai trai bốn gái mà Vinh Sơn là con thứ ba.
Vinh Sơn lớn lên với tinh thần đơn sơ, để thông cảm với mọi người, nhất là cảnh tần tảo sớm hôm của cha mẹ. Đó phải chăng là mầm non bác ái Chúa đã sớm trồng vào tâm hồn cậu. Vì thế cậu không ngần ngại giúp đỡ cha mẹ trong những công việc vừa sức. Chưa đầy tám tuổi, cậu đã dẫn chiên đến những đồng cỏ non xanh, rạch nước suối trong. Dẫn chiên về, cậu giúp mẹ thu xếp việc nhà, như nhào bột, kín nước… Song đối lại với tinh thần trọng việc xác, Vinh Sơn còn có một trí khôn minh mẫn, nhiều sáng kiến, trổi vượt hơn anh chị em và các bạn cùng tuổi. Thấy cậu có tư chất thông minh, ông bà Phaolô không ngần ngại hy sinh công việc và tiền bạc cho con theo học. Trí đã sáng lại cần mẫn, Vinh Sơn học chưa đầy sáu tháng đã chiếm giải nhất và trổi vượt các bạn. Nhưng để bảo đảm việc học, để giúp phần nào số chi tiêu của gia đình, Vinh Sơn đã đánh bạo xin một chân làm việc trong xưởng đóng giầy…
Trí thông minh và đời sống nhân đức của Vinh Sơn mỗi ngày một sáng tỏ như ánh bình minh buổi đẹp trời. Nhờ đó, dù mới 15 tuổi, ngài đã được cha hiệu trưởng thuộc dòng thánh Phanxicô giới thiệu với đức giám mục, xin cho nhập hàng giáo sĩ và chịu phép cắt tóc. Ngày 23.9 năm 1600, vừa lúc Vinh Sơn 19 tuổi, Bề trên gọi thầy chịu chức linh mục. Sau đó, cha Vinh Sơn vẫn được tiếp tục học tại Đại học đường Saragossa và Tôlôsa. Suốt mười năm cần cù với sách vở, cha chuyên nghiên cứu khoa giáo sử, thần học, Kinh thánh và xã hội học.
Cha Vinh Sơn chịu chức linh mục vào giữa thời Giáo hội Pháp suy đồi: bản phúc trình của Đức Hồng Y đặc sứ Rêđixiđê đệ lên Đức Clêmentê VIII (1592-1605), cũng đủ cho chúng ta thấy rõ tình trạng Giáo hội Pháp bấy giờ đã đồi bại đến mức nào! Thêm vào đó, cảnh nghèo đói và tội ác mỗi ngày một lan tràn, thay thế cho tình thương và nghĩa cử. Trước thảm cảnh điêu tàn và vô luân ấy, những người có tâm hồn bác ái làm sao khỏi mủi lòng! Tinh thần bác ái của Phúc âm lúc này dâng cao trong tâm hồn cha Vinh Sơn. Thông cảm nỗi khổ cực của dân chúng, nhận thức đời sống quá tầm thường của giáo sĩ, cha Vinh Sơn buộc mình không sống xa hoa, hay chạy theo mốt của thời đại. Cha nỗ lực hoạt động xin Chúa thay đổi tình trạng đau thương…
Trước khi cha Vinh Sơn bắt tay vào việc cải cách đời sống các linh mục, người ta kể rằng Chúa Quan phòng đã dun dủi cho một góa phụ thành Tôlôsa cống hiến cho cha tất cả gia tài. Với món tiền đó, cha Vinh Sơn bắt đầu cuộc hành trình sang Phi châu truyền giáo và cứu đỡ những người bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bắt. Trên đường vượt trùng dương, cha phải vượt qua nhiều gian lao, bão táp và nguy hiểm. Dầu vậy vẫn không thoát, con thuyền của cha vô tình lọt vào ổ phục kích của quân cướp. Cha Vinh Sơn bị bắt bán cho một ngư ông. Nhưng vì cha không quen nghề, ngư ông lại bán cha cho một chủ hãng luyện kim khí, là một tín đồ trung thành của Hồi giáo.
Mấy tháng sau, ông chết, vợ ông lại bán cho một người Pháp tên là Gautier, một linh mục phá giới và hiện sống với ba vũ nữ. Thời gian vắn vỏi nhưng đời sống của cha Vinh Sơn đã có nhiều ảnh hưởng trong gia đình chủ nô. Khâm phục đời sống thánh thiện của cha, ông Gautier đã hối hận về cuộc đời quá khứ và quyết trở về với Thiên Chúa. Chính ông đã xuất của đem cha Vinh Sơn trở lại đất Pháp. Sau hai năm lưu lạc, sống vất vưởng nơi quê người, cha Vinh Sơn sung sướng trở về Pháp và được tháp tùng Đức Khâm sứ sang Motôriô, sang Rôma. Ngài lưu lại đấy học thêm thần học và triết lý.
Nhưng học chưa hết chương trình thì Đức Hồng Y Ossat gọi cha về Paris. Kỳ này dù bị bệnh, cha Vinh Sơn cũng không ngừng việc truyền giáo. Cha đã khuất phục được nhiều chúa trùm thệ phản trở lại đạo công giáo. Nhiều phụ nữ quí tộc, nghe lời cha cởi áo đời xin vào tu viện. Hơn thế, công chúa Magarita Valois, con vua Henri II, nhận cha làm cha linh giám. Nhờ sự dìu dắt của cha, công chúa mỗi ngày một thêm thánh thiện và bác ái. Công chúa đã giúp cha nhiều tiền bạc để thực hiện công tác xã hội như giúp đỡ người nghèo, các bệnh nhân và cô nhi quả phụ…
Thời này, cha Vinh Sơn giao tiếp thân mật với Đức Hồng Y Berulle và cha Bourdoise. Với tình tri kỷ theo tinh thần Chúa Kitô và nhờ ơn Chúa, sau những lần tĩnh tâm, ba vị quyết tâm giúp nhau truyền giáo theo ba phương diện: Đức Berulle kiên tâm lập dòng “Anh em rao giảng” (Oratores); cha Bourdoise hiến thân làm tông đồ cho chính hàng giáo sĩ Pháp, và sau cùng lập một cộng đồng ở nhà xứ Nicôla. Riêng cha Vinh Sơn, cha đã đáp lại trung thành ơn kêu gọi đi giúp những người nghèo khổ. Địa điểm hoạt động đầu tiên của cha là Clichy, một xứ đạo vừa bé nhỏ vừa rất khô khan. Nhưng nhờ sự tận tâm và gương sáng của Cha, xứ Clichy dần dần tăng tiến về cả tinh thần lẫn vật chất. Ai có thể kể được những kết quả truyền giáo cha Vinh Sơn đã gặt hái được tại đây! Địa điểm thứ nhì của cha vừa rộng rãi hơn, vừa thuận lợi hơn cho công việc hoạt động là Chantillon. Hưởng ứng lời cha kêu gọi, nhiều gia đình quí phái dâng nhà cửa để cha lập cơ sở cải huấn những người xấu nết, làm bệnh viện thâu nhận các bệnh nhân, và mở hội quán dạy giáo lý cho những người tân tòng.
Cán bộ của cha hầu hết là những thanh nữ thuộc gia đình trâm anh thế phiệt, hay những thanh niên đã đứng tuổi và có hạnh kiểm tốt. Tại Clichy cũng như tại Chantillon, họ là những đoàn viên tiên khởi và cốt cán của hội “Bác ái” mà ngày 22.9.1623, Cha Vinh Sơn được Đức Tổng Giám mục Paris cho phép thành lập. Nhờ ơn Chúa, hội phát triển mau lẹ sang các miền lân cận. Hai tiểu tổ ở Clichy và Chantillon ví được như hai rạch khe nhỏ chảy trên sườn đồi mà ngày nay, nhờ ơn Chúa Quan phòng, đã thành con sông lớn toả ra nhiều nhánh, mang nước bác ái thấm nhuần mọi dân tộc, mọi tầng lớp nhân loại…
Theo ý muốn của cha Vinh Sơn, phận sự của hội là thương giúp người nghèo, lấy Chúa Giêsu làm bổn mạng, với khẩu hiệu căn bản: “Hãy thương yêu như Cha Ta hằng thương yêu”.
Hoạt động bác ái của cha Vinh Sơn khiến nhiều người phải thán phục. Trong số những người có cảm tình sâu xa nhất, ta phải kể ông Philippe Emmanuel Gondi, tổng giám đốc trại tù khổ sai ở Pháp. Ông giúp cha có đủ điều kiện lui tới viếng thăm đám người trong ngục tù. Cha cầm lòng sao được trong cảnh sống thiếu vệ sinh, thiếu cơm ăn áo mặc, thiếu những nhu cầu cần yếu để sống xứng đáng nhân phẩm và địa vị người con của Thiên Chúa. Cha nỗ lực hoạt động, với sự cộng tác của đoàn con bác ái và sự ủng hộ nhiệt liệt của các người hảo tâm. Thiên Chúa và các đấng thay quyền Người tỏ ra rất bằng lòng với công việc truyền giáo của cha. Theo lời yêu cầu của nhiều công chức cao cấp, ngày 7.11.1619, Hoàng đế Luy ký sắc lệnh chính thức cử cha Vinh Sơn làm tổng tuyên úy các trại giam. Cha có đặc quyền lựa chọn các cha tuyên úy khác cho mỗi trại. Bằng nhẫn nại, hy sinh, và bác ái, cha Vinh Sơn đã chu toàn nhiệm vụ, đem về cho Chúa nhiều linh hồn.
Một đối tượng nữa lôi cuốn tâm hồn bác ái của cha Vinh sơn là tình trạng sa sút của Giáo hội Pháp đương thời. Theo các sử gia, tình trạng ấy xảy ra là do hàng linh mục hầu như mất tinh thần trách nhiệm. Gia nhập hàng giáo sĩ đối với các vị không có nghĩa là để chấp nhận những mệt nhọc phiền toái, mà là để được thuộc về “giai cấp thứ nhất trong vương quốc Pháp”. Các vị đó không được đào tạo kỹ lưỡng: trình độ chỉ ở mức biết đọc biết viết, thêm vào đó một vài khái niệm về các nghi thức. Các vị chỉ học những nghi thức ấy để làm những cử chỉ, chứ không để có một phong cách sống xứng chức linh mục. Thành ra, tại các thành phố, các linh mục và đan sĩ tràn ngập, sống nhàn rỗi, trở nên có thể nói là sa đoạ. Chỉ tạiParis đã có đến mười nghìn linh mục như thế! Tại các làng mạc miền quê, bao vị chủ chăn gây gương mù gương xấu, dốt nát, lười biếng. Các vị nổi tiếng vì nết xấu hơn là nhân đức: có những lần các vị được khiêng từ quán rượu về nhà xứ vì đã quá chén. Cho nên giáo hữu không được học hỏi về đức tin, không biết thế nào là bổn phận kitô hữu. Ngay trong các trường học công giáo nội trú, cũng có học sinh lên rước lễ lấy bánh thánh làm keo dán...
Trước tình trạng đó, cha Vinh sơn rất đau lòng. Sau khi bàn bạc với thánh Giám mục Phanxicô Salê, Hồng Y Désulle, linh mục Olien. Cha quyết định tụ tập một số linh mục đạo đức, có tâm huyết, có học thức tương đối về thần học, lập thành một tu hội truyền giáo (Congrégatin de la mission). Tu hội thành hình vào năm 1625, và phát triển khả quan. Ngày 12.6.1633, Toà thánh gửi sắc chỉ “Salvatonin nostri” đặt nền tảng pháp lý cho tu hội. Mục đích của tu hội là huấn luyện thanh niên thành những linh mục tốt, có nhân đức và khả năng, để truyền giáo trong dân chúng. Trung tâm tu hội đặt tại giáo xứ Saint Lajare, do đó các thành viên có tên gọi là Lajaristes.
Dầu bận bịu với tu hội, cha cũng không quên giới nghèo khổ và bệnh nhân. Cha tìm cách kéo dài công việc cha đã làm cho họ. May mắn, cha gặp được cô Louise de Marilla, một phụ nữ quý phái ở Paris. Gọi là cô nhưng thật ra Lonise là một quả phụ. Cô nhận cha Vinh sơn làm linh hướng: một bà quý phái Paris làm con thiêng liêng một linh mục giai cấp quê mùa chất phác. Nhưng cả hai đã làm nên một công trình ngoại hạng. Đó là dòng tu Nữ Tử Bác Ái (Filles de la Charité). Hội dòng nhóm lên từ năm 1633 và được công nhận năm 1655. Khác với các dòng nữ đương thời phải tu trong nội vi kín, dòng Nữ Tử Bác Ái dấn thân vào đời săn sóc bệnh nhân, người nghèo khổ, trẻ em bị bỏ rơi. Đó là dòng nữ đầu tiên vào đời, không nội vi kín trong Giáo hội. Dòng thành công mỹ mãn vì hợp với nhu cầu thời đại và con người muôn thuở. Hiện nay dòng có trên 40.000 nữ tu và hoạt động tại gần 80 quốc gia trên thế giới. Trên danh nghĩa, thánh nữ Lonise de Marilla là nhà sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái, nhưng thực chất dòng lại là công trình của thánh Vinh sơn Phaolô. Cho đến nỗi, qua bốn thể kỷ, người ta vẫn gọi đó là dòng của thánh Vinh sơn Phaolô.
Ngoài hai hội dòng đó, tinh thần bác ái của cha Vinh sơn còn trải sang ba tổ chức bác ái gây tiếng vang khá rộng. Đó là tu hội Anh em thánh Vinh sơn Phaolô (Frères de Saint Vincent de Paul), tu hội Bác ái (Fils de la Charité) và hội bác ái thánh Vinh sơn Phaolô (Conférence de Saint Vincent de Paul). Hội này dành cho giáo dân thực thi bác ái trong quần chúng, cũng đã lan tràn khắp thế giới.
Nhiệm vụ truyền giáo, nêu cao ngọn đèn bác ái và hướng dẫn lớp người đau khổ về với Chúa đã khiến cha Vinh Sơn hết dẻo dai: sinh lực cha mỗi ngày một mòn yếu, thêm vào đó cha còn phải mang chứng bệnh phong thấp bất kham. Lúc đầu con bệnh còn nhẹ, cha có thể làm lễ và chủ tọa các buổi họp đoàn “con bác ái”; nhưng năm 1660, bệnh trở nên trầm trọng, cha Vinh Sơn nằm liệt trên giường, chỉ rước Mình Chúa như của ăn đàng. Thấy cha quá đau yếu vì cơn bệnh cốt khí với những ung nhọt mọng nước vàng, nhiều người đến thăm tỏ dấu thương hại, nhưng cha Vinh Sơn vẫn tươi tỉnh, điềm nhiên nói với họ: “Ôi! Chúa còn chịu đau đớn hơn tôi gấp ngàn vạn lần”. Cha chịu như thế cho đến chiều ngày 27.9.1660, thì được Chúa cất về trời cách êm ái. Cha hưởng thọ 84 tuổi. Tiếng chuông báo tử ngân vang khắp xứ, gợi lên trong lòng mọi người một nỗi buồn thấm thía. Ngày 28.9, ngày lễ an táng di hài cha Vinh Sơn, quang cảnh phố xá vô tình trở nên nhộn nhịp. Trên các nẻo đường từng đoàn người chen nhau đến viếng xác và mộ cha. Họ tin tưởng vào lời bầu cử của cha trên nơi vĩnh cửu.
Mà thực, lòng chân thành ước nguyện của họ đã được đáp lại bằng nhiều phép lạ. Ở đây chỉ xin đan cử vắn tắt vài trường hợp: Một chị dòng thánh Biển Đức là Monmiraille phải chứng nhọt kinh niên rất đau đớn và thối tha. Chị đã được khỏi cách lạ lùng nhờ lời cầu nguyện và quyền phép của cha Vinh Sơn. Ông Phanxicô Richer, một thương gia ở Paris, bị bệnh đau màng óc lâu năm. Ông chạy chữa đã nhiều nhưng vẫn không khỏi, thế mà chỉ sau một giờ cầu nguyện bên mộ cha Vinh Sơn, ông đã được khỏi hoàn toàn.
Chuẩn nhận lòng sùng kính cha Vinh Sơn mỗi ngày một phổ biến trong giáo dân, Giáo hội, năm 1727, nhằm ngày lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII truyền ghi Á Thánh Vinh Sơn vào sổ các vị Hiển Thánh. Sau cùng Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, năm 1885, lại đặt thánh Vinh Sơn làm bổn mạng các phong trào từ thiện.
Giáo hội đã đặt cha Vinh sơn lên bàn thờ, đã tôn cha làm bổn mạng các phong trào từ thiện không những vì nhận thấy huân công xứng đáng của cha, nhưng còn muốn cho mọi người theo gương thánh nhân, thực hiện bác ái, như ngài đã noi gương chính Chúa Kitô vậy.

Thứ Năm 27-9

Thánh Vinh-sơn Phao-lô

(1580?-1660)
Thánh Vinh-Sơn Phao-lô

C
ảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt Vinh-sơn để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà bấy giờ, việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi.
Chính nữ Bá Tước de Gondi (có người đầy tớ được Vinh-sơn giúp đỡ) đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Lúc đầu Cha Vinh-sơn quá khiêm tốn nên không nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này, nhưng sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai, hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh-sơn. Các linh mục này, với lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc.
Sau này Cha Vinh-sơn tổ chức các nhóm bác ái để trợ giúp tinh thần cũng như thể chất của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của Thánh Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái, "mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố." Ngài huy động các bà giầu có ở Balê để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, Vinh-sơn là một người hay cáu kỉnh -- ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ "rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng." Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Ðức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh-sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ Thánh Vinh-sơn.

Lời Bàn

Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ -- đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinh-sơn Phao-lô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.

Lời Trích

"Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Người thấy bạn không tôn kính Người đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Người, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát(Thánh Vinh-sơn Phao-lô, Thư Từ).

Bài đọc 2 
Ngày 27 tháng 9: Thánh Vinh-sơn Phao-lô, linh mục. Lễ nhớ
Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục, rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập Tu Hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập tu hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Kitô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.
Phải ưu tiên phục vụ người nghèo
Trích bút ký của thánh Vinh-Sơn Phao-lô cho các Nữ tử Bác ái.

Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị người Do-Thái coi là cớ vấp phạm; với tất cả những điều đó, Người tự xưng là Đấng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo: Đức Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính chúng ta cũng phải cảm nghiệm điều đó, và phải xử sự như Đức Ki-tô là quan tâm đến người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ. 
Quả thật, Đức Ki-tô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ; vì thế, bất cứ điều gì tốt hay xấu làm cho kẻ nghèo, Người cũng coi như làm cho chính mình. Khi Thiên Chúa yêu thương những người nghèo túng thì cũng yêu thương cả những ai yêu thương họ, vì khi ai thân thiết với một người nào thì cũng yêu thương cả bạn hữu của người ấy hoặc những kẻ giúp đỡ người ấy. Bởi thế, chúng ta hy vọng, vì người nghèo, Thiên Chúa sẽ thương yêu chúng ta. Vậy khi thăm nom người túng thiếu hay nghèo khổ, chúng ta hãy cố gắng hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như thánh Phao-lô tông đồ, khi người nói : Tôi trở nên tất cả cho mọi người. Vì thế, một khi thực sự rung cảm trước những ưu tư và khốn cùng của tha nhân, chúng ta hãy cố gắng nài xin Thiên Chúa tuôn đổ tình lân tuất và lòng xót thương vào tâm hồn chúng ta. Và xin Người giữ mãi cho luôn đầy tràn. 
Phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn. Nếu trong giờ nguyện ngắm ban mai, chị em phải đi phát thuốc hay giúp một người nghèo túng nào đó, thì cứ yên tâm mà đi đến với họ, và dâng cho Thiên Chúa việc phải làm như lo nguyện ngắm vậy. Đừng băn khoăn hay mặc cảm là mình có tội vì đã bỏ nguyện ngắm mà giúp người nghèo. Quả thật, Thiên Chúa không bi lơ là nếu vì Thiên Chúa mà người ta tạm rời xa Người, nghĩa là bỏ công việc của Thiên Chúa là cầu nguyện mà làm một công việc khác tương đương.
Vậy khi chị em bỏ đọc kinh cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng chị em phục vụ Thiên Chúa. Chắc hẳn đức ái cao trọng hơn bất cứ lề luật nào và tất cả đều phải hướng về đức ái. Vì đức ái là bà chúa tuyệt vời, nên phải chu toàn điều bà truyền dạy. Vậy chúng ta hãy phục vụ người nghèo với một tâm tình đổi mới, và hãy ra sức tìm kiếm những kẻ bị bỏ rơi, vì họ đã được ban cho chúng ta như để làm chủ chúng ta.
Lời nguyện 
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Vinh-sơn Phao-lô linh mục, mọi đức tính xứng bậc tông đồ để thánh nhân phục vụ người cùng khốn và đào tạo hàng giáo sĩ. Xin cho chúng con biết nghe lời người dạy, bắt chước việc người làm mà xả thân vì bác ái. Chúng con cầu xin...
(trích giờ kinh sách lễ nhớ  thánh Vinh-Sơn Phao-lô-bản dịch của nhóm CGKPV)


Lời Chúa Mỗi Ngày Thứ Năm Tuần 25 TN2


Dấu Hỏi Cho Người Khác
(Lc 9,7-9)
Suy Niệm:
Dấu Hỏi Cho Người Khác
Trong những dòng cuối cùng của Thông điệp "Hòa Bình Dưới Thế", Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa một người Kitô hữu chân chính: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là tụ điểm của tình yêu, là men sống động giữa anh em mình. Người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò của mình, khi càng sống mật thiết với Chúa. Người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho và vì người khác. Một mảnh sao băng chỉ chợt lóe lên rồi lịm tắt, nhưng cũng đủ thu hút con người về một góc trời nào đó; một chút men bé nhỏ trong khối bột, nhưng cũng đủ làm dậy cả khối bột. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu, có sức thu hút, tạo chú ý, quấy rầy lương tâm người khác, nếu cuộc sống ấy là một cam kết, một dấn thân trọn vẹn.
Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Qua lời nói, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng Vua Hêrôđê, ông tiến thêm một bước là muốn đến gặp Chúa Giêsu.
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không ngừng đặt ra cho chúng ta, và qua chúng ta, Ngài tiếp tục đặt ra cho mọi người. Qua cuộc sống của mình, người Kitô hữu cũng phải là một câu hỏi cho những người chung quanh; và dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên dồn dập khi cuộc sống ấy là một hành trình đi ngược dòng đời.
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
Xin Chúa ban thêm sức mạnh, để trong cuộc sống chứng tá, chúng ta luôn xác tín rằng chúng ta đang sống nhờ Chúa, với Chúa và cho Chúa.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm Tuần 25 TN2

Bài đọc: Eccl 1:2-11; Lk 9:7-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lẫn lộn!

Có biết bao nhiêu những lẫn lộn trong cuộc đời: lẫn lộn giữa vàng thật và vàng giả, giữa sự thật và sự dối trá, giữa người lương thiện và kẻ ác nhân… Đã không biết bao lần chúng ta đã phán đóan sai lầm vì không học được chữ ngờ! Bài đọc I hôm nay tập trung trong các lẫn lộn về cuộc đời. Phúc Âm tường thuật những lẫn lộn của nhiều người và của tiểu vương Hêrôđê về Chúa Giêsu.



KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lẫn lộn về cuộc đời: Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời?

(1) Ông Qôhelét mở đầu sách bằng nhận xét của ông về cuộc đời: "Phù vân của mọi phù vân. Phù vân của mọi phù vân. Tất cả là phù vân.” Chữ “phù vân” dịch từ tiếng Do Thái (hebel), có nghĩa là hơi nước hay hơi thở. Chúng thóat ra ngòai, bay lên không, rồi tự tan biến vào không gian mà không ai thấy. Tiếng Hy-Lạp của bản LXX là “mataio,thj,” có nghĩa hư ảo hay không có giá trị gì cả. Cuộc đời của con người giường như cũng thế: mỗi người có mặt trên dương gian trong khỏang một thời gian, cố gắng tạo cho mình một cái gì đó, nhưng rồi cũng qua đi chẳng để lại một vết tích gì cả.



(2) Kết luận trên đến từ những quan sát tỉ mỉ của ông Qôhelet về cuộc đời con người và các biến chuyển của thiên nhiên trong vũ trụ:

- Con người ra sức làm việc để tạo cho mình có một tài sản, nhưng khi xuôi hai tay nằm xuống thì có mang được gì đâu; tất cả đều phải để lại cho người khác hưởng. Con người qua các thế hệ nối tiếp nhau qua đi, nhưng tài nguyên vẫn tồn tại trong thế giới.

- Các biến chuyển của thiên nhiên trong trời đất: “Mặt trời mọc rồi lặn; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên. Gió thổi xuống phía Nam, rồi xoay về phía Bắc: gió xoay lui xoay tới rồi gió đi; gió trở qua trở lại lòng vòng. Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển cũng chẳng đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục.”

- Chẳng có gì mới lạ dưới ánh mặt trời vì tất cả đều là bổn cũ sọan lại như lời Qôhelet nhận xét: “Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.”

Nêu lên tất cả các nhận xét trên đây, ông Qôhelet có mục đích giúp mỗi người chúng ta dừng lại để đặt câu hỏi cho những gì chúng ta đang theo đuổi. Câu hỏi tối quan trọng cho mọi người: Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời? Chắc chắn ý nghĩa của cuộc đời không hệ tại ở chỗ có tài sản vì tất cả rồi cũng qua đi. Ý nghĩa của cuộc đời cũng không hệ tại ở chỗ tìm ra các điều mới lạ, vì cái gì con người tưởng mới đã xảy ra trong lịch sử; và con người chẳng làm thay đổi được những gì đã có sẵn trong thiên nhiên. Ý nghĩa của cuộc đời cũng chẳng hệ tại ở chuyện lưu danh cho hậu thế, vì tất cả các việc làm dù có tốt đến đâu rồi cũng bị rơi vào quên lãng.

2/ Phúc Âm: Tiểu Vương Hêrôđê lẫn lộn về Chúa Giêsu: từ chỗ muốn được gặp đến chỗ khinh thường sau khi gặp.

Tiểu vương Hêrôđê Antipas là một trong 3 người con của Vua Hêrôđê Cả và bà Malthrace. Ông được vua cha cho cầm quyền hai vùng: Galilee và Perea. Trong Tân Ước, ông luôn được gọi là người đã tống ngục và chém đầu Gioan (Mat 14:3-12 = Mk 6:17-29; Ant 18.5.2) và chất vấn Chúa Giêsu khi Ngài ra tòa tại Jerusalem (Lk 23:6-12). Hai người con khác của ông là Philip và Archelaus. Philip là tiểu vương vùng phía Đông Jordan, từ Caesarea cho tới Bethabara. Archelaus là tiểu vương của Samaria và Judea.

(1) Ông nghe những người khác nói về Chúa Giêsu: Là tiểu vương của vùng Galilee, nơi mà Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và dùng đa số thời gian của Ngài trong 3 năm để rao giảng; chắc chắn ông đã nghe những lời đồn thổi rất nhiều về Chúa Giêsu. Có người nói: "Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy," vì tính tình của Ngài cũng nhiệt thành và thẳng thắn như Gioan. Kẻ khác nói: "Ông Êlijah xuất hiện," vì Ngài có uy quyền làm phép lạ như tiên tri Elijah. Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại," vì những lời rao giảng xác tín của Ngài. Nói tóm, tất cả mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu là một con người đặc biệt, nhưng không ai nghĩ Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa từ trời xuống để ở với con người.

(2) Tiểu vương Hêrôđê băn khoăn suy nghĩ về Chúa Giêsu: "Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi!” Nếu quả là Gioan từ cõi chết sống dậy thì tiểu vương Hêrôđê có lý do để khiếp sợ Gioan báo thù. Sau đó, ông tìm cách gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài. Trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, khi Tổng Trấn Philatô biết Chúa Giêsu là người Galilee, ông liền cho áp giải người đến với Tiểu Vương Hêrôđê, lúc đó cũng đang có mặt tại Jerusalem. Tin Mừng Luca tường thuật: “Khi Vua Hêrôđê thấy Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. Vua Hêrôđê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Philatô” (Lc 23:8-11).

Cho dẫu tiểu vương Hêrôđê có dịp gặp Chúa Giêsu nơi dinh quan Tổng Trấn Philatô, ông vẫn không nhận ra Chúa là ai, vì ông sống và hành động hòan tòan theo tính xác thịt của con người; nhất là khi thấy Chúa bị đối xử như một tử tội. Ông khác với thánh Phêrô là người được Thiên Chúa soi sáng cho biết đích thực Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống.



ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Để biết nhìn đúng và tránh được lẫn lộn, chúng ta đừng chỉ nhìn hời hợt bề ngòai, nhưng phải nghiên cứu và tìm tòi cho đến nơi; nhất là câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời.

- Chúng ta cần chính mình tìm hiểu về Chúa và rút ra kết luận như thánh Phêrô, chứ không chỉ nghe người khác nói lại về Chúa như tiểu vương Hêrôđê.

- Tất cả mọi sự trên đời là phù hoa. Chỉ có một điều vững bền muôn đời là Thiên Chúa. Chỉ có một nguồn Sự Thật đã được mặc khải là qua Đức Kitô, chúng ta biết về Thiên Chúa và về mọi sự xảy ra trong vũ trụ trong mối tương quan với Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

****************



Ông này là ai ?

 Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó. Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến. 



Suy nim:

Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê,
qua các hoạt động rao giảng và chữa bệnh.
Tiếng đồn về Ngài ngày càng lan rộng (Lc 5, 15).
Điều đó hẳn đã đến tai của Hêrôđê (c. 7),
vị tiểu vương cai quản vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1).
Hêrôđê bối rối và lúng túng trước những tin mình nhận được.
Ông đã cho chém đầu Gioan Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9).
Bây giờ lại nổi lên một người khác tên là Giêsu.
Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này.
Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại.
Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng
sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11).
Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại.
Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu,
người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).
Mà chính Đức Giêsu cũng nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33).
“Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”
Hêrôđê tò mò muốn biết Ngài là ai.
Ông không tin Đức Giêsu là Gioan bị chém đầu, nay sống lại.
Và ông tìm cách gặp mặt Ngài (c. 9).
Hêrôđê đã được gặp Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12).
Lúc ấy Ngài xuất hiện trong tư cách một phạm nhân.
Dù vậy Hêrôđê cũng vui sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện.
Ông đã nghe Ngài làm được những phép lạ lớn lao,
nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ.
Tiếc thay Đức Giêsu đã không muốn chiều Hêrôđê.
Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào.
Ngài thanh thản bình an trước những lời tố cáo của các thượng tế.
Ngài không muốn tránh cái chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha.
“Ông này là ai ?”, Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng.
Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu.
Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của Hêrôđê kết thúc.
Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.
Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25).
Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó.
Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.
Tò mò, thích những điều giật gân, muốn thấy những điều lạ thường:
tất cả những điều ấy không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người.
Sự thật về Giêsu có khi lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu,
qua sự bất lực đớn đau trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng.
Phải đổi toàn bộ cái nhìn của mình để nhận ra được Giêsu là ai,
để không vội vã đánh giá Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời.
Như Hêrôđê, chúng ta có thể có cơ hội gặp mặt Giêsu,
nhưng vẫn không biết Ngài là ai.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa.
(Graham Kings)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".

Kinh nghiệm của vua Hêrôđê


Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến mối tương quan giữa Chúa Giêsu và vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là ai? Dựa theo vài chi tiết trong Phúc Âm, chúng ta có thể nói ông là một con người dám làm điều nghịch lại với lương tâm mình vì say mê quyền hành và danh vọng. Dĩ nhiên, ông biết rõ điều gì đúng và điều gì sai, ông biết rằng ông không nên sống với người đàn bà không phải là vợ của mình, ông biết rõ ông không nên chiều theo áp lực của những bạn bè, ông biết rõ ông không được giết người vì sự sống con người là thiêng thánh. Nhưng ông đã làm những điều xấu đó, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm vì áp lực xã hội. Khuyết điểm khác nữa cũng của vua Hêrôđê là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm, ông muốn trấn an lương tâm và thuyết phục mình rằng không có gì sai quấy trong việc đã làm. Ông đã giết chết Gioan Tẩy Giả, nhưng khi ông thấy Chúa Giêsu Kitô thì ông tự nhủ là Gioan đã sống lại và như thế thì mình không có lỗi gì và rằng điều xấu ông đã làm đã được đền bù. Vua Hêrôđê đã hành động nghịch lại lương tâm và tệ hại nhất là việc ông không muốn đối diện với yêu cầu của lương tâm, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm và muốn che đậy những gì mình đã làm.

Căn bệnh của vua Hêrôđê tiếp tục là căn bệnh của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta hành động nghịch lại với lương tâm; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm điều đó, vì chúng ta sợ kẻ khác sẽ nói; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm, bởi vì chúng ta yêu thích những niềm vui nhục dục hơn mọi sự khác; chúng ta biết rõ điều gì nên làm, lương tâm chúng ta dạy chúng ta rằng chúng ta nên sống liêm chính, nhưng chúng ta vẫn gian lận với nhau và lường gạt những kẻ thân yêu nhất, bởi vì rất dễ làm như vậy. Ðiều tệ hại là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm chúng ta che đậy căn bệnh bằng miếng băng cứu thương và giả đò mọi sự vẫn như bình thường. Sau khi hành động nghịch lại lương tâm, chúng ta che đậy tội ác, dường như thể không có gì xảy ra cả.
Thật là khủng khiếp biết chừng nào việc chúng ta phạm tội rồi chối bỏ không nhận tội. Tội nặng nề nhất của thời đại chúng ta là việc chối bỏ điều tội trong chúng ta. Chúng ta hãy trở về lại nơi chúng ta cần phải làm, trở về lại với bản tính tự nhiên của mình. Có lúc vua Hêrôđê khao khát muốn gặp Chúa Giêsu, chúng ta không biết đây là vì tò mò hay là vì tiếng lương tâm thúc đẩy, vì trong nội tâm còn có chút khao khát muốn thoát ra khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, nhưng khao khát của vua Hêrôđê có lẽ còn quá yếu ớt và có thể là vì những điều trần tục và những sự đam mê không được phép bóp chết đi.

Chúa Giêsu đã cho vua Hêrôđê được dịp gặp Ngài trong cuộc thương khó và chúng ta biết rõ vua Hêrôđê đã bỏ qua tất cả cơ hội để sống với thực thể thật của Chúa Giêsu, đã bỏ mất cơ hội canh tân đời sống mình. Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm của và từ vua Hêrôđê, ông đã hành động nghịch lại lương tâm và đã che giấu tội ác của mình.

Phần chúng ta, ước chi chúng ta không rơi vào cùng một lỗi lầm như vậy và cũng đừng bóp chết chút khao khát còn sót lại trong tâm hồn sau phút lầm lỗi, để khiêm tốn ăn năn thống hối trở về với tình yêu Thiên Chúa.

Lạy Chúa,

Xin thương hướng dẫn con trở về với Chúa mỗi lần con lầm lỗi, xúc phạm đến Chúa và anh chị em chung quanh. Xin cho con biết lắng nghe lương tâm và thực hành và thực hành điều lương tâm chỉ dạy.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Đức Giêsu gây nhiều câu hỏi

“Ông Gio-an ta đây đã chém đầu rồi! Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu. (Lc. 9, 9)

Không phải quá khứ mới đặt câu hỏi về Người. Ngày nay vẫn còn nhiều câu hỏi lúng túng hơn xưa về Đức Giêsu. Lúc còn sinh thời, Người đã có vấn đề. Ông hoàng Hê-rô-đê xứ Galilê nghe tất cả những điều Người nói và làm. Ngay ở một thời, cả khối trung đông không cóvấn đề gì lớn,thế mà ông đã có những thông tín viên săn lùng tin tức cho ông. Tiếng tăm về Đức Kitô lan ra hầu khắp nơi. Những ý kiến về Người: tốt có, xấu có được loan truyền rộng rãi như trong thế giới chúng ta hiện nay.

Phải chọn lựa thế nào? làm sao biết được chính xác về nhân vật kỳ lạ nay?

Những người này coi Người là Gio-an Tẩy Giả đã sống lại. Những người khác cho là Ê-li-a tái xuất hiện. Nhiều kẻ nói: đây là một trong những tiên tri thời xưa sống lại. Họ đã có ý kiến khác xa nhau về cùng một vấn đề, quần chúng dễ tin và hầu như lúc nào cũng thèm khát những điều lạ lùng dễ cảm động. Đức Kitô, qua sứ điệp và cử chỉ cư xử của mình, đã nuôi nấng cái lòng ham thích lẫn lộn của những hạng người nhỏ bé chỉ biết hướng về cái trước mắt và tầm thường.

Hê-rô-đê bối rối về những tin đồn về Đức Giêsu, vì ông không bao giờ có lương tâm yên ổn. Ông không thể quên Gio-an đã bị ông ra lệnh chém đầu. Ông luôn tự vấn, nếu chém đầu một người vô tội và thánh thiện, sẽ bị công lý trừng phạt. Ông cũng muốn gặp Đức Giêsu. Ông mong có ngày sẽ gặp Người, nhưng như với Gio-an, ông sẽ bỏ qua một bên ơn phúc được ban cho ông.

Những người của thế kỷ chúng ta vẫn tiếp tục tra hỏi về Đức Kitô. Những người này khám phá thấy Người là con Thiên Chúa và con Đức Maria. Những người khác chẳng bao giờ đi đến cùng sự thật về căn tính của Người. Bất hạnh thay! Tại sao thế? vì lý lẽ của họ giống như của Hê-rô-đê, không có lòng khiêm tốn cần thiết để chấp nhận những điều khó hiểu của đức tin và họ không có tinh thần từ bỏ mà đức tin yêu cầu. Sự thật về Đức Kitô, theo Tin Mừng của Người là một thách đố phiền phức. Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó mới có thể được nâng lên tới đỉnh vinh quang.
GF.