Trang

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Đồi Golgotha, Núi Can-vê


Đồi Golgotha, Núi Can-vê

Ngày xưa, trên đồi Golgotha - Mẹ đứng nhìn bên thánh giá

hay là

Xưa trên núi Can-vê, Mẹ dâng con cứu đời ....

các bài hát trong mùa Chay gợi cho người công giáo một hình ảnh đau thuơng: Đức Mẹ đứng nhìn con bị đóng đinh trên một ngọn đồi hoang vắng với hậu cảnh xám xịt như chuyển mưa...Các phim ảnh thường dựng lên 3 cây thánh giá contre soleil để lấy bóng đen ....

Thực tế, núi Cal-vê hay Núi Sọ, đồi Gol gô ta v.v... bây giờ nằm trong khu vực Nhà thờ Mộ Thánh Chúa (Holy Sepulchre) ở trong thành Jerusalem.  Khu vực này là khu vực rất nhạy cảm - dễ xảy ra xích mích giữa các phe phái ... Ky tô giáo với nhau.

Đồi Cal vê, tiếng Anh gọi là Calvary,  chính xác hiện tại là một  cái lỗ tròn nằm dưới bàn thờ thuộc quyền cai quản của Chính Thống Giáo - là nơi cây thánh giá Chúa chịu đóng đinh đã được dựng lên cách nay hơn 2000 năm - chung quanh còn vết tích núi đá ngày xưa.


Khu vực Holy Sepulchre


Dưới bàn thờ Can vê (Calvary) - là nơi dựng cây thánh giá Chúa chịu đóng đinh




Tượng Đức Mẹ Sầu Bi ở giữ bàn thờ bàn thờ Cal vê của Chính Thống Giáo Hy Lạp và Công giáo

Nhìn kỷ sẽ thấy bàn thờ Cal vê ngay chính giữa - hai bên là núi đá đồi Cal vê ngày xưa

Người hành huơng có thói quen hôn kính nơi dựng thánh giá dưới bàn thờ


Đá Cal vê, dưới chân giá đèn, trong lồng kiếng


Trên bàn thờ là hình Chúa tử nạn


Vết nứt ở núi đá Cal vê được cho là do trận động đất gây ra khi Chúa chết


Ngôi mộ Chúa Giêsu - hiện tại là bàn thờ chính trong khu vực Holy Sepulchre!

Chịu khó sắp hàng đợi khoảng 45 phút sẽ vào được bên trong ngôi mộ Chúa Giêsu
Hien Quang - Mùa Chay 2009

Nguồn: 40giayloichua.net

BỐN BÀ VỢ


 

             Tôi bất ngờ đọc được truyện ngắn này trên net, một triết lý sâu sắc. Suy cho cùng, hãy giữ cho tâm hồn thanh thản, đừng coi vật chất, tiền tài ,địa vị ...là đích cuối cùng mình phải đạt tới. Tất cả rồi sẽ mất hết khi mình từ giã cõi đời này. Lúc đó sẽ chẳng còn lý tưởng, nguyên lý, chũ nghĩa... dù người đó, lúc sống cố thề bồi,  nguyện suốt đời phấn đấu và trung thành. Quan trọng là người sống có thực hiện điều đó không ? Vậy thì... đúng như ý nghĩa của câu truyện ngắn này. Sống hãy làm người tử tế, quan tâm đến mọi người, một người có ích cho xã hội.
                  Đơn giản thế, nghĩ ra không dễ!

----------------------------------------------
Một thương nhân giàu có có 4 bà vợ. Ông yêu người vợ thứ tư nhất, ông tự hào về người vợ thứ ba, ông tìm đến người vợ thứ hai như một người bạn tâm tình nhưng hầu như chẳng bao giờ chú ý đến người vợ thứ nhất…

Ông nâng niu chiều chuộng, coi người vợ thứ tư như một món đồ trang sức quý, luôn mua sắm cho bà ta những bộ đồ sang trọng đắt tiền.

Ông cũng rất yêu người vợ thứ ba. Ông tự hào về người vợ này và luôn muốn “khoe” vợ với bạn bè. Tuy nhiên, trong ông luôn thường trực nỗi lo sợ bà bỏ đi với người đàn ông khác.
Ông cũng yêu người vợ thứ hai. Ông coi bà như người bạn tâm tình, người giúp ông vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Bất cứ khi nào gặp khúc mắc, ông đều tìm đến bà.
Người vợ thứ nhất lại là người rất chân thành, chung thuỷ, luôn kề vai sát cánh bên ông lo toan chu đáo chuyện gia đình. Tuy nhiên, ông lại không yêu bà vợ thứ nhất. Mặc dù bà rất yêu ông, ông hầu như chẳng bao giờ chú ý đến bà.

Một ngày, ông ngã bệnh. Ông tự biết rằng mình sắp từ giã cõi trần. Ông nghĩ về cuộc sống giàu sang xa hoa và tự nhủ: “Hiện mình có 4 bà vợ. Nhưng khi mình chết, lại chỉ có một mình. Thật cô đơn làm sao!”.

Ông ta hỏi bà vợ thứ tư: “Tôi yêu mình nhất, luôn dành cho mình sự quan tâm đặc biệt và những điều tốt đẹp nhất. Tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa, liệu khi tôi chết, mình có nguyện đi theo tôi không?”.

“Không đâu” – Bà vợ thứ tư đáp lại và bước đi.

Người vợ thứ ba vốn là niềm tự hào của ta, rồi cũng sẽ bước đi theo người khác, bỏ mặc ta mà thôi

Câu trả lời như một nhát dao cứa vào. Ông hỏi người vợ thứ ba: “Tôi yêu bà nhiều lắm, tôi sắp chết rồi, bà có nguyện theo tôi không?”.

“Không, cuộc sống vẫn đang đẹp mà. Sau khi ông chết, tôi sẽ tái hôn”. Trái tim ông run lên đau đớn.

Sau đó, ông hỏi người vợ thứ hai: “Bất cứ khi nào gặp vấn đề khó khăn rắc rối gì tôi cũng đều tìm đến bà. Bây giờ tôi xin bà hãy kề vai sát cánh cùng tôi lần cuối cùng. Khi tôi chết, bà có nguyện đi theo tôi không?”.

Bà vợ thứ hai trả lời: “Xin lỗi, lúc này tôi không thể giúp ông được. Nếu có, tôi chỉ đưa linh cữu ông ra mộ thôi”.

Người vợ thứ hai – người bạn tâm tình thân thiết thủy chung của ta cũng chỉ khóc khi ta chết, đưa ta ra đến mộ rồi quay đầu
Ông nghe câu trả lời mà như sét đánh ngang tai. Ông thực sự quá đau đớn vì người mà ông nghĩ có thể tin tưởng nhất cũng bỏ rơi ông. Bỗng có một giọng nói cất lên: “Tôi sẽ đi cùng ông, đi đến bất cứ nơi nào ông tới”. Ông dáo dác tìm kiếm chủ nhân của giọng nói và nhận ra đó chính là người vợ thứ nhất, người mà chẳng mấy khi ông để ý tới.

Trông bà gầy và xanh xao quá. Rưng rưng xúc động, ông nói: “Đáng lẽ ra trước đây tôi phải chăm sóc bà nhiều hơn nữa”. Chỉ có duy nhất người vợ cả, người thường bị ta bỏ mặc, lãng quên khi sống… là kiên quyết đi theo, yêu thương ta cả cuộc đời

Mỗi chúng ta ai cũng có 4 bà vợ.
    
  • Bà vợ thứ tư chính là thân thể của chúng ta. Cho dù ta có chăm chút, trau chuốt đến mấy, rồi nó cũng rời bỏ ta khi ta chết.
    
  • Còn bà vợ thứ ba? Đó chính là của cải, địa vị. Khi chúng ta chết, chúng sẵn sàng đi theo người khác.
    
  • Bà vợ thứ hai chính là gia đình và bạn bè. Cho dù có thân thiết đến mức độ nào, khi ta chết, họ cũng chỉ khóc đưa ta ra mộ mà thôi.
    
  • Bà vợ thứ nhất chính là tâm hồn ta, thường bị lãng quên khi ta chạy theo tiền tài, địa vị, danh vọng, của cải, nhưng nó sẽ theo ta suốt cuộc đời.
Tốt hơn hết là nuôi dưỡng tâm hồn ngay từ bây giờ, vì đó là “người” thân tín nhất bên ta. Đừng để phải hối hận vì đã lãng quên nó.
Nguồn: Internet 
 


Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA LỄ LÁ NĂM B


CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA
LỄ LÁ NĂM B
Tin Mừng thánh Máccô 11,1-11


I. TIN MỪNG

Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21: 1-11; Lc 19: 28 -40; Ga 12, 12 -19 )

1 Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ2 và bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây.3 Nếu có ai bảo: "Tại sao các anh làm như vậy? ", thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay."4 Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra.5 Mấy người đứng đó nói với các ông: "Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy? "6 Hai ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông.7 Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên.8 Nhiều người cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải.9 Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: "Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!10 Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời! "11 Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.


1 1 When they drew near to Jerusalem, to Bethphage and Bethany at the Mount of Olives, he sent two of his disciples2 and said to them, "Go into the village opposite you, and immediately on entering it, you will find a colt tethered on which no one has ever sat. Untie it and bring it here.

3 If anyone should say to you, 'Why are you doing this?' reply, 'The Master has need of it and will send it back here at once.'

4 So they went off and found a colt tethered at a gate outside on the street, and they untied it.

5 Some of the bystanders said to them, "What are you doing, untying the colt?"

6 They answered them just as Jesus had told them to, and they permitted them to do it.

7 So they brought the colt to Jesus and put their cloaks over it. And he sat on it.

8 Many people spread their cloaks on the road, and others spread leafy branches that they had cut from the fields.

9 Those preceding him as well as those following kept crying out: "Hosanna! Blessed is he who comes in the name of the Lord!10 Blessed is the kingdom of our father David that is to come! Hosanna in the highest!"

11 He entered Jerusalem and went into the temple area. He looked around at everything and, since it was already late, went out to Bethany with the Twelve.


II. TRẮC NGHIỆM

01.  Khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, Ngài cỡi con vật gì?
a. Con ngựa
b. Con lừa
c. Con bò
d. Con voi

02. Khi Đức Giêsu cỡi lừa vào thành Giêrusalem, việc Ngài cỡi lừa nói lên điều gì?
a. Ngài là Đấng Mêsia khiêm hạ, đem đến sự bình an.
b. Ngài là Đấng Mêsia đến để giải phóng dân tộc Ítraen khỏi quân thù.
c. Ngài là Vua chiến thắng hiển vinh.
d. Cả a, b và c đúng.


03. Khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng cất tiếng reo hò vang dậy, người ta gọi Đức Giêsu là ai?
a. là Đấng Mêsia.
b. là Vua thuộc dòng dõi Đavít
c. là Đấng sẽ đến để giải phóng Ítraen.
d. Cả a, b và c đúng.

04. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem dân chúng hô to: “Hosana!” .  “Hosana!” là từ ngữ Hípri, có nghĩa là gì?
a. “Xin cứu giúp chúng con”
b. “Chúc tụng Vua muôn đời”
c. “Vinh danh Đức Chúa”
d. Cả a, b và c đúng.


05. Ngôn sứ Dacaria đã tiên báo Đấng Mêsia sẽ cỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Giờ đây Đức Giêsu đang thực hiện lời tiên báo ấy. Việc Đức Giêsu thực hiện lời tiên báo của ngôn sứ Dacaria xác quyết điều gì?
a. Ngài xác nhận mình là Đấng Mêsia của Ítraen.
b. Ngài mặc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của Ngài.
c. Ngài tỏ mình cho mọi người biết: Ngài là Con Thiên Chúa.
d. Chỉ có a và b đúng

06. Khi dân chúng hô to Hôsana, đó không phải là lời tung hô tán tụng Đức Giêsu như người ta vẫn tưởng. Song đó là gì?
a. Tiếng kêu gào Thiên Chúa hãy can thiệp, giải cứu dân Ngài ngay bây giờ, vì Đấng Mêsia đã đến.
b. Tiếng mọi người tôn vinh Thiên Chúa.
c. Tiếng kêu la phản đối của thành phần lãnh đạo tôn giáo Do thái.
d. Cả a, b và c đúng

07. Theo Chúa Giêsu đó là “phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Vác thập giá hôm nay chính là gì?
a. Đón nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại…
b. Đón nhận những lời nói nhục mạ bất công
c. Đón nhận những thiệt thòi mất mát trong vui tươi.
d. Cả a, b và c đúng.


III. CÂU LỜI CHÚA GHI NHỚ VÀ HỌC THUỘC LÒNG

“Hoan hô!
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!"
Tin Mừng thánh Máccô 11,9b



Lời giải đáp
CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA
LỄ LÁ NĂM B

II. TRẮC NGHIỆM

01. b. Con lừa
02. a. Ngài là Đấng Mêsia khiêm hạ, đem đến sự bình an.
03. d. Cả a, b và c đúng.
04. a. “Xin cứu giúp chúng con”
05. d. Chỉ có a và b đúng
06. a. Tiếng kêu gào Thiên Chúa hãy can thiệp, giải cứu dân Ngài ngay bây giờ, vì Đấng Mêsia đã đến.
07. d. Cả a, b và c đúng.

NGUYỄN THÁI HÙNG



Bằng chứng lớn lao nhất



Bằng chứng lớn lao nhất
Cái chết không làm chứng cho chân lý, nhưng cho tình yêu của Chúa Kitô.
Trong thư thứ I gởi cho đồ đệ Timôthê, Thánh Phaolô nhắc lại rằng Chúa Giêsu Kitô, trong cuộc thương khó, đã làm chứng trước mặt tổng trấn Philatô “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp” (I Tm 6,13). Làm chứng về điều gì? Khi nghe Người khẳng định Người có một vương quốc, ông tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên, đã hỏi lại ngay: “Vậy ông là vua sao?” Người đáp” “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật” (x. Ga 18, 36-37). Sự thật nào? Không phải là sự thật về cuộc sống và về sự nghiệp của mình. Nhiều người đã chết và vẫn còn chết hiện nay cho một sự nghiệp bất chính mà vẫn nghĩ rằng nó là chính đáng. Nhưng sự phục sinh, -vâng, chính sự phục sinh làm chứng cho sự thật về Chúa Kitô, như sau này Thánh Phaolô sẽ nói trước Hội đồng Arêopagô ở thành phố Athen: “Thiên Chúa đã cho mọi người một bảo đảm về Đức Giêsu khi cho Người sống lại từ cõi chết” (Cv 17,31).
Cái chết: bằng chứng tối cao cho tình yêu
Cái chết không làm chứng cho chân lý, nhưng cho tình yêu của Chúa Kitô. Hay nói đúng hơn, cái chết làm nên chứng cớ tối cao về tình yêu này như chính Chúa Kitô đã nói: “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Có người sẽ phản bác: “Còn có một tình yêu lớn hơn nữa, đó là tình yêu của kẻ chết vì thù địch của mình”. Thì Chúa Giêsu cũng chính là một con người như thế, và hơn bất cứ ai. Thư gởi giáo đoàn Rôma viết: “Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì những người lương thiện. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,6-8). Và trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện cho chính những kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Có một thứ tu đức phiến diện ca ngợi đau khổ và thập giá như thể tự mình chúng là có giá trị. Chúa Giêsu dạy cho biết chỉ có tình yêu mới đáng cho ta hy sinh tất cả vì nó. Đau khổ, thập giá mà thiếu vắng tình yêu thì chỉ còn là tai họa đè bẹp con người mà thôi. Nhưng với tình yêu, tất cả sẽ có một ý nghĩa và gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Thánh Âu-tinh nói: “Khi yêu thì không đau khổ, mà nếu có đau khổ thì người ta sẽ thích cả nỗi khổ ấy”. Có tình yêu, nghĩa là biết mình đang yêu hoặc đang được yêu. Thánh Phaolô, hơn ai hết, đã trải nghiệm mãnh liệt “chân lý” này. Ngài chia sẻ kinh nghiệm ấy trong thư Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm đao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta …” (Rm 8,35-37).
Sự phục sinh: câu trả lời cuối cùng cho mầu nhiệm sự chết
Cuộc đời không bao giờ hết đau khổ và nước mắt. Nhưng người môn đệ Chúa Kitô không chỉ bằng lòng với việc ghi nhận đau khổ như một sự kiện khách quan, rồi để mặc nó. Đau khổ phải bị loại bỏ, phải được vượt qua. Mọi người phải góp phần chống lại nó dù biết rằng nó mãi mãi là một phần của cuộc đời trần gian. Ít nhất là tránh đừng gây ra đau khổ cho mình hay cho kẻ khác.
Người Kitô hữu không thể nói đức tin không mang lại câu trả lời cho huyền nhiệm đau khổ và sự chết. Làm thế nào để bảo đảm với ai đó là trong chiếc ly nước không có thuốc độc? Có một cách: mình uống chén nước trước họ! Đó là điều Thiên Chúa đã làm với con người. Người đã uống chén đắng của cuộc khổ nạn. “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Thư Do-thái 2,18). Nỗi khổ của con người không thể bị đầu độc, không chỉ chứa toàn là tiêu cực, mất mát, phi lý nếu chính Thiên Chúa đã chọn uống cạn chén. Dưới đáy cái chén phải có một viên ngọc.
Viên ngọc ấy có tên là ơn phục sinh. “Tôi nghĩ rằng, những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Và sách Khải huyền: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chằng còn tang tóc, kêu than và đau đớn nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Chứng từ của các vị tử đạo
Sau Chúa Giêsu, những kẻ đã làm chứng “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp”, đó là các vị tử đạo. Thời đầu Giáo Hội, các truyện kể về các ngài được gọi là “bài thương khó” (Passio) giống như bài thương khó của Chúa Giêsu Kitô, mà chúng ta nghe nhiều lần trong Tuần Thánh. Người ta đọc truyện tử đạo và phổ biến rộng khắp trong Giáo Hội với một lòng tôn kính bao la. Ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới, người Kitô hữu lại phải trải qua cuộc thử thách rất nặng nề của bắt bớ và tử đạo.
Có một đặc điểm phân biệt những truyện tử đạo chân chính với những truyện mang tính “truyền thuyết” người ta tưởng tượng ra sau những cuộc bách hại với những mục đích khác nhau: trong những truyện chân chính, không thấy dấu vết “bút chiến” nào chống lại những kẻ bách hại; tác giả chỉ chú tâm vào hành động anh dũng của các vị tử đạo, chứ không để ý tới sự tàn bạo của các quan tòa và bọn lý hình mà lên án. Thánh Cyprianô tử đạo đã đi tới chỗ truyền cho người nhà biếu tên đao phủ sắp chém đầu ngài hai mươi lăm đồng tiền vàng. Các thánh tử đạo quả xứng là môn đệ của Đấng đã cầu nguyện trước khi chết: “Lạy Cha, xin tha cho họ …”
Tôi nhớ đã đọc một lời tâm sự của Đức Hồng Y  Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói rằng ngài rất ái ngại mỗi khi có nhà báo đến phỏng vấn, vì họ tìm mọi cách để ngài “nói xấu” về những kẻ bắt bớ giam cầm ngài. Một bằng chứng về sự thánh thiện chân thật của Đức Hồng Y chính là ở chỗ ngài luôn luôn giữ một tâm trạng bình an, hiền hòa và quảng đại với hết mọi người kể cả những kẻ thù nghịch với ngài.
Và làm sao chúng ta không khâm phục một “chứng từ cao đẹp” khác của một vị tử đạo nổi tiếng ngày nay, ông Pakistan Shahbaz Bhatti, người Pakistan? Ông là người công giáo duy nhất trong chính phủ Hồi giáo Pakistan, với chức vụ bộ trưởng phụ trách những cộng đồng người thiểu số. Ông đề nghị bãi bỏ những đạo luật chống báng bổ (anti-blasphemy laws) và công khai bênh vực Asia Bibi, một người Kitô hữu mẹ gia đình bị kết án tử hình theo chính đạo luật bất công này. Trong bản Di chúc của mình, ông viết những lời khẳng khái sau đây:
“Những nhân vật cao cấp trong chính quyền đã đề nghị với tôi và họ yêu cầu tôi từ bỏ cuộc chiến đấu, nhưng tôi đã luôn luôn từ chối, ngay cả khi biết rằng tôi đang liều mất mạng. Tôi không tìm kiếm sự nổi danh, tôi không muốn những vị trí quyền lực. Tôi chỉ muốn một chỗ dưới chân Chúa Giêsu. Tôi muốn rằng đời sống tôi, tính tình tôi, các hành động của tôi lên tiếng thay cho tôi và nói rằng tôi đang đi theo Chúa Giêsu Kitô. Ước muốn này thật mạnh mẽ trong tôi đến nỗi tôi coi mình là rất may mắn nếu –trong nỗ lực của tôi và trong cuộc chiến đấu của tôi nhằm giúp người thiếu thốn, kẻ khó nghèo, người Kitô hữu bị bắt bớ của Pakistan – tôi được Chúa Giêsu Kitô vui lòng chấp nhận hiến lễ đời tôi. Tôi muốn sống cho Chúa Kitô và tôi muốn chết vì Người”.
Ngày 2 tháng 3 năm 2011, ông đã bị một nhóm khủng bố thuộc tổ chức Al-Quêđa ám sát. Một năm sau Giáo Hội Pakistan đã nhất trí xin phong thánh cho vị tử đạo của mình.
*
Có một trận động đất xảy ra khi Chúa Giêsu từ trần trên thập giá. “Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: ‘Quả thật ông này là Con Thiên Chúa’” (Mt 27,54). Nhưng một trận địa chấn còn dữ dội hơn xảy đến khi Người phục sinh. “Thiên thần Chúa từ trời xuống, lăn tảng đá ra rồi ngồi lên trên.” (Mt 28,2). Và sẽ luôn luôn xảy ra như thế. Cứ sau mỗi trận động đất gây chết chóc sẽ lại có một trận động đất mang lại sự sống. Ai đó đã nói: “Từ nay chỉ một vị thần mới cứu nổi chúng ta”. Chúng ta xác tín rằng vị ấy sẽ ra tay cứu vớt chúng ta “bởi vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho thế gian” (Ga 3,16).
Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM
(Viết theo cha  Ranieri Cantalamessa, OFMCap.)

Nguồn: kinhthanh.org

Chúa Nhật Lễ Lá - Năm B NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI





Chúa Nhật Lễ Lá - Năm B
NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Lễ cho sinh viên – giới trẻ Hà nội
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế ? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác : lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào ? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa ? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ :
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất ?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này ? Bạn đã chống trả ra sao ? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên ?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không ?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất ?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả ?

Nguồn: tinmung.net

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Lá - Những ngã rẽ nguy hiểm




Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Lá - Những ngã rẽ nguy hiểm
Con đường thập giá của Chúa Giêsu là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ.
Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Ðức Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. 
Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.
Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người. 
Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế ?
Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy tư về ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông.
1.      Ngã rẽ của đám đông.
Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi !”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.
Đám đông đã rẽ sang lối nào ? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!
2.      Ngã rẽ của Giuđa.
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.
Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.
3.      Ngã rẽ của Phêrô.
Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Ðức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.
Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71).  Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm. 
Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa ? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô ?  Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ ?  Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa ?  Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa ?  Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.
Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện những ngã rẽ nguy hiểm của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.
Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nguồn : kinhthanh.org

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Suy niệm Chúa nhật lễ lá - Phần chìm của Thánh Lễ




Suy niệm Chúa nhật lễ lá - Phần chìm của Thánh Lễ
Phần nổi và phần chìm của Thánh Lễ là hai phần không thể tách lìa của một hiến tế duy nhất của Đức Ki-tô.
Nếu có dịp đi thuyền ra giữa biển khơi, thỉnh thoảng người ta có thể bắt gặp những chú cá voi hiền hòa dễ thương bơi lội trong làn nước biếc mênh mông. Tiếc một điều là người ta chỉ có thể nhìn thấy những tia nước biển do chúng phun lên, hoặc thấy một phần rất nhỏ của tấm lưng chúng trồi lên mặt nước, còn phần lớn thân thể chúng chìm trong làn nước biển xanh không ai thấy được. Họa hoằn mới có một vài chú cá voi cao hứng búng mình lên cao, vượt lên khỏi mặt nước, phô bày cho người ta thấy cả tấm thân đồ sộ và rực rỡ của chúng dưới ánh nắng mặt trời. Thấy vậy mọi người rất khoan khoái.
Tôi xin mượn hình ảnh những chú cá voi nầy để minh họa về Thánh Lễ.
Thánh Lễ chính là cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su kéo dài trong lịch sử cho đến ngày tận thế (giáo lý công giáo số 1323, 1366,1367). Tuy nhiên, khi đến tham dự Thánh Lễ, giáo dân không thể nhìn thấy toàn bộ Thánh lễ mà chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà thôi, còn phần chìm của Thánh Lễ, là phần đặc biệt quan trọng, thì không ai nhìn thấy.
Phần nổi của Thánh Lễ là phần ta có thể nghe và nhìn thấy khi linh mục cử hành Thánh Lễ trên bàn thờ: giang tay cầu nguyện, đọc các bài sách thánh, dâng bánh rượu, truyền phép, cho rước lễ… vân vân….
Vì lần nào tham dự Thánh Lễ cũng chỉ thấy có bấy nhiêu chuyện nên ta cảm thấy Thánh Lễ sao mà nhạt nhẽo, nhàm chán quá! Sở dĩ như thế một phần là vì ta chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà chưa thấy phần chìm hết sức thiêng liêng, cao cả, cảm động và đầy ấn tượng của Thánh Lễ.
Nên nhớ rằng: phần chìm và phần nổi của chú cá voi là hai phần không thể tách lìa của cùng một thân thể, thì phần nổi và phần chìm của Thánh Lễ là hai phần không thể tách lìa của một hiến tế duy nhất của Đức Ki-tô.
Làm sao thấy được, hiểu được phần chìm của Thánh Lễ?
Qua bài thương khó hôm nay, thánh sử Mác-cô phác họa cho chúng ta thấy tường tận diễn tiến của Thánh Lễ, tức là của hy tế thập giá của Chúa Giê-su. Đây chính là phần chìm của Thánh Lễ mà không mấy người để ý đến.
Tôi xin dựa vào tường thuật của thánh Mác-cô để tóm lược những giai đoạn chính của Thánh Lễ như sau:
Khởi đầu, Chúa Giê-su và các môn đệ ăn bữa tối trước ngày chịu nạn. Đây cũng chính là lúc Chúa Giê-su thiết lập Thánh Lễ trong phòng tiệc ly. (Mác-cô 14,22-25)
Sau đó, Chúa Giê-su vào cầu nguyện thống thiết trong vườn Dầu, chấp nhận uống chén đắng theo ý Chúa Cha. Tiếp đó, quân lính đến bắt Chúa Giê-su (Mc 14, 46), áp giải Người ra trước Thượng Hội Đồng để chịu vu cáo, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đánh đấm túi bụi (Mác cô 14, 65) rồi bị đưa ra trước tòa Phi-la-tô (15,2). Bị dân Do-thái kết án dữ dội, Phi-la-tô cho đánh đòn rồi trao Chúa Giê-su cho họ đem đi đóng đinh. (15, 15) Thế rồi, dù sức tàn lực kiệt, Chúa Giê-su phải vác thập giá lên đồi Gôn-gô-ta, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chế giễu nhạo cười và cuối cùng tắt thở trên thập giá.
Thánh Lễ là thế đó! Phần chìm của Thánh Lễ là thế đó! Nếu chúng ta hiểu rằng chính lúc phần nổi của Thánh Lễ được cử hành trên bàn thờ bởi các linh mục của Hội Thánh thì cũng là lúc phần chìm của Thánh Lễ là cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su đang diễn tiến song hành để đem lại ơn tha tội cho nhân loại, thì chúng ta sẽ quý trọng Thánh Lễ biết bao, sẽ siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh Lễ biết chừng nào!
Nào, mời cộng đoàn chứng kiến cách thiêng liêng Thánh Lễ của Chúa Giê-su qua bài thương khó được công bố trong ngày Lễ Lá hôm nay. Đó là bài Thương Khó trích từ Tin Mừng Mác-cô, chương 14 và 15)
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Nguồn: kinhthanh.org