Trang

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Lời Chúa Mỗi Ngày Thứ Hai Tuần 28 TN2


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 28 TN2
Bài đọc: Gal 4:22-24, 26-27, 31-5:1; Lk 11:29-32.

 GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa.

Trong chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Dân Do-Thái ngay từ đầu và ký kết với họ một giao ước trên Núi Sinai. Theo giao ước cũ này, nếu họ giữ cẩn thận các giới răn Chúa truyền thì Ngài sẽ bảo vệ họ, và họ sẽ là Dân Riêng của Ngài. Nhưng như lịch sử đã chứng minh, họ đã không tôn trọng giao ước và Thiên Chúa đã để mặc họ cho kẻ thù phương Bắc xâm lấn và bắt làm nô lệ. Tuy nhiên, vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã ký với tòan thể con người (cả Do-Thái và Dân Ngọai) một giao ước mới. Theo giao ước mới này, con người sẽ được cứu độ: không bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật (việc không thể cho con người), nhưng bằng niềm tin vào Chúa Kitô và ân sủng của Thánh Thần. Dẫu vậy, nhiều người Do-Thái vẫn ngoan cố tin vào giao ước cũ và bắt Dân Ngọai cũng phải làm như họ. Trong Bài đọc I, thánh Phaolô dùng Cựu Ước để chứng minh giao ước mới đã được báo trước để thay thế giao ước cũ qua câu truyện của Sarah và Hagar. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cảnh cáo người Do-Thái đừng nên khinh thường Dân Ngọai. Tuy họ không được hưởng các đặc quyền như Dân Do-Thái, nhưng họ đã biết tận dụng những gì Chúa ban để học hỏi và ăn năn xám hối.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa.
1.1/ Hai giao ước cũ và mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Thánh Phaolô dùng cách cắt nghĩa Kinh Thánh theo kiểu lọai suy (allegorical) ở đây: Ông Abraham có hai người con: Isaac và Ishmael, mẹ của Ishmael là một người là nô lệ (Hagar), mẹ của Isaac là người tự do (Sarah). Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên (ăn ở giữa Abraham và Hagar); còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Abraham.

Thánh Phaolô cắt nghĩa: Truyện đó ngụ ý thế này: Hai người đàn bà là tượng trưng cho hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Si-nai, thì sinh ra nô lệ: đó là Ha-gar. Ha-gar chỉ núi Si-nai trong miền Ả-rập, và tương đương với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta. Thật vậy, có lời chép: Reo mừng lên, hỡi người phụ nữ son sẻ, không sinh con; hãy bật tiếng reo hò mừng vui, hỡi ai chưa một lần chuyển dạ, vì con của phụ nữ bị bỏ rơi thì đông hơn con của phụ nữ có chồng!
1.2/ Như Isaac, anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa: “Nhưng cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi đứa con sinh ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy. Thế nhưng Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do.”
Vì thế, giao ước cũ đã được thay thế bằng giao ước mới; sự nô lệ cho Lề Luật đã được thay thế bằng sự tự do sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô khuyên các tín hữu của ngài: “Ấy vậy, thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ, nhưng là con của người tự do. Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.”

2/ Phúc Âm: Hưởng đặc quyền càng nhiều, bị phán xét càng nặng.
2.1/ Đòi hỏi phép lạ: Người Do-Thái tìm kiếm phép lạ, và Chúa đã làm nhiều phép lạ giữa họ. Nhưng mục đích của phép lạ là để khơi dậy niềm tin. Sau khi đã làm nhiều phép lạ mà họ vẫn không tin nên Đức Giê-su bắt đầu nói: "Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Jonah. Quả thật, ông Jonah đã là một dấu lạ cho dân thành Nineveh thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.” Tại đây Chúa Giêsu muốn nói: như tiên tri Jonah đã ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, Chúa Giêsu cũng ở trong mồ 3 ngày 3 đêm như vậy, và sau đó Ngài sẽ sống lại.
2.2/ Cần phản ứng thích đáng khi được hưởng đặc quyền: Chúa Giêsu đưa ra 2 ví dụ cho người Do-Thái phải suy nghĩ:
2.2.1/ Nữ Hòang Phương Nam: là người đến với Vua Solomon từ Phi Châu để học sự khôn ngoan của Vua. Thế mà Chúa Giêsu còn khôn ngoan hơn Vua Solomon đang ở giữa và dạy dỗ họ, họ đã từ chối không nghe và tin vào Ngài. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, Nữ Hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Solomon; mà Chúa Giêsu còn hơn vua Solomon nữa.”
2.2.2/ Dân Thành Nineveh: là thành của Dân Ngọai (Bắc của Iraq hiện giờ). Họ đã sẵn sàng nghe lời giảng dạy của tiên tri Jonah dù chỉ một lần và đã ăn chay, xức tro, và mặc áo nhặm trở về với Chúa. Thế mà Chúa Giêsu còn cao trọng hơn tiên tri Jonah đang đứng giữa họ để dạy dỗ và kêu gọi họ bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Thiên Chúa, mà họ vẫn giả điếc làm ngơ. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, dân thành Nineveh sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Jonah rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Jonah nữa.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải siêng năng học hỏi để nhận ra những đặc quyền mình đang được hưởng. Đừng ngoan cố như những người Do-Thái, mặc dầu đã được thánh Phaolô chỉ dạy cho là họ không thể nào được cứu rỗi bằng việc giữ Luật (giao ước cũ), mà chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin vào Chúa Kitô (giao ước mới); thế mà họ cứ ngoan cố trong niềm tin của họ vào Luật và dạy các tín hữu Galat làm như thế.
- Chúng ta cần biết nắm lấy cơ hội Thiên Chúa gởi đến trong cuộc đời. Như Nữ Hòang PhươngNam lặn lội tìm đến để học sự khôn ngoan của Vua Solomon, chúng ta cũng cần chạy đến với những người rao giảng để học hỏi sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Như dân Thành Nineveh đã nghe lời giảng dạy của tiên tri Jonah mà ăn năn trở lại, chúng ta cũng cần biết nghe lời mời gọi của Mẹ Giáo Hội qua các Mục Tử để năng kiểm điểm cuộc sống và quay trở về làm hòa cùng Thiên Chúa.
- Nếu không biết tận dụng các cơ hội của Chúa ban, chúng ta sẽ không có lý do nào để trách Chúa trong Ngày Phán Xét; vì sẽ có nhiều người tố cáo chúng ta là nếu họ có được những cơ hội như chúng ta đã có, thì họ đã ăn năn trở lại từ lâu rồi.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Cuộc viếng thăm của Nữ Hoàng Seba

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

Lời Chúa Mỗi Ngày Chủ Nhật 28 Thường Niên, Năm B


Hãy Ði Theo Chúa
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXVIII Thường Niên Năm B
Khôn ngoan 7,7-11; Hipri 4,12-13; Marcô 10,17-30
Hằng tuần và có khi hằng ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng chúng ta phải dựa vào các bài Thánh Kinh hôm nay để trả lời một cách thỏa đáng. Chúng ta muốn bắt chước vua Salomon đến đây cầu xin ơn khôn ngoan để biết sống ở đời. Và hơn nữa, chúng ta muốn như chàng thanh niên trong Phúc Âm xin Chúa chỉ đàng cho chúng ta như lời bài Thánh Thư hôm nay không? Do đó những bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc, rất đáng suy nghĩ và phải được đem ra thực hành. Chúng ta hãy đọc lại.

1. Cầu Xin Ơn Khôn Ngoan
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta được nghe lại chính lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời. Về điểm này ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Ðiều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu truyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù� nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Không dễ trả lời câu hỏi này đâu. Ðọc sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này. Cuối cùng chúng ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Ðó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Ðừng quý gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta. Nếu muốn cụ thể hơn, chúng ta hãy nói rằng sự khôn ngoan mà chúng ta phải cầu xin chính là ơn cứu độ mà Ðức Kitô đã mang đến, là chính Ðức Yêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã giáng sinh làm người. Chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.

2. Hãy Ði Theo Chúa
Thánh Marcô kể hôm ấy Ðức Yêsu đang đi đường. Người lên Yêrusalem để thụ nạn cứu thế và ban hạnh phúc cho mọi người. Một chàng thanh niên chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa với Người như một bậc "tôn sư": "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp". Anh chưa thấy Người khác mọi bậc thầy và khác với mọi sư phụ. Anh tưởng Người cũng giống như bao luật sĩ hoặc nhà truyền đạo đã thay lượt nhau đến dạy đường khôn ngoan cho loài người. Có lẽ anh chỉ coi Người hơn họ một chút xíu thôi.
Nhưng Người không phải như vậy. Người không đến dạy sự khôn ngoan, nhưng là chính sự khôn ngoan nhập thể. Người không chỉ dạy đàng dẫn đến sự sống đời đời, nhưng có chính sự sống ấy để ban cho những ai biết đón nhận... Thế nên Người đã nhắc nhở anh nghĩ tới điều đó và phải nhận ra Người không phải là một bậc Thầy thông thường. Người bảo anh: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa". Nghĩa là nếu ngươi nói Ta là tốt lành, thì ngươi nên nhận ra thần tính ở nơi Ta; Ta là Thiên Chúa giáng trần. Thế nên lời Ta nói đây không phải là ý kiến của một luật sĩ hay của một nhà truyền đạo, nhưng là của chính Thiên Chúa. Và Người đã nhắc lại cho anh những giới răn trong Luật pháp. Chàng thanh niên vội thưa: "Lạy Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". Lời anh nói làm chúng ta liên tưởng tới ý kiến của Phaolô phát biểu sau này: "Ðời tôi từ lúc thiếu thời... đã sống theo phái nhiệm nhặt trong tôn giáo chúng tôi...". Hoặc chúng ta cũng có thể nghĩ tới lời tự tín của người biệt phái nọ lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không phải như những người khác... mỗi tuần tôi ăn chay 2 lần, tôi nộp thuế thập phân...".
Quả thật, chàng thanh niên đang đứng trước mặt Chúa Yêsu, là hình ảnh của biệt phái, của những con người tưởng rằng có thể chiếm được Nước Trời bằng cách giữ luật hoặc thi hàn các nguyên tắc khôn ngoan này, khôn ngoan khác. Ðức Yêsu nhìn chàng thanh niên ấy; Người muốn yêu những tâm hồn như vậy; Người muốn cứu độ họ thật sự. Người bảo anh ta: ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! Có gì thì đem bán hết mà chi kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.
Thánh Marcô kể tiếp: "Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều của". Có thể thánh nhân đã viết như vậy để chuyển ý sang đoạn văn sau nói về nguy hiểm do của cải, đối với Nước Trời. Ðúng hơn người đã áp dụng ý của Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả tác phẩm của người. Những người này là các tín hữu đã tin vào Ðức Kitô chứ không phải là các biệt phái nữa. Họ cũng phải giữ Lời Chúa. Và cho được như vậy phải biết áp dụng Lời của Người vào trường hợp của mình. Vậy lời của Người khi xưa, tức là lúc Người đang ở trần gian, đã trực tiếp nói với chàng thanh niên đã giữ các giới răn từ thuở bé, tức là vẫn tưởng rằng có thể dùng sức mình và theo sự khôn ngoan của mình mà được sự sống đời đời. Không, người ta phải từ bỏ mọi ảo tưởng đó, phải khước từ hết, phải bắt chước Salomon trông cậy nguyên vào Chúa. Người ta phải đi bán tất cả, từ bỏ tất cả vì Nước Trời, rồi đến đi theo Chúa.
Lời Ðức Yêsu nói với chàng thanh niên có giá trị tổng quát và triệt để. Chúng ta phải ghi nhớ tính cách tuyệt đối này. Người ta không được cậy dựa gì ngoài Chúa. Của cải chỉ là một diện phải từ bỏ, tuy là diện khá quan trọng.
Nhưng vì sao thánh Marcô lại chú ý đến diện này? Phải chăng như lời Tin Mừng Luca viết: "Biệt phái vốn tham tiền"? (16,14). Hay là tại vì ở thời Marcô viết sách Tin Mừng, của cải đã trở thành vấn đề trong đời sống đạo? Tín hữu phải tự đồng hóa mình với hạng "nghèo khó được rao giảng Phúc Âm". Như vậy sẽ không được giàu có sao? Và như vậy sẽ được gì?
Chúng ta có thể coi lời Phêrô hỏi Chúa hôm nay như phản ảnh tâm lý và những thắc mắc này. Và chúng ta thấy câu trả lời thật khôn ngoan. Kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa vẫn có mọi sự ở đời này và cộng thêm sự bị bắt bớ. Ðàng rằng chỉ có Marcô thêm chữ "bị bắt bớ" này vào câu trả lời của Chúa. Có lẽ vì hoàn cảnh đặc biệt của Hội Thánh thời Marcô viết tác phẩm Tin Mừng. Nhưng ai cấm chúng ta suy nghĩ rằng: theo thánh nhân, môn đệ của Chúa ở đời này không tất nhiên phải biến mình trở thành khố rách áo ôm. Như mọi người, họ vẫn có nhà để ở, áo để mặc, cơm để ăn, họ hàng bè bạn để tương giao... và còn có hơn vì tình huynh đệ và tương trợ trong Hội Thánh; nhưng họ hãy có như không có, hưởng như không hưởng, vì họ phải sống mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô mà viễn tượng "bị bắt bớ" luôn nhắc nhở người ta phải có tinh thần từ bỏ tuyệt đối vì Nước Trời. Và của cải là diện khó từ bỏ, đến nỗi con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Trời.
Các môn đệ của Ðức Yêsu đã ngạc nhiên trước những đòi hỏi như vậy. Họ sợ ít người có thể vào được Nước Thiên Chúa. Ðúng, với sức mình, với sự khôn ngoan của mình, loài người không làm gì được đâu. Nhưng, "mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa"; tức là người ta phải trông cậy vào Chúa và chỉ trông cậy vào một mình Người mà thôi. Salomon đã có thái độ như vậy trong bài sách Khôn ngoan hôm nay... Còn chàng thanh niên kia, giống như các biệt phái, không muốn bỏ mọi sự và quan điểm của mình mà theo Chúa và thi hành Lời của Người. Tại sao vậy? Chúng ta hãy nghe lời thư Hipri.

3. Hãy Thi Hành Lời Chúa
Thư Hipri bàn rất nhiều và sâu sắc về chức tư tế trong đạo mới. Ðạo cũ tức là Dothái giáo có hàng tư tế đông đảo và lễ nghi sầm uất. Số lượng tế vật cùng khói hương và huyết chảy không thể tưởng tượng được. Nhưng tất cả để làm gì? Chỉ là một thất bại hoàn toàn; một bất lực không hơn không kém. Tội lỗi của dân chúng vẫn còn đó. Chính vì vậy mà Cựu Ước cứ phải dâng lễ không ngừng.
Trong Tân Ước trái lại, máu Ðức Yêsu đã rửa sạch mọi tội. Người chỉ dâng lễ một lần. Người đã đi vào cung thánh của chính bản tính Thiên Chúa qua mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ta chỉ còn phải tham dự vào lễ tế vô giá ấy.
Nhưng đi vào lễ tế này sao được khi không để thân thể mình nát ra như chính của lễ hy sinh trên thập giá? Và phương tiện phân nát thân thể con người chính là Lời Chúa. Vì đây không phải là ý tưởng, mà là sự sống. Ðó là sự sống bởi trời xuống, đi vào thân xác con người, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách... cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ. Người ta cứ xem Ngôi Lời đã thành nhục thể. Người đã sống một cuộc đời gian khổ như thế nào. Cuối cùng Người đã chết trên thập giá để trở thành của lễ cứu độ và trở nên vị Thượng tế của đạo mới. Người ta cũng phải để cho Lời Chúa thấm nhập tâm can... đóng đinh dục vọng và xác thịt vào thập giá. Có như vậy con người mới trở nên của lễ và mới tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, mới được khỏi tội và ngang qua các tầng trời đi vào nơi yên nghĩ ở trong Thiên Chúa.
Cái lầm của đạo cũ là thái độ vụ hình thức, là não trạng tưởng rằng giữ được Luật pháp là có sự sống đời đời. Thật ra điều quan trọng là phải từ bỏ "sự sống của mình", của con người cũ ở nơi mình và nhận lấy sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Salomon đã biết từ bỏ mọi sự để được sự khôn ngoan; Ðức Yêsu bảo người thanh niên phải đi bán tất cả để đến đi theo Người; tác giả thư Hipri khuyên chúng ta hãy để cho Lời Chúa thấm nhập biện phân tình và ý tưởng của lòng dạ. Ai sẵn sàng làm như vậy?
Chúng ta hãy chạy đến Thánh Thể, tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô. Hãy hòa mình vào tâm tình xả kỷ cứu thế của Người. Hãy sống chân thật theo lương tâm và Lời Chúa dạy bảo và thôi lấy hình thức che đậy tâm can. Ai làm như vậy mà còn sợ sẽ không được sự sống đời đời? Ðó là người khôn ngoan hơn hết, hơn cả Salomon, vì ở đây nơi bàn thờ, còn có Ðấng trọng hơn Salomon và còn dạy đường khôn ngoan hơn Salomon. Chúng ta hãy đến và nhận lấy Người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 28 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 7:7-11; Heb 4:12-13; Mk 10:17-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?

Nhiều người biết rất rõ đích điểm của cuộc đời là cuộc sống hạnh phúc muôn đời bên Chúa; nhưng làm thế nào để đạt được đích điểm đó, có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho chỉ cần tin vào Đức Kitô là được cứu rỗi; có người cho chỉ cần đi lễ mỗi tuần, đọc kinh mỗi ngày; có người cho chỉ cần ăn ngay ở lành... Nhưng thánh Giacôbê nói: "đức tin không việc làm là đức tin chết." Chúa Giêsu cũng tuyên bố: ''không phải ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được vào Nước Trời; nhưng chỉ có những ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa.'' Và câu châm ngôn ăn ngay ở lành cũng rất tổng quát và mơ hồ: Nếu chỉ giản lược trong đời sống chỉ biết lo cho cá nhân hay gia đình mình, cuộc sống như thế có đủ đáp ứng lời mời gọi mà Chúa dạy các môn đệ trong Kinh Lạy Cha không? Một cách cụ thể, con người đã góp phần gì vào việc: xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời?
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đến câu hỏi: Phải làm thế nào để đạt được cuộc sống đời đời? và câu trả lời: "Phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa." Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan đề cao sự quan trọng của Đức Khôn Ngoan. Theo ông, Đức Khôn Ngoan đáng quý trọng hơn mọi sự trên trần gian này, vì hai lý do: (1) Có Đức Khôn Ngoan là có mọi sự; và (2) Chỉ có Đức Khôn Ngoan tồn tại muôn đời. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái đồng nhất Đức Khôn Ngoan với Lời Chúa, hay Ngôi Lời chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Không như khôn ngoan của thế gian, Lời Chúa luôn sống động, hiệu quả, và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi. Lời Chúa đòi con người phải suy tư, thúc đẩy con người phải hành động, và làm chứng cho con người trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi được người thanh niên hỏi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời, Chúa Giêsu tuyên bố: phải giữ tất cả các điều răn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
1.1/ Hiểu biết khôn ngoan đáng quí trọng hơn mọi sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là "tác giả" của các Sách Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan nhất trong lịch sử của nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi nhà vua muốn xin bất cứ gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin cho có uy quyền, cũng chẳng xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất cứ điều gì khác; nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân. Thiên Chúa rất hài lòng với điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua Solomon được khôn ngoan đến độ không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như thế.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn vương quyền: Nắm giữ vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân chúng; sớm muộn gì rồi vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn Ngoan, vua sẽ biết lòng dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong ước, thì vương quyền sẽ tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm trước tòa phán xét của Thiên Chúa.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn của cải: Vua Solomon thú nhận: ''Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.'' Có giàu có đến đâu chăng nữa, mà không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi cho người sở hữu nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không muốn sống, và có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp: Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng ta, quá chú trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối đẹp đẽ và khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan trọng; nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh đến đâu chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do ông quí trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ''Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.''
Nói tóm, vua Solomon đã suy nghĩ rất nhiều khi xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là có tất cả: ''Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.''
1.2/ Làm sao để có Đức Khôn Ngoan? Khác với khôn ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn Ngoan mà vua Solomon có được là do Thiên Chúa ban: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.''

2/ Bài đọc II: Đức Khôn Ngoan chính là Lời của Thiên Chúa.
2.1/ Đặc tính trổi vượt của Lời Chúa: Tác giả Thư Do-thái liệt kê các đặc tính của Lời Chúa như sau: "Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu  sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người."
(1) Sống động (zôn): Tất cả các tác phẩm nhân loại, dù hay đến đâu chăng nữa, cũng bị thời gian đào thải, vì không theo kịp đà tiến của nhân loại; nhưng Kinh Thánh lại khác, nó vẫn luôn sống động. Đã hơn hai ngàn năm qua, Kinh Thánh vẫn là Sách được nhiều người đọc nhất, vì nội dung của Kinh Thánh vẫn thích hợp và sống động với con người ở mọi thời và mọi nơi.
(2) Hữu hiệu (energês): Lời Chúa trong Kinh Thánh không phải chỉ là những lời để suy niệm; nhưng thúc đẩy và cung cấp năng lực cho con người hành động. Tiên-tri Isaiah nói rất hay về Lời Chúa như sau: "Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó" (Isa 55:10-11). Hai câu này chắc chắn áp dụng cho Đức Kitô là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi Ngài xuống trần gian nhập thể để cứu chuộc con người. Hai câu đó cũng áp dụng cho chúng ta, vì tuy ơn cứu chuộc Đức Kitô đã dọn sẵn cho con người; nhưng nó phải hoạt động nơi chúng ta để mang lại ơn cứu chuộc cho cá nhân chúng ta.
(3) Sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: Như thanh gươm hai lưỡi có sức xuyên thủng cả hai bên, Lời Chúa sắc bén, có sức xuyên thủng bất cứ con người nào, cho dù những người lạnh lùng và chai đá nhất.
+ xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh: Truyền thống Hy-lạp tin con người là tập hợp của ba phần: tinh thần (pneuma), đời sống thể lý (psychê), và thân xác (sark). Psyche là đời sống thể lý của con người, cái mà con người có chung với các tạo vật khác; nhưng cái làm con người suy nghĩ và hành động khác nhau là tinh thần.
+ xuyên thấu chỗ phân cách sụn (harmos) với tuỷ (muelos): Nếu thanh gươm có thể tách rời sụn với tủy; Lời Chúa cũng có thể tách rời tinh thần ra khỏi đời sống thể lý của một người. Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.
2.2/ Lời Chúa là chứng cớ phán xét con người: "Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ." Lời Chúa thúc đẩy con người phải hành động, các việc làm của con người sẽ là những bằng chứng tố cáo con người. Ví dụ, Gioan nói về việc con người phán xét chính mình như sau: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa" (Jn 3:17-18). Sự hiện diện của Đức Kitô buộc con người phải hành động: tin hay không tin vào Ngài; và tùy vào việc tin hay không tin, con người tự luận phạt chính mình. Con người không thể giữ thái độ trung dung, không chịu phản ứng, trước sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời.

3/ Phúc Âm: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?
3.1/ Làm thế nào để đạt được đích điểm của cuộc đời: Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hai điều Chúa đòi anh phải làm:
(1) Giữ các giới răn với tha nhân: ''Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ."
(2) Giữ các giới răn với Thiên Chúa: Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Điều Chúa Giêsu đòi hỏi anh ở đây không gì khác hơn giới răn thứ nhất: "Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự." Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.''
3.2/ Giàu có khó vào Nước Trời: Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được."
(1) Điều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là con người không được đặt của cải trên lòng mến Thiên Chúa, vì "của cải anh ở đâu, lòng trí anh ở đó." Nếu lòng trí đã đặt vào của cải, còn lòng trí đâu dành cho Thiên Chúa và các việc của Ngài? Chúng ta không nói của cải không cần thiết; nhưng chúng ta phải đặt đúng thứ tự của nó: sau Thiên Chúa và sau tha nhân.
(2) Phần thưởng cho những môn đệ của Đức Kitô: Thiên Chúa là Đấng uy quyền và thương yêu, Ngài không bao giờ bỏ đói những ai trông cậy và làm việc cho Ngài. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.'' Khi các môn đệ đi theo Chúa, họ giả sử phải bỏ tất cả: nghề nghiệp, gia đình, nhà cửa, và mọi thứ tiện nghi; nhưng họ không chết đói, và họ có nhiều thời gian dành cho việc mở mang Nước Trời.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
 - Chúng ta phải đặt đúng thứ tự ưu tiên trong cuộc đời: Thiên Chúa, tha nhân, và của cải vật chất. Đảo lộn thứ tự ưu tiên này sẽ gây bất an, chia rẽ, và làm cho con người mất hạnh phúc.
- Tin như nào sẽ sống như thế. Nếu chúng ta tin Đức Khôn Ngoan là điều đáng quí trọng hơn hết các giá trị vật chất, hãy cầu nguyện để xin Thiên Chúa cho chúng ta hiểu được Lời Chúa.
- Để đạt được cuộc sống đời đời, chúng ta phải giữ tất cả điều răn; chứ không chỉ giữ một số những gì chúng ta thích, và bỏ lơ những gì chúng ta không thích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 32 TN B


 
 
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 32 TN B


Tin Mừng thánh Máccô 12,38-44


Đức Giê-su lên án các kinh sư (Mt 23: 1-36; Lc 20: 45 -47 )

38 Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: "Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng.39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.40 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn."

Tiền dâng cúng của bà goá nghèo (Lc 21: 1-4)

41 Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền.42 Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma.43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.44 Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."

38  In the course of his teaching he said, "Beware of the scribes, who like to go around in long robes and accept greetings in the marketplaces,39 seats of honor in synagogues, and places of honor at banquets.

40 They devour the houses of widows and, as a pretext, recite lengthy prayers. They will receive a very severe condemnation."
 

41  He sat down opposite the treasury and observed how the crowd put money into the treasury. Many rich people put in large sums.

42 A poor widow also came and put in two small coins worth a few cents.

43 Calling his disciples to himself, he said to them, "Amen, I say to you, this poor widow put in more than all the other contributors to the treasury.

44 For they have all contributed from their surplus wealth, but she, from her poverty, has contributed all she had, her whole livelihood."
 

I. HÌNH TÔ MÀU

*Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

* Em hãy viết câu Tin Mừng thánh Máccô 12,42
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


II. TRẮC NGHIỆM

01. Đức Giêsu nói phải tránh những ai? (Mc 12,38)
a. Các kinh sư
b. Những người Xađốc
c. Các thượng tế
d. Người ngoại bang


02. Các kinh sư thường ưa điều gì? (Mc 12,39)
a. Làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ
b. Thích được chào hỏi
c. Thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc
d. Cả a, b và c đúng


03. Với những việc làm của các kinh sư này, họ sẽ thế nào? (Mc 12,40)
a. Được thưởng công bội hậu
b. Sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn
c. Đất Hứa làm gia nghiệp
d. Hạnh phúc Nước Trời


04. Bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ bao nhiêu? (Mc 12,42)
a. Hai xu
b. Hai đồng tiền kẽm
c. Một quan tiền
d. Hai quan tiền


05. Vì sao Đức Giêsu khen bà góa này? (Mc 12,44)
a. Vì bà bỏ tất cả những gì bà có để nuôi sống mình
b. Vì đã bỏ nhiều
c. Vì bỏ một cách kín đáo
d. Cả a, b và c đúng


III. Ô CHỮ 


Những gợi ý


01. Ai ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ? (Mc 12,41)

02. Thùng tiền dâng cúng cho đâu? (Mc 12,41)

03. Các kinh sư nuốt hết cái gì của các bà góa? (Mc 12,40)

04. Bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ bao nhiêu đồng tiên kẽm? (Mc 12,42)

05. Các kinh sư thích ngồi cỗ nhất trong đâu? (Mc 12,39)
 
06. Đức Giêsu nói phải tránh những ai? (Mc 12,38)

07. Ai đã dâng cúng 2 đồng kẽm và được khen ngợi? (Mc 12,42)

08. Các kinh sư giả bộ đọc kinh làm gì lâu giờ? (Mc 12,40)

09. Các kinh sư ưa chiếm ghế gì trong hội đường? (Mc 12,34)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
 
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

Bà này,
thì rút từ cái túng thiếu của mình
mà bỏ vào đó tất cả tài sản,
tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
 

Tin Mừng thánh Máccô 12,44


Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 32 TN B
 

Tin Mừng thánh Máccô 12,38-44

I. HÌNH TÔ MÀU
*Chủ đề :
Đồng tiền dâng cúng

* Câu Tin Mừng thánh Máccô 12,42
42 Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm


II. TRẮC NGHIỆM

01. a. Các kinh sư  (Mc 12,38)
02. d. Cả a, b và c đúng (Mc 12,39)
03. b. Sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn (Mc 12,40)
04. b. Hai đồng tiền kẽm (Mc 12,42)
05. a. Vì bà bỏ tất cả những gì bà có để nuôi sống mình (Mc 12,44)


III. Ô CHỮ 

01. Đức Giêsu (Mc 12,41)
02. Đền thờ (Mc 12,41)
03. Tài sản(Mc 12,40)
04. Hai đồng (Mc 12,42)
05. Đám tiệc (Mc 12,39)
06. Các kinh sư (Mc 12,38)
07. Bà góa (Mc 12,42)
08. Cầu nguyện (Mc 12,40)
09. Danh dự (Mc 12,34)


Hàng dọc : CHÂN THÀNH

NGUYỄN THÁI HÙNG

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 31 TN B

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 31 TN B

VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 31 TN B


Tin Mừng thánh Máccô  12,28b-34


Điều răn đứng hàng đầu (Mt 23: 34 -40; Lc 10: 25 -28 )

28 Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu? "29 Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác.33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ."34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu! "

28 One of the scribes, when he came forward and heard them disputing and saw how well he had answered them, asked him, "Which is the first of all the commandments?"

29 Jesus replied, "The first is this: 'Hear, O Israel! The Lord our God is Lord alone!30 You shall love the Lord your God with all your heart, with all your soul, with all your mind, and with all your strength.'31 The second is this: 'You shall love your neighbor as yourself.' There is no other commandment greater than these."

32 The scribe said to him, "Well said, teacher. You are right in saying, 'He is One and there is no other than he.'33 And 'to love him with all your heart, with all your understanding, with all your strength, and to love your neighbor as yourself' is worth more than all burnt offerings and sacrifices."

34 And when Jesus saw that (he) answered with understanding, he said to him, "You are not far from the kingdom of God." And no one dared to ask him any more questions.
I. HÌNH TÔ MÀU


*Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

* Em hãy viết câu Tin Mừng thánh Máccô  12,30
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


II. TRẮC NGHIỆM

01. Đây là điều răn đứng đầu: (Mc 12,30)
a. Ngươi phải thờ cha kính mẹ
b. Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn
c. Ngươi không được giết người
d. Ngươi phải giữ ngày sabát


02. Ai đã hỏi Đức Giêsu về điều răn nào đứng đầu? (Mc 12,28b)
a. Vị thượng tế
b. Vị kinh sư
c. Người Xađốc
d. Người Hêrôđê


03. Điều răn thứ 2 là: (Mc 12,31)
a. Tôn kính Đức Chúa hết sức mình
b. Yêu người thân cận như chính mình
c. Chia sẻ cơm áo cho mọi người
d. Hãy yêu thương mọi người


04. Vị kinh sư nói yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi điều gì? (Mc 12,33)
a. Lễ phẩm
b. Lễ toàn thiêu và hy lễ
c. Lễ vật dâng tiến
d. Công đức đã làm


05. Với câu trả lời của vị kinh sư, Đức Giêsu nói gì? (Mc 12,35)
a. Ông thật là khôn ngoan
b. Ông sẽ được vào Nước Trời
c. Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu
d. Ông sẽ được hạnh phúc

III. Ô CHỮ


Những gợi ý

01. Với với Thiên Chúa, chúng ta phải yêu mến Ngài thế nào? (Mc 12,30)

02. Chúng ta phải yêu mến ai hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực? (Mc 12,30)

03. Yêu ai như chính mình? (Mc 12,33)

04. Vị kinh sư nói yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi điều gì? (Mc 12,33)

05. Đối với Thiên Chúa, chúng ta phải làm gì hết lòng, hết trí khôn? (Mc 12,33)

06. Đức Giêsu nhận xét câu trả lời của vị kinh sư thế nào? (Mc 12,34)

07. Ai dạy chúng ta, phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, … … … và yêu người thân cận như chính mình? (Mc 12,29-30)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng,
hết trí khôn, hết sức lực,
và yêu người thân cận như chính mình
Tin Mừng thánh Máccô  12,33


Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 31 TN B


Tin Mừng thánh Máccô  12,28b-34

I. HÌNH TÔ MÀU
*Chủ đề :
Điều răn thứ nhất


* Câu Tin Mừng thánh Máccô  12,30
30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.


II. TRẮC NGHIỆM

01. b. Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa, Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn (Mc 12,30)
02. b. Vị kinh sư (Mc 12,28b)
03. b. Yêu người thân cận như chính mình (Mc 12,31)
04. b. Lễ toàn thiêu và hy lễ (Mc 12,33)
05. c. Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu (Mc 12,35)


III. Ô CHỮ 

01. Hết lòng (Mc 12,30)
02. Thiên Chúa (Mc 12,30)
03. Người thân cận(Mc 12,33)
04. Lễ toàn thiêu  (Mc 12,33)
05. Yêu mến (Mc 12,33)
06. Khôn ngoan (Mc 12,34)
07. Đức Giêsu (Mc 12,29-30)


Hàng dọc : LUẬT MỚI

NGUYỄN THÁI HÙNG

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 30 TN B

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 30 TN B

VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 30 TN B


Tin Mừng thánh Máccô 10,46-52

Người mù ở Giê-ri-khô (Mt 20: 29 -34; Lc 18: 35 -43 )

46 Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê.47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "49 Đức Giê-su đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây! " Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy! "50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su.51 Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."52 Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! " Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.


46 They came to Jericho. And as he was leaving Jericho with his disciples and a sizable crowd, Bartimaeus, a blind man, the son of Timaeus, sat by the roadside begging.

47 On hearing that it was Jesus of Nazareth, he began to cry out and say, "Jesus, son of David, have pity on me."

48 And many rebuked him, telling him to be silent. But he kept calling out all the more, "Son of David, have pity on me."

49 Jesus stopped and said, "Call him." So they called the blind man, saying to him, "Take courage; get up, he is calling you."

50 He threw aside his cloak, sprang up, and came to Jesus.

51 Jesus said to him in reply, "What do you want me to do for you?" The blind man replied to him, "Master, I want to see."

52 Jesus told him, "Go your way; your faith has saved you." Immediately he received his sight and followed him on the way.


I. HÌNH TÔ MÀU
 



 

*Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


* Em hãy viết câu Tin Mừng thánh Máccô 10,48b
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

 
II. TRẮC NGHIỆM

01. Tại thành này, Đức Giêsu đã chữa cho một người mù. (Mc 10,46)
a. Thành Bêlem
b. Thành Giêrusalem
c. Thành Giêrikhô
d. Thành Caphácnaum


02. Đây là lời kêu xin của anh mù: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, … … … ” (Mc 10,47)
a. Xin rủ lòng thương tôi
b. Xin thương xót tôi
c. Xin mở mắt tôi
d. Xin cứu chữa tôi


03. Anh mù xin gì cùng Đức Giêsu? (Mc 10,51)
a. Xin cho tôi nhìn thấy được
b. Xin cứu chữa mắt tôi
c. Xin thêm lòng tin cho tôi
d. Xin nâng đỡ con


04. Anh mù Batimê là con của ai? (Mc 10,46)
a. Ông Anphê
b. Ông Timê
c. Ông Simon
d. Ông Giôxếp


05. Điều gì đã làm cho anh mù được cứu? (Mc 10,52)
a. Lòng tin
b. Niềm hy vọng
c. Sự thương xót
d. Lòng sám hối

III. Ô CHỮ 


Những gợi ý

01. Tên của anh mù ở thành Giêrikhô. (Mc 10,46)

02. Khi được gọi, anh mù liền vất gì lại, đứng phắt dậy đến gần Đức Giêsu? (Mc 10, 50)

03. Anh mù xin gì cùng Đức Giêsu? (Mc 10,51)

04. Đây là câu người ta nói với anh mù khi Người gọi anh. (Mc 10,49)

05. Điều gì đã làm cho anh mù được cứu? (Mc 10,52)

06. Anh mù gọi Đức Giêsu là con của vua nào? (Mc 10,47)

07. Anh mù Batimê, người thành nào? (Mc 10,46)

08. Ai đã chữa anh Batimê được nhìn thấy? (Mc 10,46-52)

09. Anh Batimê bị bệnh gì? (Mc 10,46)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

"Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! "
Tin Mừng thánh Máccô 10,52



Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 30 TN B
 

Tin Mừng thánh Máccô 10,46-52

I. HÌNH TÔ MÀU

*Chủ đề :
Thầy gọi anh


* Câu Tin Mừng thánh Máccô 10,48b
"Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "


II. TRẮC NGHIỆM

01. c. Thành Giêrikhô (Mc 10,46)
02. a. Xin rủ lòng thương tôi (Mc 10,47)
03. a. Xin cho tôi nhìn thấy (Mc 10,51)
04. b. Ông Timê(Mc 10,46)
05. a. Lòng tin (Mc 10,52)


III. Ô CHỮ 

01. Batimê (Mc 10,46)
02. Áo choàng (Mc 10, 50)
03. Nhìn thấy được (Mc 10,51)
04. Cứ yên tâm  (Mc 10,49)
05. Lòng tin (Mc 10,52)
06. Đavít (Mc 10,47)
07. Giêrikhô (Mc 10,46)
08. Đức Giêsu (Mc 10,46-52)
09. Mù (Mc 10,46)


Hàng dọc : THẦY GIÊSU

NGUYỄN THÁI HÙNG