Trang

Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Suy Niệm Chúa Nhật V Phục Sinh - năm B (2012)



Suy Niệm Chúa Nhật V Phục Sinh - năm B (2012)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh  mời gọi mỗi Ki-tô hữu phải xác tín rằng cuộc đời Ki-tô hữu không thể nào đơm hoa kết trái nếu không được cắt tỉa.

Lm Inhaxiô Hồ Thông

Cv 9: 26-31

Sách Công Vụ tường thuật Giáo Hội Giê-ru-sa-lem ngần ngại tiếp đón thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân hoán cải. Nhưng thánh nhân đã thật sự hoán cải: một môn đệ rao giảng Đức Ki-tô với một con tim bốc lửa và một niềm xác tín sâu xa.

1Ga 3: 18-24

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan khuyên người Ki-tô hữu hãy đứng về phía sự thật; có như thế, cuộc đời chúng ta mới thanh thản và bình an và lời nguyện cầu của chúng ta mới được Thiên Chúa nhận lời.

Ga 15: 1-8

Đức Giê-su là cây nho thật. Được kết hợp với Ngài, các môn đệ không thể không đơm bông kết trái được, nhưng phải biết rằng họ phải chịu cắt tỉa, nghĩa là phải chịu thử thách.
    
BÀI ĐỌC I (Cv 9: 26-31)


Trong suốt sáu Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả bài đọc I đều được trích dẫn từ sách Công Vụ: năm trong số đó liên quan đến lãnh vực hoạt động của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội. Một đoạn trích duy nhất, đoạn trích hôm nay, nêu bật dung mạo của thánh Phao-lô.
    
Chứng liệu này hiến dâng cho chúng ta mối quan tâm về lịch sử cũng như tâm lý: chính yếu là thời gian thánh Phao-lô lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, sau khi hoán cải. Thánh nhân được đón tiếp với thái độ nghi kỵ.

    
1. Những thử thách đầu tiên của thánh Phao-lô.


Các Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chẳng những biết mà còn biết quá rõ về ông Phao-lô nầy. Trong cuộc bách đạo đầu tiên giáng xuống trên họ, ông Phao-lô là kẻ bách hại cuồng nhiệt nhất: “Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8: 3). Ông đã dự phần vào việc ném đá thánh Tê-pha-nô, chính ở dưới chân ông mà người ta để áo để rảnh tay ném đá (Cv 7: 58).
    
Nhiều năm sau nầy, chính thánh Phao-lô vẫn còn nhớ sự cuồng nhiệt mà ông đã phô bày vào lúc đó: “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét. Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế ủy quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ” (Cv 26: 9-11).

    
Ấy vậy, cũng chính nhân vật nầy trở lại Giê-ru-sa-lem nhập vai môn đệ của Đức Giê-su. Làm thế nào cộng đoàn Ki-tô hữu không khỏi nghi ngờ việc kẻ bách đạo cuồng nhiệt nầy nay đã được chính Đấng Phục Sinh quy phục để trở thành một trong những nhà truyền giáo nhiệt thành nhất của họ được chứ? Thật ra, tin đồn về cuộc hoán cải của thánh nhân đã vang dội tới Giê-ru-sa-lem; nhưng phản ứng đầu tiên là ngờ vực.

    
Trong thư gởi các tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô tường thuật những gì đã xảy ra cho thánh nhân sau khi được ơn trở lại. Sau khi Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân trên đường đi đa-mát và sau những ngày thánh Phao-lô đã trải qua giữa nhóm nhỏ Ki-tô hữu thành Đa-mát, thánh nhân viết: “Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Á-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày” (Gl 1: 16-18).

    
Tại sao thánh Phao-lô lại trì hoản lên Giê-ru-sa-lem? Phải chăng vì kẻ bách hại xưa kia đã gây ra biết bao điều tang tóc cho những người Ki-tô hữu ở tại kinh thành nầy cảm thấy ngại ngùng? Lý do thật sự mà thánh Phao-lô cho chúng ta ở nơi những lời nầy: “Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, tức khắc tôi đã sang xứ Á-rập”. Thánh nhân không hỏi ý kiến của bất kỳ ai, tự xem mình là người được chính Đấng Phục Sinh ủy nhiệm, là người đã nhận mệnh lệnh truyền giáo từ chính Chúa. Tức khắc, ông khởi hành ra đi truyền giáo cho lương dân. Đây không là lần duy nhất, như đoạn trích Công Vụ hôm nay cho thấy.

    
Tuy nhiên, trong những ngày lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, khi “tìm cách nhập đoàn với các môn đệ”, thánh Phao-lô lại càng gieo nỗi sợ hãi ở nơi họ. May thay, có một người trong số họ, không xuất thân từ Giê-ru-sa-lem (nhưng từ đảo Síp), rất có uy tín trong cộng đoàn vì tấm lòng quảng đại của ông (Cv 4: 37), đó là ông Giu-se, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv 4: 36). Chính ông nhận ra nhân cách của thánh Phao-lô, vì thế ông lấy uy tín của mình mà đứng ra bảo lãnh cho thánh nhân và chân thành giới thiệu ơn gọi đặc biệt của thánh nhân. “Từ đó thánh Phao-lô cùng với các tông đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng danh Chúa”.

    
Nhưng rồi thánh Phao-lô nhận thấy Giáo Hội Giê-ru-sa-lem quá bận tâm về sự hoán cải của những người Do thái Pa-lét-tin, vì thế thánh Phao-lô toan tính mở rộng sứ vụ truyền giáo đến những người Do thái gốc Hy-lạp. Sở hữu hai nền văn hóa: Do-thái và Hy-lạp, những người Do thái gốc Hy lạp nầy đến sinh sống ở Giê-ru-sa-lem và hình thành nên một nhóm nhiệt thành và năng động, nhưng cũng là một nhóm nguy hiểm. Thánh Tê-pha-nô đụng phải họ và đã phải trả giá bằng mạng sống của mình (x. Cv 6: 9). Thánh Phao-lô cũng phải chịu chung số phận. Lòng nhiệt thành của thánh nhân đánh thức lòng thù hận của họ. Thánh nhân phải lìa bỏ Giê-ru-sa-lem không chỉ để cứu mạng mình nhưng còn vì lợi ích của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem: “Anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô”.

    
Những bước khởi đầu đầy gian nan nầy không ảnh hưởng đến tình cảm của thánh Phao-lô dành cho Giáo Hội-Mẹ; thánh nhân luôn luôn công bố uy quyền của Giáo Hội Mẹ mà ông gắn bó sâu xa. Ông sẽ không quản ngại ra sức quyên góp để giúp đỡ Giáo Hội Mẹ. Với tấm lòng nhiệt thành truyền giáo, thánh nhân luôn luôn là người tiên phong, nhưng luôn luôn hoạt động trong sự hiệp thông với Giáo Hội.

    
Ông Ba-na-ba sẽ không quên người bạn đồng hành có tâm hồn bốc lửa nầy. Vài năm sau nầy, ông sẽ đi tìm thánh Phao-lô ở Tác-xô, dẫn thánh nhân theo với mình đến An-ti-ô-khi-a; đoạn, lôi kéo thánh nhân vào cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của mình. Thánh nhân cảm thấy mình thoải mái hơn trong cuộc mạo hiểm lớn lao nầy.

    
2. Giáo Hội được bình an.


Sau những sự cố xảy ra trong những ngày thánh Phao-lô lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội lại được bình an. Thời kỳ yên ổn nầy không kéo dài được bao lâu. Vào năm 42-43, cuộc bách hại xảy đến một lần nữa, lần nầy do vua Hê-rô-đê Agrippa, cháu của vua Hê-rô-đê An-ti-pát. Trong cuộc bách đạo này, nạn nhân đáng chú ý nhất là thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, bị xử trảm.
    
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 18-24)


Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Bức thư nầy được triển khai theo một dàn bài khó xác định. Cũng những chủ đề xuất hiện nhiều lần, lúc thì với những lập đi lập lại, lúc thì với những hàm chứa mới. Nhưng giọng văn luôn luôn thôi thúc và nồng nàn. Vị Tông Đồ trình bày những tiêu chuẩn cho cuộc đời Ki-tô hữu chính danh.
    
Thánh nhân khuyên người Ki-tô hữu “đứng về phía sự thật”, tức là “sống trong sự thật”, “sống trong bình an” và “sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa”. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo thường hằng được nhắc đi nhắc lại trong bức thư nầy: một ngón đòn hữu hiệu nhất đối lại với những đạo lý sai lạc đang hoành hành nhân danh Ki-tô giáo, tự cho mình là cao vời siêu việt.

    
1. Sống trong sự thật:


Sống trong sự thật, chính là sống theo cách sống của Thiên Chúa, nghĩa là sống trong tình yêu, vì Thiên Chúa là tình yêu.
    
“Đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Đây là lời khuyên cảnh giác của vị mục tử, nhưng cũng là lời quở trách ngầm đối với những người lạc giáo mà thánh Gioan vừa mới lên tiếng ở trên: “Ai nói mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1Ga 2: 9). Chúng ta không thể xác định cách cư xử của những thầy dạy sai lạc nầy, nhưng sau nầy chúng ta biết rằng những nhà thuyết giáo ngộ đạo này bày tỏ sự khinh miệt đối với đám đông tín đồ không có khả năng vươn tới sự khôn ngoan của họ.

    
2. Sống trong bình an:


Người Ki tô hữu nào thực hành tình yêu chân chính cho anh em mình, mới có thể sống trong sự thanh thản và bình an: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa”. Chữ “lòng” ở đây phải được hiểu theo nghĩa của văn hóa Do thái, nơi lương tâm ngự trị: “vì nếu lương tâm chúng ta cáo tội chúng ta thì Thiên Chúa còn lớn hơn lương tâm chúng ta, và Người biết hết mọi sự”.
    
Cả câu trích dẫn trên và câu theo sau: “Nếu lương tâm không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, hình thành nên hai thái độ căn bản ở nơi người Ki-tô hữu: thái độ của tội nhân thống hối ăn năn và thái độ của người công chính làm những điều đẹp lòng Chúa.

    
Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta đừng xao xuyến vì tội lỗi của mình. Thiên Chúa biết rõ cõi lòng sâu thẳm của chúng ta còn hơn chúng ta nữa; chúng ta hãy phó thác vào trong sự hiểu biết sâu xa của Ngài. Mẫu gương mà bức thư này thường trích dẫn để minh họa lời khuyên bảo nầy là mẫu gương của thánh Phê-rô, rõ ràng được thánh Gioan tường thuật trong Tin Mừng của mình, khi Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô: “Nầy anh Si-môn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không?”, vị Tông Đồ nhớ lại ba lần mình đã chối Thầy, nên không dám quả quyết ngay là mình yêu mến Thầy, nhưng khiêm tốn phó thác vào sự hiểu biết của Đức Giê-su, Đấng thấu suốt cõi sâu thẳm của lòng người: “Thưa Thầy, Thầy biết là con yêu mến Thầy”. Và lần thứ ba, với một giọng trầm buồn, thánh nhân thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 18). Ở đây, chúng ta gặp lại cùng một diễn ngữ trong thư thứ nhất của Gioan: “Người biết mọi sự”.

    
Trường hợp thứ hai là thái độ của người Ki-tô hữu trung tín: lương tâm của họ không cáo tội họ. Thánh Gioan không ngần ngại khuyên bảo họ hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Khi người công chính đạt được tâm trạng nầy, họ biết rằng những lời cầu nguyện của mình phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa; vì thế, “xin điều gì được Ngài ban cho điều đó”. Chủ đề nầy vang dội trong bản văn của Tin Mừng hôm nay.

    
3. Sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.


“Tuân giữ các điều răn của Người” được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc xuyên suốt bức thư nầy. Trong đoạn trích nầy, thánh Gioan hòa hợp ý muốn của Chúa Cha và lệnh truyền của Chúa Con thành một viễn tượng duy nhất, trong quan điểm hiệp nhất của Thiên Chúa. Chúa Cha đòi hỏi họ phải “tin vào Con của Ngài” và “yêu thương nhau” như Chúa Con đã đòi hỏi họ. Hai huấn lệnh nầy “được đúc kết thành một huấn lệnh duy nhất”. Như vậy, đối với thánh Gioan, “tin” và “yêu thương nhau” thì bất khả phân.
    
Đức tin sống động nầy đảm bảo cho người tín hữu rằng “mình ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong mình” (chúng ta gặp lại động từ “ở trong” chất chứa cùng một ý nghĩa như trong Tin Mừng thứ tư). Chính Thần Khí bảo lãnh đức tin và đức ái nầy một cách chắc chắn và chính thực. Như vậy, chương nầy kết thúc với cuộc đời Ki-tô hữu trong cùng một quan điểm của Ba Ngôi Thiên Chúa.

    
TIN MỪNG (Ga 15: 1-8)


Vì Lễ Thăng Thiên: tưởng niệm cuộc ra đi của Đức Giê-su, sắp đến gần, các bản văn Tin Mừng của Chúa Nhật V và Chúa Nhật VI Phục Sinh được trích dẫn từ những cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào con đường Khổ Nạn.
 
1. Bối cảnh của dụ ngôn “cây nho”:

Dụ ngôn “cây nho” được Chúa Giê-su công bố với các môn đệ Ngài trong cuộc chuyện trò sau cùng này. Xét về hình thức, dụ ngôn nầy khó lồng vào khuôn khổ lịch sử của buổi chiều cáo biệt nầy. Đức Giê-su nói rất nhiều điều với các môn đệ mình; đoạn Ngài ra dấu ra đi khỏi bàn tiệc mà đến vườn Ô-liu: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”. Ấy vậy, ngay sau lời nầy, Ngài công bố: “Thầy là cây nho thật”.
    
Phải chăng trên đường trong bóng đêm Chúa Giê-su kể dụ ngôn nầy? Xem ra hợp lý hơn, Chúa Giê-su công bố dụ ngôn này đang khi Ngài cùng các môn đệ rảo bước băng qua vườn nho của miền Pa-lét-tin. Đây là cách thức thông thường Ngài đưa ra giáo huấn của mình khởi đi từ những dữ kiện cụ thể.

    
Tuy nhiên, còn chỗ nào thích hợp hơn là vào bữa Tiệc Ly ở đó Đức Giê-su nhắc lại dụ ngôn nầy khi mà chén rượu được chuyền tay, khi mà cây nho thật sắp sản sinh rượu nho tinh tuyền nhất từ cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài nhỉ? Dụ ngôn “cây nho” ngân vang một cung giọng đậm nét Thánh Thể. Trong Tin Mừng của mình, dù thánh Gioan không tường thuật Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể, thánh ký đã biết đóng ấn Bí Tích nầy trên bữa Tiệc Ly cao cả nầy.

    
1. “Thầy là cây nho thật”:


Nếu chúng ta liên kết hai bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước và của Chúa Nhật này, sứ điệp của Chúa Giê-su thật tuyệt vời. Sau khi Chúa Giê-su đã gợi lên tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa dưới dung mạo “Người Mục Tử Nhân Lành”, bây giờ Ngài gợi lên tấm thân tình gần gũi của Thiên Chúa qua một hình ảnh khác, hình ảnh “Cây Nho Thật”.
    
Khi tuyên bố mình là “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su quy chiếu về một lịch sử dài của biểu tượng xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: Ít-ra-en là cây nho được Thiên Chúa ân cần chăm lo, điều này được các ngôn sứ không ngừng nhắc đi nhắc lại: Hô-sê, I-sai-a, đặc biệt Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Tv 80, các sách Khôn Ngoan, vân vân. Nhưng cây nho nầy, dù đã được Thiên Chúa hết lòng chăm sóc và thương yêu, đã không đơm bông kết trái như lòng Chúa mong ước. Các vị lãnh tụ hiện nay của dân cung cấp một bằng chứng rõ ràng (x. Mt 21: 33-44).

    
Đức Giê-su là cây nho thật, cây nho hoàn hảo, cây nho sinh hoa kết trái như Chúa Cha mong đợi, nghĩa là Đức Giê-su là Ít-ra-en mới; các Ki-tô hữu kết hợp với Ngài hình thành nên Dân Thiên Chúa Mới, dân mà Ngài chuyển thông nhựa sống của mình cho họ.

    
Đức Giê-su long trọng khẳng định: “Thầy là cây nho thật”. Đây là một trong những lời khẳng định độc quyền của Đức Giê-su với “TÔI LÀ”. Những lời khẳng định nầy thường có một âm vang chiều kích Mê-si-a và luôn luôn mặc lấy tính chất siêu việt. Ở đây Đức Giê-su xác định: cây nho chính là Ngài, Con Thiên Chúa; người trồng nho chính là Thiên Chúa, Cha của Ngài.

    
Như vậy Chúa Giê-su muốn nói rằng sự sống mà Ngài chuyển thông thực chất là sự sống thần linh. Thân nho và các cành nho hình thành nên chỉ một cây nho duy nhất, hình ảnh mật thiết về Chúa Ki-tô với Giáo Hội của Ngài. Ở đây, khía cạnh Giáo Hội cũng rõ ràng như trong dụ ngôn Người Mục Tử Nhân Lành, nhưng điểm nhấn được đặt trên đời sống nội tại của Giáo Hội.

    
2. “Anh em là cành”:


“Thầy là cây nho, anh em là cành”. Ở đây, chúng ta nhận ra một chủ đề căn bản của Tin Mừng thứ tư: Đức Giê-su đòi hỏi một sự chọn lựa: hoặc gắn bó với Ngài hay từ chối Ngài. Gắn bó với Ngài không là một con đường dể dàng. Đức Giê-su gợi lên những công việc mà thính giả của Ngài biết rất rõ, những công việc của người trồng nho xử lý cây nho của mình ngõ hầu cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái: chặt cành tỉa lá một cách nghiêm khắc, không biết xót thương. Chúa Cha hành xử như vậy đối với những môn đệ của Con của Ngài. Đức Giê-su sử dụng những từ rất mạnh mẽ; Ngài chuẩn bị cho các môn đệ của Ngài bước vào những thử thách đang chờ đợi họ. Đây chính là mầu nhiệm Vượt Qua mà chính Ngài sẵn sàng sống. Luật cắt tỉa luật cứng rắn, nhưng chỉ như vậy người Ki-tô hữu mới trở thành những cành nho đơm bông kết trái.
    
Tuy nhiên, Đức Giê-su trấn an các ông: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em”. Chữ “lời” được hiểu theo nghĩa: giáo huấn, sứ điệp . Đây là nét nghĩa thường hằng trong Tin Mừng Gioan: “Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao giờ phải chết” (8: 51); “Ai nghe lời tôi, và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời” (5: 24); “Các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông” (8: 37). Vả lại, đặc ngữ nầy quy chiếu đến Ngôi Lời trong Tựa Ngôn: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”.

    
Trước đây, Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô rồi, vào lúc Ngài rửa chân cho ông: “Về phần anh em, anh em đã sạch” (13: 10). Các Tông Đồ được sạch nhờ Lời Thiên Chúa mà họ đã đón nhận, Lời này đã trở thành ở trong họ một sức mạnh biến đổi nội tâm. Đây là một chủ đề tiêu biểu của thánh Gioan: Ai kết hợp với sự thật, người ấy có ở trong mình sức mạnh thanh tẩy, sức mạnh giải phóng khỏi gian dối và tội lỗi: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8: 31). Sự thật là sự sống; hai khái niệm rất gần nhau tại Tin Mừng Gioan.

    
3. “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”.


Đức Giê-su mời gọi các môn đệ: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em”. “Ở lại” là từ chủ chốt của dụ ngôn này. Chúng ta biết rằng, khác với ba Tin Mừng Nhất Lãm, thánh Gioan không sử dụng kiểu nói: “Nước Thiên Chúa” (ngoại ,trừ trong cuộc đàm luận với ông Ni-cô-đê-mô ở đó kiểu nói nầy xuất hiện hai lần: Ga 3: 3 và 5). Thánh nhân không bao giờ nói: “Nước Thiên Chúa đã đến gần” hay “Nước Thiên Chúa ở đó”, vì Nước Thiên Chúa không là một thực tại bên ngoài. Thánh Gioan nhấn mạnh “chiều kích nội tại của Nước Thiên Chúa” và diễn tả chiều kích nội tâm hóa nầy bởi động từ “ở lại”.
    
Cành nho không thể tự mình đơm bông kết trái được, cũng vậy: “Không có Thầy, anh em không làm gì được”. Đây cốt là cuộc sống siêu nhiên mà không ai có thể đạt được hay tăng trưởng được, nếu chỉ cậy nhờ vào những phương thế của riêng mình.

    
Toàn bộ dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Hậu cảnh bí tích được tiềm ẩn ở đây. Đức Giê-su công bố những lời nầy vài giờ trước cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Chính Giáo Hội: cành nho, nhất thiết phải gắn bó mật thiết với Đức Ki-tô: thân nho, để tiếp nhận nhựa sống thần linh. Nước rửa tội, rượu Thánh Thể, sẽ là những chính lộ của sự chuyển thông nầy; cây nho thật là cây ban sự sống.

    
4. “Anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”.


“Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”. Trong Diễn Từ Cáo Biệt của mình, Đức Giê-su nhiều lần nhấn mạnh lời cầu nguyện. Chính Ngài nêu gương: Ngài hoàn tất cuộc trò chuyện giữa Thầy với các môn đệ bởi một lời cầu nguyện dài với Cha Ngài, được gọi “Lời Nguyện Hiến Tế” (17: 1-26).
    
Trong viễn cảnh của sự kết hợp mật thiết giữa thân nho và cành nho, Đức Giê-su gợi lên tính hiệu lực của lời cầu nguyện. Cường độ của cuộc sống nội tâm kéo theo như một sự thẩm thấu giữa những ý muốn của Thiên Chúa và những ước muốn của người tín hữu.

    
5. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh.


Như chúng ta đã biết, Tin Mừng Gioan được chia thành hai phần: phần thứ nhất được gọi là “Tin Mừng về các dấu lạ” (2: 1-12: 50) và phần thứ hai được gọi là “Tin Mừng về vinh quang” (ch. 13-21). Quả thật, phần thứ hai nầy đề cập rất nhiều về vinh quang của Chúa Cha và sự tôn vinh của Chúa Con.

Điều đem lại vinh quang của người trồng nho chính là chất lượng của trái nho cũng như sự phong phú của chùm nho. Cũng vậy, các môn đệ sẽ góp phần vào vinh quang của Chúa Cha bằng những hoa trái thánh thiện và sự rạng ngời sứ vụ của họ. Lúc đó, họ xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa Giê-su. Bằng những lời nầy, Đức Giê-su diễn tả mối bận lòng chủ yếu của Ngài: thực hiện ý muốn của Cha Ngài trên con người, tức là họ phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.

Nguồn: kinhthanh.org

LỄ THÁNH GIUSE THỢ


 
LỄ THÁNH GIUSE THỢ

Lm Phêrô Trần Đình, Đalạt

Lễ Thánh Giuse thợ hôm nay là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Lao động nào cũng đổ mồ hôi. Có khi vì thế mà người kitô hữu tự nhủ mình : âu cũng chỉ là hậu quả của nguyên tội. Có thật đúng như vậy hay không ?.

Kinh thánh khẳng định : lao động không phải là một hình phạt do tội, nhưng là điều kiện bình thường của con người. Trước khi con người      sa ngã, “Thiên Chúa đã đặt họ trong vườn Eđen để họ canh tác và giữ vườn” (St 2, 15). Nếu thập giới có buộc giữ ngày Sabbat thì đó là vì con người đã làm việc sáu ngày (Xh 20, 8 tt). Hình ảnh mô tả việc sáng tạo trong sáu ngày nhấn mạnh rằng : việc làm của con người hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, đồng thời phản ánh hành động của Tạo Hoá. Câu chuyện này cho ta hiểu : khi tạo dựng con người giống hình ảnh Người, Thiên Chúa đã muốn tháp nhập lao động vào trong chương trình của Người và sau khi thiết định vũ trụ, Người lại đặt lao động vào tay con người với quyền chiếm hữu và cai trị trái đất (1, 28).

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi tác động tạo dựng của Thiên Chúa được mô tả bằng cử chỉ của người thợ đang nắn con người (St 2, 7), chế tạo bầu trời với ngón tay của Người và định vị các tinh tú (Tv 8, 4).

Cho nên, kinh thánh đã nghiêm khắc với sự ở nhưng, nguyên chỉ vì người lười biếng không có gì ăn (Cn 13, 4) và có nguy cơ chết đói (21, 25). Thánh Phaolô không ngần ngại dùng lý chứng này để chứng tỏ sự sai lầm của những người ngán ngẩm lao động : “Ai không làm việc thì đừng ăn” (2 Th 3, 10). Hơn thế nữa, ở nhưng là một sự hư đốn. Kinh thánh thán phục người đàn bà luôn tỉnh thức, nàng “không hề ăn bánh của sự ở nhưng” (Cn 31, 27) đồng thời chế nhạo kẻ lười biếng : “Kẻ lười biếng lăn trở trên giường khác nào cánh cửa xoay trên bản lề” (Cn 26, 14). Tuy nhiên, kinh thánh không chút thương hại  kẻ tạc ngẫu tượng, bởi vì những cố gắng ấy không được tích sự gì (Ys 40, 19 tt ; 41, 6tt).

Nhưng vì là một dữ kiện nền tảng của đời sống con người, nên lao động đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi tội : “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có ăn” (St 3, 19). Cần hiểu cho đúng. Đối tượng lời chúc dữ của Thiên Chúa không phải là lao động cũng như không phải là chính việc sinh nở của phụ nữ. Cũng như sinh nở là chiến thắng đớn đau của sự sống trên cái chết, thì lao khổ hằng ngày của con người đánh dấu việc thể hiện quyền bính mà Thiên Chúa đã ban cho con người như đã nói trên. Quyền bính vẫn còn tồn tại, nhưng mặt đất, vì bị chúc dữ, đã trở nên đối kháng lại con người và cần phải được chinh phục. Nhà thần học R. Koch giải thích rất sâu sắc khi nói về đặc tính của các hình phạt : “Có lẽ tác giả Giavít muốn dạy ta rằng : sự thay đổi đã diễn ra trong nội tâm con người. Sau khi phạm tội, con người đã nhìn thế giới bằng cặp mắt khác”.

Người kitô hữu phải quan niệm về lao động với ý nghĩa cao cả như thế.

Tuy nhiên, trong sự cố gắng của lao động, điều tệ hại nhất là, cả khi nó đưa tới những thành công ngoạn mục, thì cái chết sẽ đến và làm cho nó trở nên vô bổ : “Ích gì những lao nhọc ? Những ngày gian nan, những bận tâm công việc, những đêm dài trằn trọc ? Tất cả đều là phù vân” (Hc 2, 22 tt).

Cái chết, một thực tại hiển nhiên, một “dự phóng phá đổ mọi dự phóng” (J.P.Sartre) ! Thất vọng ư ? Buông xuôi ư ?. Không, Đức Giêsu đã đến, Người đã soi sáng lao động bằng những nghịch lý và ánh sáng của Tin Mừng : phải đề cao lao động, nhưng không được dừng lại ở đó, nếu không con người không thể ra khỏi ngõ cụt, không có lối thoát.

Phải đề cao lao động. Tại sao ?. Thưa bởi vì Đức Giêsu không bao giờ loại trừ lao động ra khỏi cuộc sống của Người. Đồng hương của Người đã không lầm lẫn khi gọi Người là “con bác thợ” (Mt 13, 35), “ông thợ mộc” (Mc 6, 3). Người đã sống cái “nghiệp” ấy trong 30 năm trời tại Nadarét.

Một Đức Giêsu lao động ! Điều ấy có nói gì với niềm tin của chúng ta không ?. Có và rất nhiều. Nói rằng Đức Giêsu lao động hay nói rằng Đức Giêsu đảm nhận thân phận con người cũng chỉ là nói một điều. Mà “cái gì không được đảm nhận thì không được cứu độ” (Thánh Irênê). Cho nên phải nói rằng, với Đức Giêsu, lao động đã mang một ý nghĩa cứu độ. 30 năm lao động âm thầm, Đức Giêsu chẳng những đã thánh hoá công việc, nhưng còn biến nó thành một phương tiện cứu độ khi liên kết nó với tất cả công trình cứu độ của Người. Và nếu cái chết của Người là cao điểm của việc cứu độ, thì quả thật mỗi hành vi của đs Người  - trong đó có lao động – đã mang ý nghĩa cứu độ này rồi, bởi vì thật ra lao động là thành phần của mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô, nếu không thì những năm trường tăm tối tại Nadarét chẳng có một ý nghĩa nào khác ngaòi miếng cơm manh áo hay sao ?.

Lao động quả thật  phải được đề cao. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy ta không được dừng lại ở đó. Lao động chỉ là một giá trị trong bậc thang các giá trị mà thôi.

“Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi mãi đến sự sống đời đời” (Ga 6, 27). Đó là châm ngôn sống của người kitô hữu.

Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời rao giảng, Người không nói đến vấn đề lao động, nhưng chỉ nói đến Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến và đã đến. Người xem nhẹ lao động chăng ?. Hay là vì đã hiểu được nỗi cực nhọc và đắng cay của lao động ?. Không, chỉ vì Nước Trời phải vượt lên trên tất cả : “Tiên vàn phải tìm kiếm Nước Trời…” (Mt 6, 33). Những điều khác : ăn, uống, mặc không phải là không quan trọng , nhưng ai quá ưu tư về các điều đó đến nỗi mất cả Nước Trời thì sẽ mất tất cả, cho dù họ có chinh phục được cả vũ trụ đi nữa (x. Lc 9, 23). Mọi cái khác đều phải lu mờ trước cái tuyệt đối là chiếm hữu được Thiên Chúa. Trong một thế giới mà “bộ mặt đang qua đi” (1 C 7, 31), thì chỉ có cái gì “gắn bó hoàn toàn với Thiên Chúa” (7, 35) mới đáng kể.

Thánh Giuse chắc hẳn là người trước tiên đã sống ý nghĩa cũng như yêu sách của lao động trong chính cuộc hiện hữu của ngài.

Nguồn: simonhoadalat.com

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH NĂM B



VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 15,1-8


I. TIN MỪNG

1 "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho.2 Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.3 Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em.4 Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.

5 Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.7 Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý.8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.

1  "I am the true vine, and my Father is the vine grower.

2 He takes away every branch in me that does not bear fruit, and everyone that does he prunes  so that it bears more fruit.

3 You are already pruned because of the word that I spoke to you.

4 Remain in me, as I remain in you. Just as a branch cannot bear fruit on its own unless it remains on the vine, so neither can you unless you remain in me.

5 I am the vine, you are the branches. Whoever remains in me and I in him will bear much fruit, because without me you can do nothing.

6  Anyone who does not remain in me will be thrown out like a branch and wither; people will gather them and throw them into a fire and they will be burned.

7 If you remain in me and my words remain in you, ask for whatever you want and it will be done for you.

8 By this is my Father glorified, that you bear much fruit and become my disciples.



I. HÌNH TÔ MÀU


 
* Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


* Bạn hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 15,8
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .



II. TRẮC NGHIỆM

01. Trong dụ ngôn cây nho thật, ai là người trồng nho? (Ga 15,1)
a. Thiên Chúa
b. Đức Giêsu
c. Ông Noê
d. Dân Ítraen


02. Ai là cây nho thật? (Ga 15,5)
a. Dân Ítraen
b. Các tông đồ
c. Đức Giêsu
d.Thiên Chúa


03. Cành nào không gắn liền với Đức Giêsu thì hậu quả thế nào? (Ga 15,2-6)
a. Không sinh hoa trái.
b. Bị chặt đi.
c. Quăng vào lửa cho nó cháy đi.
d. Cả a, b và c đúng.


04. Với những cành nào sinh hoa trái, ai sẽ cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa trái hơn? (Ga 15,2)
a. Đức Giêsu.
b. Thiên Chúa, Cha Thầy.
c. Các tông đồ.
d. Ông Phêrô.


05. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là gì? (Ga 15,8)
a. Anh em trở nên những người đáng yêu.
b. Anh em sinh nhiều hoa trái và trở nên môn đệ của Thầy.
c. Anh em hãy yêu mến nhau.
d. Cả a, b và c đúng.


 
III. Ô CHỮ 



Những gợi ý
01. Ai được tôn vinh vì anh em sinh nhiều hoa trái, và trở thành môn đệ thầy? (Ga 15,8)


02. Cành nào khô héo thì quăng vào đâu cho nó cháy đi? (Ga 15,6)

03. Đức Giêsu là gì trong dụ ngôn cây nho thật? (Ga 15,5)

04. Thiên Chúa, Cha Thầy, là người làm gì trong dụ ngôn cây nho thật? (Ga 15,1)

05. Cũng như điều gì không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho? (Ga 15,4)

06. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em trở thành gì của Thầy? (Ga 15, 8)
07. Những cành không sinh hoa trái thì Thiên Chúa làm gì? (Ga 15,2)

08. Các môn đệ là gì trong dụ ngôn cây nho thật? (Ga 15,5)

09. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều … … (Ga 15, 8)

10. Với những cành sinh hoa trái, Thiên Chúa làm gì cho nó sinh nhiều hoa trái hơn? (Ga 15, 2)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH  GHI NHỚ VÀ HỌC THUỘC LÒNG

Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái.
Tin Mừng thánh Gioan 15,5b



NGUYỄN THÁI HÙNG


Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH NĂM B


Tin Mừng thánh Gioan 15,1-8


I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề :
Chùm nho nhiều trái


* Bạn hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 15,8

Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là:
Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy


II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM

01. a. Thiên Chúa (Ga 15,1)
02. c. Đức Giêsu Ga 15,5)
03. d. Cả a, b và c đúng (Ga 15,2-6)
04. b. Thiên Chúa, Cha Thầy (Ga 15,2)
05. b. Anh em sinh nhiều hoa trái và trở nên môn đệ của Thầy (Ga 15,8)


III. Lời giải đáp Ô CHỮ 

01. Chúa Cha (Ga 15,8)
02. Lửa (Ga 15,6)
03. Cây nho (Ga 15,5)
04. Trồng nho (Ga 15,1)
05. Cành nho (Ga 15,4)
06. Môn đệ (Ga 15, 8)
07. Chặt đi (Ga 15,2)
08. Cành (Ga 15,5)
09. Hoa trái (Ga 15, 8)
10. Cắt tỉa (Ga 15, 2)


Hàng dọc : Cây Nho Thật

NGUYỄN THÁI HÙNG

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

TỪ ĐIỂN PHỤNG VỤ : B





TỪ ĐIỂN PHỤNG VỤ : B

Ba Lần Thánh
(= Trisagion)
Tiếng Hy Lạp trisagion có nghĩa là ba lần thánh. Trong phụng vụ Hy Lạp, từ này chỉ kinh Thánh, Thánh, Thánh. Ðây cũng là điệp khúc ba lần Hagios trong những lời Than vãn ngày thứ sáu Tuần Thánh (xc. Hagios o theos).

Ba Ngôi
(= Trinité)
Chúa nhật sau ngày lễ Ngũ tuần là lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi. Vào cuối chu kỳ phụng vụ kính mầu nhiệm Nhập thể và Cứu độ (Giáng sinh, Phục sinh), kết thúc bằng việc ban Thánh Thần, Hội thánh có ý dừng lại ở mầu nhiệm Ba Ngôi. Dù lễ này nhắm đến ý nghĩa tín lý, có lẽ xa lạ với cung giọng quen thuộc của những ngày lễ trọng cổ truyền (đó cũng là trường hợp của lễ Mình Máu Thánh), việc mừng kính mầu nhiệm Ba Ngôi là một lời nhắc nhở thích hợp về nguồn mạch và đích điểm của toàn bộ đời sống Ki-tô giáo.
Mọi cử hành phụng vụ đều bắt đầu bằng công thức "Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần", hòa nhịp với kinh chúc tụng "Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa", hay những vinh tụng ca khác về Chúa Ba Ngôi (xc. Per Ipsum). Chính vì đã được thánh tẩy "nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần", nên người Ki-tô hữu có thể cử hành Giao ước, nhờ chức tư tế cộng đồng: không chỉ sẵn sàng đón nhận tác động cứu độ của Chúa Ba Ngôi. Các tín hữu nên nhớ: phụng vụ Giê-ru-sa-lem trên trời chính là việc cử hành chúng ta được tham dự thực sự thông qua phụng vụ trần thế và là việc tháp ghép hoàn hảo của Hội thánh, Hiền thê và Thân mình Ðức Ki-tô, vào trong đời sống Chúa Con, Ðấng sinh ra bởi Chúa Cha và trong Chúa Thánh Thần và lại trở về với Chúa Cha trong cùng một Thánh Thần (xc. Vinh quang, Chúa Thánh Thần, Giao ước, Cộng đoàn).

Bài Công Bố Các Lễ Di Ðộng
(= Annonce des fêtes mobile)
Theo phong tục cổ xưa của phụng vụ Rô-ma, vào ngày lễ Hiển linh, người ta có thể hát bài công bố các lễ di động sau bài Tin mừng. Âm điệu của bài này rất gần với âm điệu của phần dẫn nhập trong bài ca Exultet, tức là bài công bố Tin mừng Phục sinh. Những bài ca với nhạc điệu rất đơn giản này có nguồn gốc rất xa xưa từ bình ca ghê-gô-ri-a-nô.

Bài Công Bố Tin Mừng Phục Sinh
(= Exultet)
Còn gọi là bài Exultet, do động từ La-tinh exultare, nghĩa là nhảy mừng, hân hoan vui sướng. Exultet là bài công bố long trọng lễ Phục sinh do một phó tế hát lúc khởi đầu đêm canh thức trọng thể, sau nghi thức làm phép lửa mới, chuẩn bị nến Phục sinh và cuộc rước vào thánh đường dưới ánh nến Phục sinh. Bài ca Exultet kết thúc phần đầu của đêm canh thức mừng ánh sáng Ðức Ki-tô phục sinh.
Mừng vui lên hỡi các cơ binh Thiên thần trên trời! Ðó là lời mở đầu bài ca trọng thể này, một tổng hợp đầy thi vị, cô đọng toàn thể mầu nhiệm Phục sinh và tất cả niềm vui xuất phát từ mầu nhiệm đó. Bài ca xuất hiện ít là từ thế kỷ IV. Sau khi hân hoan hát lời mở đầu, thầy phó tế hát tiếp phần xướng đáp của kinh Tiền tụng như trong thánh lễ, rồi đến phần chính của bài Exultet, bằng giọng trang trọng của kinh Tiền tụng Rô-ma,, điểm thêm những biến tấu khác thường.
Trong suốt thời gian hát bài Exultet, các tín hữu cầm nến sáng trong tay và hiệp thông với niềm hân hoan của thầy phó tế bằng lời thưa A-men, kết thúc. Thầy phó tế xin và nhận phép lành của chủ tế trước khi hát, giống như khi hát hoặc đọc Tin mừng trong thánh lễ. Linh mục hoặc giáo dân cũng có thể đảm nhận trách nhiệm này khi không có thầy phó tế, nhưng bỏ phần xin chúc lành.

Bài Ðọc (Giờ Kinh)
(= Lecon)
Là bài đọc khi cử hành phụng vụ, gồm bài dài trong giờ kinh Sách, bài ngắn trong các giờ kinh khác (xc. Bài đọc).

Bài Ðọc (Sách)
(= Lectionnaire)
Ðây là sách phụng vụ gồm các bài đọc đã được soạn sẵn cho các buổi cử hành lễ. Người ta phân biệt Sách bài đọc Chúa nhật và ngày trong tuần, Sách bài đọc cho các nghi lễ Rửa tội, Hôn phối, An táng... Ngoài ra, còn có Sách bài đọc sử dụng trong giờ kinh Sách.

Bài Ðọc (Văn Bản)
(= Lectures)
Trong thánh lễ, cũng như trong các buổi cử hành khác, các bài đọc không chỉ có mục đích loan báo hay giáo huấn cho các tín hữu, nhưng còn thực sự là bản công bố chương trình của Thiên Chúa trong Lịch sử Cứu độ, một sự hiện thực hóa Mặc khải cho cộng đoàn phụng vụ. Chính trong phụng vụ, Thánh kinh cho thấy những chiều kích đích thực của "Lời Thiên Chúa sống động và hữu hiệu" (Dt 4,12). (xc. Thánh kinh, Tin mừng).
Trong các Giờ kinh Phụng vụ, giờ kinh Sách được dành để suy niệm Thánh kinh và những trang tuyệt tác của các văn nhân chuyên về đời sống thiêng liêng, đặc biệt là các giáo phụ. Giờ kinh Sách gồm có: lời dẫn, thánh thi, ba thánh vịnh hoặc các phần thánh vịnh, bài đọc Thánh kinh với phần xướng đáp, bài đọc giáo phụ hay hạnh tích các thánh kèm phần xướng đáp, và phần kết thúc. Ðể giờ kinh giữ được tính cách riêng của việc đọc sách thiêng liêng, tức là lời cầu nguyện nội tâm kín múc từ Thánh kinh và Thánh truyền, có thể cử hành giờ kinh này vào thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. Nếu giờ kinh sách được cử hành trước tiên trong ngày, nó được khởi sự với lời giáo đầu. Các Giờ kinh Phụng vụ khác có một bài đọc ngắn sau các thánh vịnh (xc. bài đọc).

Bài Ðọc Ngắn
(= Capitule)
Ðây là một trích đoạn từ một chương trong Thánh kinh, dùng làm bài đọc ngắn sau phần thánh vịnh của một Giờ kinh Phụng vụ.

Bài Ðọc Tin Mừng (Sách)
(= Evangéliaire)
Sách có những đoạn Tin mừng được dùng để công bố hay hát Tin mừng trong thánh lễ.

Bài Giảng
(= Homélie)
Ðây là bài huấn từ của chính vị chủ tế (hoặc một linh mục khác hay một phó tế). Bài giảng tiếp ngay sau bài Tin mừng, có mục đích hiện tại hóa các bài đọc mỗi ngày cho cộng đoàn; và như vậy giúp các tín hữu cử hành Thánh Thể một cách đích thực hơn. Bài giảng được coi như thành phần thiết yếu của phụng vụ, nên buộc phải giảng trong các lễ Chúa nhật và lễ buộc, kể cả trong các lễ tu viện có giáo dân tham dự. Trong các thánh lễ khác cũng nên có bài giảng.

Bái Gối
(= Génuflexion)
Bái gối là một hành vi thờ phượng, tỏ bày sự tôn kính bằng cả thân xác. Khác với việc quì gối là một tư thế ổn định, bái gối là một cử chỉ nhất thời. Trong thánh lễ, linh mục bái gối sau mỗi lần thánh hiến và trước khi hiệp lễ. Qua việc bái gối hoặc bằng một cử chỉ thờ phượng khác lúc sắp hiệp lễ. Các tín hữu biểu lộ lòng kính trọng đối với Thánh Thể. Trước Thánh Thể, dù được trưng ra hay cất giữ trong nhà tạm, người ta đều bái một gối.

Bàn Chuẩn Bị Lễ Vật
(= Crédence)
Lúc đầu đó là cái bàn trên đó người ta đặt những đồ ăn đồ uống cần phải thử trước khi dọn cho các bậc vị vọng. Người ta nếm trước để có thể an tâm dọn cho các thực khách.
Trong phụng vụ, đó là cái bàn để đặt chén thánh, dĩa, bình thánh, bánh rượu và nước cần dùng cho bữa tiệc hiến tế Thánh Thể. Các sách, nến và những thứ khác cần dùng trong nghi lễ cũng thường được đặt trên đó. Tất cả những thứ này sẽ được mang lên bàn thờ vào những lúc qui định.

Bàn Thờ
(= Autel)
Trong La ngữ, từ altare, bắt nguồn từ chữ altus nghĩa là cao. Thoạt đầu, bàn thờ là một nơi cao dùng làm điểm giao kết giữa Thiên Chúa và thế giới. Bởi vậy, các ngọn núi hay các quả đồi là những nơi dành riêng để xây dựng các tế đàn nơi Thiên Chúa ngự xuống, và là nơi con người đi lên "Chạm núi cao cho khói tỏa mịt mù" (Tv 143,5). Cũng có khi một tảng đá từ trời rơi xuống - thiên thạch - làm cho nơi ấy thành một nơi phụng tự (chẳng hạn thánh địa La Mecque). Mặc dù bàn thờ cũng có thể ám chỉ toàn bộ một nơi thờ phượng (Ðông phương vẫn giữ thói quen này), nhưng dần dần được dùng để chỉ nơi trung tâm, tức là cái bàn, trên đó người ta dâng lên Thiên Chúa hoa màu lợi tức của mình. Việc đặt các thực phẩm ấy trên bàn thờ bằng đá như vậy là đặt chúng trong tay Thiên Chúa, hỏa thiêu chúng tức là dâng chúng lên trời để Thiên Chúa thưởng thức linh hương ngạt ngào của chúng (xc. St 8,21). Là cái bàn trên đó các lễ vật chuyển sang lãnh vực linh thánh, đương nhiên bàn thờ tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chính vì thế, bàn thờ không phải là nơi ai cũng được đụng chạm đến, thông thường chỉ có các tư tế mới được tới gần (xc. Xh 29), với những cử chỉ cung kính, như việc hôn kính bàn thờ trong thánh lễ.
Là bàn dâng lễ toàn thiêu, trên đó tế vật hoàn toàn trở thành khói hương bay lên Thiên Chúa, nên bàn thờ cũng là nơi Thiên Chúa và cộng đoàn cùng chia sẻ lương thực, dấu chỉ hiệp thông. Lương thực do Chúa ban được dâng lại cho Người, phần còn lại thuộc về con người và được nhìn nhận như là vật thánh thực sự (xc. Bữa tiệc). Thiên Chúa và con người hiệp thông trong cùng một sự sống: cả hai đều là thực khách. Khi kết thúc giao ước Xi-nai, một phần máu của các vật hy lễ được rưới trên bàn thờ, tượng trưng cho Ðức Gia-vê, còn lại phần kia rẩy trên dân. Nhờ hy lễ, Thiên Chúa và con người trở thành đồng huyết thống (xc. Xh 24).
Trong Tân ước, xét như Thiên Chúa, Ðức Ki-tô là Bàn thờ: với tư cách nhân loại, Người là Lễ vật và Tư tế. Lời tiền tụng thứ 5 của mùa Phục sinh tung hô: "Khi Người hiến mình trên thánh giá, Người đã làm cho hết thảy các hy lễ của Giao ước cũ đạt đến thành toàn; và khi hiến thân để cứu độ chúng con, chỉ một mình Người là bàn thờ, tư tế và tế vật".
Khi thánh hiến bàn thờ, việc dùng dầu thánh xức trên năm dấu thánh giá (ở giữa và bốn góc) và trên khắp mặt bàn thờ, biến tảng đá ấy biến thành biểu tượng của Ðức Ki-tô, Ðấng đã được xức dầu Thánh Thần. Việc xông hương bàn thờ biểu trưng cho hy lễ Ðức Ki-tô. Ðấng hiến mình cho Chúa Cha tựa hương thơm ngào ngạt (Ep 5,2), đồng thời biểu tượng cho lời cầu nguyện nhờ Thánh Thần tác động trong tâm hồn. Khăn trải bàn thờ cho thấy đó là bàn tiệc Thánh Thể, nơi đây Thiên Chúa và con người cùng hiệp thông, không phải bằng máu của súc vật hy tế, nhưng trong Bửu huyết của Ngôi Lời nhập thể, Ðấng đã chết và phục sinh. Những ngọn nến bao quanh bàn thờ gợi lên Ðức Ki-tô là "Ánh sáng muôn dân" (Lc 2,32). Bên dưới mặt bàn thờ có đặt hài cốt các thánh: đó là biểu hiện sự hiệp nhất giữa hy lễ của Ðầu và các chi thể trong Nhiệm Thể.
Trong các thánh đường, bàn thờ, nơi tái diễn hy lễ độc nhất của Tân ước, là trọng tâm qui tụ của toàn bộ toàn kiến trúc. Nhằm làm nổi bật hơn nữa giá trị đích thực của bàn thờ, không nên đặt nhà tạm ở đó. Ngoài những cử chỉ tôn kính dành cho bí tích Thánh Thể (xc. Bái gối), bàn thờ cũng xứng đáng được các tín hữu biểu lộ sự cung kính hơn cả thánh giá nữa (xc. Cúi). Việc các linh mục hôn bàn thờ khi cử hành thánh lễ là biểu hiệu của lòng tôn kính và sự hiệp thông. Bàn thờ, Tư tế và Hiến tế Tạ ơn là những biểu tượng của Ðức Ki-tô theo những cấp độ khác biệt, nhưng bổ túc cho nhau.
Chỉ có bàn thờ cố định mới được thánh hiến. Một bàn thờ di động được làm phép do đức giám mục hay vị linh mục phụ trách nhà thờ nơi đặt bàn thờ đó và không đặt hài cốt các thánh bên dưới.

Bánh
(= Pain)
Bánh là thức ăn chính yêu của con người, nhất là ở Tây phương. Bánh còn là biểu tượng của thực phẩm. Với ý nghĩa này, bánh được dâng lên Thiên Chúa như lễ vật. Trong Giao ước cũ, Ðức Gia-vê truyền dâng cho Người bánh tiến - theo nghĩa đen, là bánh của Nhan Người - Bánh này được đặt trước Nhan Thiên Chúa suốt cả tuần, trong nơi thánh Lều Tạm hay Ðền thờ, trước khi được vị tư tế lãnh nhận (Xh 25,30; Lv 24,5-9; 1 Sm 21,5). Thiên Chúa muốn con người luôn nhớ rằng: "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Ðnl 8,3; Mt 4,4).
Ngôi Lời Thiên Chúa là Lời đến từ Thiên Chúa và lại về với Thiên Chúa (Is 55,11). Chỉ Lời Chúa mới có khả năng "làm cho tâm hồn con người được vững mạnh" (Tv 103,15). Trong diễn từ về Bánh Hằng sống (Ga 6), Ðức Giê-su tuyên bố Người là "Bánh Thiên Chúa ban, là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (6,33). Chính Chúa Cha là Ðấng ban cho chúng ta Bánh Hằng sống, và chính Ngôi Lời Nhập thể đã tự hiến mình khi ban tặng Thân thể Người để thế gian được sống (6,51).
Trong bí tích Thánh Thể, Thân thể Ðức Ki-tô là của ăn và Bửu huyết Người thật là của uống (6,55). Khi lãnh nhận Thân và Huyết Ðức Ki-tô, Ki-tô hữu tham dự vào hy tế của Người, hiệp thông với chính Chúa Con, Ðấng sống nhờ Chúa "lương thực cần dùng" (Mt 6,11, theo ý nghĩa nguyên thủy của từ Hy Lạp épousios). Do đó, chúng ta không ngừng dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha. Bánh Chúa Cha ban cho chúng ta là chính Con của Người đã tự hiến vì chúng ta, và bánh chúng ta dâng lên Chúa Cha cũng chính là Người Con ấy. Trong phụng vụ, đó là hai chiều kích không thể tách rời được (xc. Bánh không men; Tế phẩm).
Trong một vài trường hợp, chẳng hạn lễ Hiển linh, trước khi chuẩn bị lễ vật, người ta có thói quen chúc lành trên bánh và các thứ bánh không thánh hiến. Các nghi thức làm phép bánh rất cổ xưa. Việc lãnh nhận bánh này đôi khi thay thế việc hiệp lễ, khi không thể hiệp lễ theo đúng nghĩa được.

Bánh Không Men
(= Azyme)
Hội thánh Tây phương có thói quen dùng bánh không men trong phụng vụ Thánh Thể, căn cứ vào tính chất lễ Vượt qua của bữa Tiệc ly đầu tiên. Trong bữa tiệc này, Ðức Giêsu chắc hẳn đã dùng bánh không men theo nghi thức mừng lễ Vượt qua của người Do Thái. Ngược lại, Hội thánh Ðông phương quen cử hành Thánh Thể với bánh thông thường. Những cách thực hành khác biệt này giữa Hội thánh Hy Lạp và Hội thánh La-tinh đã là nguyên nhân phát sinh những cuộc tranh luận. Nhưng rất may là những tranh luận ấy ngày nay đã bớt phần gay gắt.
Từ khởi thủy, việc dâng bánh không men là một nghi lễ hiến tế của các nông dân định cư, gắn liền với việc cử hành lễ Vượt qua: việc cử hành này mô phỏng theo một hiến lễ của các người chăn chiên du mục qua việc sát tế chiên vượt qua (xc. Xh 12 và 13). Ðức Ki-tô, lễ Vượt qua của chúng ta, vừa là Con Chiên vô tì tích, vừa là bánh chân thực, không vương một chút men cũ là lòng gian tà và độc ác (1 Cr 5,5-8).
Ðúng ra, Tin mừng nói về men theo một nghĩa tích cực và một nghĩa tiêu cực. Ðức Giêsu nói tới lời giảng dạy của các người Pha-ri-sêu như một thứ men xấu, có thể làm hư cả khối bột (Mt 16,5-12; Xc. 1 Cr 5,6; Gl 9). Nhưng chỗ khác, Người lại nói: "Nước Trời giống như men được một người đàn bà lấy trộn vào ba đấu bột cho đến khi tất cả dậy men" (Mt 13,33). Câu trích dẫn này cùng với những câu khác nữa có thể biện minh cho tập tục của Hội thánh Ðông phương.

Bao Ðựng Khăn Thánh
(= Bourse)
Là một tấm bìa hình vuông, có thể mở và gấp được, dùng để đựng khăn thánh. Bao này thường cùng màu với áo lễ và được đặt trên tấm khăn phủ chén thánh. Ngày nay, người ta có khuynh hướng đặt khăn thánh bên dưới tấm khăn phủ chén thánh, và vì thế, không cần bao này nữa. Tuy nhiên, người ta vẫn còn dùng bao này khi chầu phép lành Thánh Thể.

Bẻ Bánh
(= Fraction du pain)
Bẻ bánh là một trong những danh xưng cổ nhất để chỉ Thánh Thể (Lc 24,35; Cv 2,42). Theo nghi thức bữa ăn của người Do Thái, sau khi đọc lời chúc tụng, vị chủ tọa bẻ bánh chia cho các thực khách. Ðức Giê-su đã thi hành những cử chỉ này trong hai lần Người làm cho bánh hóa nhiều (Mt 14,19; 15,36; Ga 6,11) và lúc Người thiết lập bí tích Thánh Thể (Lc 22,19). Từ lúc đó, nghi lễ bẻ bánh trở thành biểu tượng để chỉ Ðức Ki-tô - Người Tôi Trung dâng hiến mạng sống mình để chúng ta được sống dồi dào: Người tự trao nộp để được bẻ ra (qua đau khổ) và phân phát cho mọi người. Như vậy bẻ bánh trở thành động tác cốt lõi của phụng vụ Ki-tô giáo (Cv 2,46; 20,7.11; 27,35; 1 Cr 10,16).
Trong lúc cử hành thánh lễ, sau lời chúc bình an, đang khi đọc kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, chủ tế bẻ bánh Thánh Thể. Khi đưa lời cầu khẩn đó vào trong thánh lễ, đức Giáo hoàng Xéc-gi-ô (687-701) qui định phải hát kinh này trong lúc cùng nhau chia sẻ Mình Chúa. Bẻ bánh là một cử chỉ chuẩn bị hiệp lễ, cần thực thi với lòng sùng kính đặc biệt, vì đó là lặp lại cử chỉ của Chúa. Tính cách biểu tượng của cử chỉ này được nhấn mạnh qua ba lần kêu cầu Chiên Thiên Chúa, Ðấng đã nộp mình vì chúng ta, Ðấng chúng ta hưởng dùng như là Chiên Vượt qua mới. Bẻ bánh trong thánh lễ đồng tế càng cần thiết và ý nghĩa hơn: một tấm bánh Thánh Thể duy nhất, phân phát cho các vị đồng tế và ít là vài tín hữu, sẽ diễn tả biểu tượng hiệp nhất rõ ràng hơn (xc. 1 Cr 10,16-17).

Bể Nước
(= Piscine)
Bể nước thanh tẩy là một cái hồ lớn, nơi người ta làm Thanh tẩy bằng cách dìm. Cũng có thể là một cái chậu để rửa tội bằng cách đổ nước (xc. Giếng, Thánh tẩy). Trong ngôn ngữ phụng vụ, bể nước còn chỉ một cái bồn ở gần bàn thờ, hoặc trong giếng rửa tội, hoặc trong phòng thánh, dùng để xả nước đã dùng trong bí tích Thánh tẩy và trong việc tẩy rửa các đồ thánh khác.

Bí Tích (Bảy)
(= Sacrement)
Bí tích là một hành vi hay một thực tại liên hệ tới sự linh thánh. Ý nghĩa đầu tiên của từ sacramentum trong tiếng La-tinh là lời thề: người ta thề dựa trên điều linh thánh. Bí tích bao gồm sự linh thánh giống như thuốc men (medicamentum), sự chữa trị, hoặc giống như đài tưởng niệm (monumentum), gồm chứa điều người ta phải ghi nhớ (monere).
Nhân tính của Ðức Ki-tô, kết hợp với ngôi vị Con Thiên Chúa, có thể gọi được là bí tích của Thiên Chúa: "Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (Cl 2,9). Chính từ nhân tính của Ðức Ki-tô đã phát sinh ra đời sống thần linh làm sống động tất cả mọi chi thể của Nhiệm thể Người. Như vậy, bí tích trọn vẹn của Thiên Chúa - hoặc bí-tích-nguồn-mạch - là toàn Thân mình Ðức Ki-tô, gồm Ðầu và các chi thể, chứa đựng sự sống của Thiên Chúa. Trong viễn tượng đó, Công đồng Va-ti-ca-nô II đã muốn định nghĩa Hội thánh. "Trong Chúa Ki-tô, như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại" (GH 1). Thực vậy, trong khi chờ đợi Hội thánh được sáp nhập trọn vẹn vào đời sống của Thiên Chúa, Ðức Ki-tô, Ðấng đang ngự trị trong vinh quang Thiên Chúa, đã thánh hóa Thân mình của Người, không phải trực tiếp qua nhân tính thánh thiện, nhưng nhờ Hội thánh là Hiền thê và là Người Cộng tác trong công trình cứu độ của Người. Chính trong bí tích nguồn mạch, tức là Hội thánh, Thánh truyền đã giữ lại bảy bí tích, là những hành vi chính yếu của Chúa Ki-tô và của Hội thánh để thánh hóa con người.
Là những dấu hiệu bên ngoài mang ân sủng bên trong, hoặc là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, nên các bí tích phù hợp với bản tính con người, vừa tinh thần vừa thể chất. Khi người ta nói bí tích tác động do sự (ex opere operato), thì không nên hiểu rằng các bí tích có hiệu quả một cách máy móc, nhưng đúng hơn, đó là những tác động của Thiên Chúa được Ðức Ki-tô trực tiếp thiết lập, mang lại hiệu quả theo sự chuẩn bị của người lãnh nhận. Chính qua các bí tích, phụng vụ biểu lộ rõ ràng nhất cách thức gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người, sự gặp gỡ do sáng kiến của Thiên Chúa và sự đồng ý của con người (xc. Phụng vụ).
Vì đời sống ân sủng gắn liền với đời sống tự nhiên của con người, nên các bí tích thánh hóa những giai đoạn chính yếu của đời sống cũng như những tình huống quan trọng của nhân loại. Bí tích Thánh tẩy là sự sinh ra trong đời sống thần linh; bí tích Thêm sức là đánh dấu việc đạt đến tầm mức trưởng thành trong đức tin; bí tích Thánh Thể là nền tảng của toàn bộ các bí tích vì đó là sự hiện tại hóa một cách mỹ mãn Giao ước và sự hiệp thông hoàn toàn với Ðức Ki-tô. Ba bí tích đầu tiên này là các bí tích khai tâm. Bí tích Hôn nhân thánh hóa sự kết hợp vợ chồng nhằm sinh sản và giáo dục con cái; bí tích Truyền chức đem lại cho Hội thánh những thừa tác viên: giám mục, linh mục, phó tế; bí tích Sám hối giúp tìm lại đời sống ân sủng hay thực thi đời sống đó một cách sâu xa hơn. Bí tích Xức dầu bệnh nhân vừa là sự nâng đỡ vừa là sự tẩy luyện trong viễn tượng một cuộc hành trình tiến đến đời sống đích thực cùng với Ðức Ki-tô.
Về hiệu quả của bí-tích, thánh Âu Tinh phân biệt sacramentum tantum là dấu hiệu thuần túy ngoại tại, như việc đổ nước, sử dụng bánh, rượu; res tantum là hiệu quả tối hậu của các bí tích tức là ân sủng của Thánh Thần ban trong mỗi lãnh vực bí tích; và cuối cùng là res et sacramentum là thực tại trung gian, vừa là hiệu quả trước tiên, vừa là dấu chỉ hiệu quả tối hậu: đây là ấn tích trong các bí tích Thánh tẩy. Thêm sức, Truyền chức và là sự hiện diện thực sự của Chúa trong bí tích Thánh Thể. (Xin tham khảo thêm những khảo luận thần học. Xc. Chất liệu, Mô thức, Thánh Thần).

Bí Tích (Sách)
(= Sacramentaire)
Trong phụng vụ Ki-tô giáo thời sơ khai, sách bí tích là sách linh mục dùng khi cử hành thánh lễ, gồm các lời cầu, các kinh tiền tụng, kinh Tạ ơn. Các sách bí tích của đức Lê-ô Cả (thế kỷ IV-V), đức Ghê-la-xi-ô (VI-VII) và đức Ghê-gô-ri-ô (VII) là những nguồn tài liệu chính của sách lễ Rô-ma.

Bìa Xếp
(= Diptyques)
Thời đầu, bìa xếp chỉ đồ vật có thể gấp làm đôi: bìa xếp là những tấm bìa có thể gấp lại với nhau; bìa gấp ba là tấm bìa gấp lại thành 3 phần bằng nhau, hai phần mép bìa đặt lên nhau.
Trong phụng vụ, bìa xếp là những tấm bìa gấp đôi, trên đó ghi tên người sống và người chết được đến trong Lễ qui. Trong số những người còn sống, phải đặc biệt nhắc đến các vị lãnh đạo Hội thánh để bày tỏ mối hiệp thông với các vị ấy. Vì thế, việc rút danh tính một người ra khỏi tấm bìa xếp có nghĩa là khai trừ người đó khỏi cộng đoàn. Trong số những người chết, các thánh thuộc diện ưu tiên: xét về nguồn gốc, phong thánh lại chẳng phải là ghi danh vào kinh Tạ ơn sao?
Trong kinh Tạ ơn Rô-ma, những tấm bìa xếp tồn tại dưới hình thức kinh cùng hiệp thông (Communicantes) và kinh xin cũng cho chúng con (Nobis quoque), gồm một danh sách các thánh khá dài, và hai kinh xin nhớ đến (Memento), một cầu cho người sống và một cầu cho người chết (xc. Kinh Tạ ơn).

Biến Hình - Hiển Dung
(= Transfiguration)
Là lễ kính Chúa mừng vào ngày 6 tháng 8. Lễ Biến hình mừng biến cố các tông đồ Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê được chiêm ngắm vinh quang của Ðức Ki-tô, tám ngày sau khi ông Phê-rô tuyên tín tại Xê-da-rê và Ðức Ki-tô loan báo cuộc tử nạn lần thứ nhất. Ðức Giê-su muốn củng cố tâm hồn các tông đồ trước các đau khổ đang chờ đợi Người. Người đã nói với các ông những lời sau này Người sẽ nói với các môn đệ trên đường Em-mau: "Nào Ðức Ki-tô lại chẳng phải chịu đau khổ như thế, rồi mới được hưởng vinh quang dành cho Người hay sao?" (Lc 24,26). Như vậy, lễ Biến hình là một ngày lễ của vinh quang, là sự tiến đến đích điểm Lịch sử Cứu độ, tức là tham dự hoàn toàn vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu như các ông Mô-sê và Ê-li-a rạng ngời vinh hiển, đó chính là vì các ông đã tham dự một phần vào vinh quang tại núi Xi-nai (xc. Xh 33,18-23; 1 V 19,9-14). Khi ông Phêrô nêu lên việc dựng lều - mặc dù chính ông không biết mình nói gì (Lc 9,33) -đó là một ám chỉ lều Hội ngô, tại đó Ðức Chúa đã đàm đạo với ông Mô-sê, diện đối diện (Xh 33,7-11). Ðám mây cũng gợi đến sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong cuộc Xuất hành (13,21-22; 19,9; 33,9-10). Tiếng nói của Chúa Cha, cũng là những lời trong đó Chúa Con được sinh ra, cho thấy chúng ta chỉ có thể tham dự vào vinh quang của Chúa Con (xc. Ga 7,22-24) bằng việc lắng nghe Ðức Giê-su và bước theo Người. Lễ Biến hình là một lời mời gọi hướng tới vinh quang, và cũng là một nhắc nhở về hành trình đau khổ dẫn tới vinh quang.

Biến Thể
(= Transsubstantiation)
Vào thế kỷ XVI, từ Biến thể được Công đồng Tren-tô thừa nhận, tuy nhiên nó đã được ông Tê-tu-li-a-nô (thế kỷ II-III) và cả thời Trung cổ sử dụng để nói về sự biến đổi kỳ diệu vào lúc truyền phép trong thánh lễ. Bản thể - cốt lõi của hữu thể - của bánh đã được biến đổi thành bản thể của Mình Ðức Ki-tô, và bản thể của rượu được biến đổi thành bản thể của Máu Ðức Ki-tô. Như vậy, từ biến thể là một cố gắng giải thích các lời Ðức Ki-tô nói trong bữa tiệc ly: "Ðây là Mình Thầy... Ðây là Máu Thầy" (xc. Thánh Thể).

Biển Ðức (Ðan sĩ)
(= Bénédictins)
Là các tu sĩ thuộc dòng thánh Biển Ðức (từ La-tinh là Benedictus). Qua tu luật, các tu sĩ này hiến thân tìm kiếm Thiên Chúa, nên họ "không được ưa thích điều gì hơn là Công trình Thiên Chúa" (Tu luật ch. 43), nghĩa là việc phụng vụ. Truyền thống Biển Ðức luôn đề cao việc cử hành trọng thể kinh Thần vụ. Về điểm này, thánh Biển Ðức Aniane (thế kỷ VIII-IX) và các đan viện phụ Cluny (thế kỷ X-XII) đã củng cố những chỉ thị của Tu luật thánh Biển Ðức. Các đan viện Biển Ðức vẫn luôn là những trung tâm của sinh hoạt phụng vụ.

Biểu Tượng - Kinh Tin Kính
(= Symbole)
Trong Hy ngữ Symbolon chỉ một dấu để nhận ra nhau, hoặc một miếng thẻ làm tin, được sử dụng thời Trung cổ: hai vật lồng khít vào nhau, ăn khớp với nhau, chứng tỏ sự hiệp thông giữa những người sở hữu các vật đó.
Từ Symbolon không những có nghĩa là biểu tượng mà còn là kinh Tin kính. Ðó là toàn bộ những điều khoản diễn tả các chân lý cốt yếu của đức tin. Ðó là một cách để các tín hữu nhận ra nhau, một cách thiêng liêng chứ không phải cách vật chất. Kinh Tin kính là dấu chỉ chính yếu để nhận ra sự thông hiệp giữa các tín hữu. Khi sắp chịu phép Rửa tội, người ta trao kinh Tin kính như là môt điều bí truyền; đối với người lớn, đây mới chỉ là giai đoạn dự tòng. Trong thánh lễ ngày chúa nhật và lễ trọng, tín hữu cùng nhau tuyên xưng niềm tin của mình bằng kinh Tin kính các Tông đồ hoặc kinh Tin kính của các Công đồng Ni-xê và Công-tăng-ti-nô-pô-li.
Theo nghĩa tổng quát hơn, biểu tượng là một thực tại gợi lên, hoặc mang theo một thực tại khác. Biểu tượng tuy phong phú hơn, nhưng lại không chính xác bằng dấu chỉ. Vai trò chủ yếu của biểu tượng là vừa bày tỏ nhiều mức độ khác nhau của thực tại, vừa nối kết chúng lại: nơi con người toàn diện, biểu tượng diễn tả rõ nét sự hòa hợp của các sự vật. Phụng vụ là một tác động toàn diện, qua đó con người sống tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới, nên không thể vượt ra ngoài sự nối kết có tính cách biểu tượng. Thiên Chúa là Ðấng không ngừng tập họp Dân Người bằng cách sử dụng toàn bộ những biểu tượng của cuộc sáng tạo; trái lại ma quỉ lại phân tán, chia lìa, cắt đứt. Ý nghĩa các dấu chỉ bí tích tác dụng bên trong tính chất biểu tượng của các thành tố được sử dụng trong bí tích Thánh Thể; đối với dầu và nước cũng vậy. Lửa, hương, nến... không phải là một dấu chỉ bí tích, nhưng là một biểu tượng.

Bình
(= Vase)
Trong phụng vụ, tiếng bình thánh để chỉ chung các chứa đựng: chén thánh, dĩa thánh, bình thánh, mặt nhật, hộp đựng Thánh Thể, bình đựng dầu thánh.

Bình An
(= Paix)
Trong thánh lễ, nghi thức chúc bình an được thực hiện ở giữa vinh tụng ca cuối lời nguyện tiếp theo kinh Lạy Cha và lời nguyện thầm của linh mục trước khi hiệp lễ. Nghi thức này gồm có lời nguyện xin ơn bình an, lời nguyện công khai duy nhất dâng lên Ðức Ki-tô trong phần thường lễ, tiếp đó linh mục và các tín hữu chúc bình an cho nhau, cuối cùng là kinh "Lạy Chiên Thiên Chúa", kết thúc bằng lời cầu: "Xin ban bình an cho chúng con".
Một khi đã được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau, nhờ tái diễn hy lễ của Ðức Ki-tô, và một khi đã cùng nhau hát kinh Lạy Cha, các tín hữu có thể trao cho nhau bình an trước khi đóng ấn lên mối quan hệ giữa họ với nhau qua việc hiệp lễ. Bình an là hoa trái tuyệt hảo của mầu nhiệm Vượt qua (Ga 14,27; 20,19.20.26; xc Ga 5,22).
Theo truyền thống, cử chỉ hoặc dấu hiệu bình an là cái hôn chúc bình an. Tự nó, cái hôn đã rất có ý nghĩa. Nhưng vì không phải ở đâu cũng quen cử chỉ ấy, nên có thể sử dụng nhiều cách chúc bình an khác. Trong vấn đề này, thái độ tinh tế và kính trọng những tập quán của người khác chính là dấu hiệu chúc bình an tốt nhất.

Bình Ca
(= Plain-chant)
Từ này không hoàn toàn đồng nghĩa với từ "nhạc Ghê-gô-ri-ô" (xc. Ghê-gô-ri-ô).

Bình Thánh
(= Ciboire)
Bình thánh là bình dành riêng đựng và lưu trữ Thánh Thể, để phân phát cho tín hữu trong hoặc ngoài thánh lễ. Thông thường, bình thánh có dạng bán cầu; khác với chén thánh, bình thánh thường có nắp đậy với cây thánh giá ở trên (xc. Áo nhà tạm; Hộp đựng Thánh Thể).

Bộ Lễ
(= Kyriale)
Trong sách Ca tiến cấp hoặc trong các Sách kinh giáo dân, bộ lễ là một phần của cuốn sách gồm các bài hát phần thường lễ, viết theo những giai điệu khác nhau, và còn tồn tại đến nay là: kinh Thương xót, kinh Vinh danh, kinh Thánh, Thánh, Thánh, và kinh Chiên Thiên Chúa, được đánh số từ I-XVIII; tiếp theo đó là các kinh tự do, nghĩa là tùy ý lựa chọn, gồm: kinh Tin kính, kinh Thương xót, kinh Vinh danh, Thánh Thánh Thánh và các câu Chiên Thiên Chúa để riêng. Toàn thể bộ lễ chỉ xuất hiện sau thế kỷ X và không dùng dấu neuma. Một vài kinh Thương xót có nguồn gốc tương đối muộn hơn, như kinh thứ VIII De Angelis, chịu ảnh hưởng nhạc Bình ca nhiều hơn là nhạc Ghê-gô-ri-ô.

Bổn Mạng
(= Patron)
Bổn mạng là vị thánh được chọn hoặc chấp nhận như là vị bảo trợ đặc biệt cho một cộng đoàn Ki-tô giáo nào đó: một quốc gia, tỉnh, giáo phận, giáo xứ, dòng tu. Vị thánh được người ta dâng kính một thánh đường hay một công trình kiến trúc thì gọi là thánh bảo trợ. Còn thánh bổn mạng là vị thánh che chở cho cả một nơi nào đó, một vùng đất hoặc một người: thị trấn hoặc thành phố, tỉnh , quốc gia, đại lục hoặc một dòng tu, một cộng đoàn tu trì.
Ngày lễ kính thánh bảo trợ của một thành, hoặc một cộng đồng, là lễ được mừng trọng thể trong tất cả các nhà thờ thuộc khu vực đó. Lễ thánh bảo trợ chính của một dòng tu cũng được cử hành trọng thể trong tất cả mọi nhà thuộc về dòng tu đó. Lễ thánh bảo trợ chính của một giáo phận, một tỉnh hay một quốc gia là lễ kính. Ngày lễ các thánh bảo trợ thứ hai là lễ nhớ buộc (xc. Lịch phụng vụ; Lễ riêng). Không thể chọn Ba Ngôi Thiên Chúa là Ðấng Bảo trợ, vì chính Thiên Chúa không tự giới hạn quyền bảo trợ của mình vào một nơi nào, và cũng không phải là Ðấng Bảo trợ ngang hàng với bất cứ ai khác.

Bữa Tiệc
(= Repas)
Là một hành vi của cộng đoàn để bồi bổ sức khỏe, từ ngữ bữa tiệc, trong tất cả mọi miền, đã được thánh hóa thành như một hành vi thánh thiêng, hoặc hy tế tuyệt hảo. Thật vậy, Bữa tiệc thánh là một hành vi, nhờ đó con người chính thức sống mối dây nối kết mình với vũ trụ, với người khác và với Thiên Chúa. Ðó là khoảng thời gian đặc biệt để khi dùng các của ăn, người ta nhìn nhận mình là người cùng sống và đồng bàn, nghĩa là nhận mình lệ thuộc vào sự sống của Thiên Chúa và người khác (xc. Hy tế).