Trang

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

LỊCH SỬ CỨU ĐỘ TÓM LƯỢC LỊCH SỬ THỜI CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC

LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
DẪN VÀO THẦN HỌC THÁNH KINH
(NGUYÊN TÁC “SALVATION HISTORY”
TÁC GIẢ : NEAL M. FLANAGAN, osm)

PHẦN II : TÂN ƯỚC : BAN ƠN CỨU ĐỘ

TÓM LƯỢC LỊCH SỬ THỜI CỰU ƯỚC VÀ TÂN ƯỚC

Lịch sử thời Cựu Ước và Tân Ước có thể chia ra làm chín giai đoạn :
I-    THỜI TIỀN SỬ
-      Vào khoảng 400.000 năm trước công nguyên (thời đại đồ đá cũ) bắt đầu có dấu vết người ở gần hồ Tibêria.
-      Vào khoảng năm 9.000 tcn : Người ta bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt.
-      Vào khoảng năm 7.000 tcn : Thời đại đồ đá mới, bắt đầu có thành Giêricô.
-      Vào khoảng năm 4.500 tcn : Phát minh đồ gốm.
-      Vào khoảng năm 3.500 tcn : Bắt đầu dùng kim khí (đồ đồng).
II-             THỜI CÁC TỔ PHỤ
-      Tổ tiên của Abraham sống ở miền Lưỡng Hà (Mêsôpôtamia).
-      Vào khoảng năm 1.800 tcn : Nhóm của Abraham tách ra, di cư sang miền Palestine.
-      Vào khoảng năm 1.700 tcn : Giacóp và con cháu sang Ai Cập
III-         THỜI MÔSÊ VÀ GIÔSUÊ
-      Vào khoảng năm 1.250 tcn : dưới thời vua Ai Cập là Ramxét II, Môsê đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập. Giao Ước tại núi Sinai. Israel bắt đầu thành một dân.
-      Vào khoảng năm 1.220 – 1.200 tcn : Giôsuê đưa dân Israel vào chiếm miền Palestine.
IV-           THỜI CÁC THỦ LÃNH VÀ CÁC VUA ĐẦU TIÊN (1.200-931)
-      Vào khoảng năm 1.200 tcn: Bắt đầu thời đại đồ sắt. Người Philitinh xâm lăng Ai Cập, nhưng bị đẩy lui và đến định cư ở ven bờ biển Palestine.
-      Vào khoảng năm 1.200-1.030 tcn: Thời các Thủ Lãnh (Thẩm Phán)
-      Vào khoảng năm 1.030-1.010 tcn : Saolê là vua đầu tiên của Israel. Thắng người Ammôn và Philitinh. Nhưng sau lại thua người Philitinh và tử trận.
-      Vào khoảng năm 1.010-970 tcn : Đavít lên làm vua, trước tiên ở Giuđa rồi cả Giuđa và Israel. Chiếm Giêrusalem làm kinh đô. Thắng các dân chung quanh : Philitinh, Môáp, Aram, Ammôn, Êđom.
-      Vào khoảng năm 970-931 tcn : Salômôn làm vua. Xây Đền thờ Giêrusalem. Phát triển ngoại giao, mở mang thương mãi. Nền văn chương chớm nở : châm ngôn và sử ký.
V-   THỜI HAI VƯƠNG QUỐC GIUĐA VÀ ISRAEL (931-721tcn)
-      Năm 931 tcn : Rôbôam lên nối ngôi Salômôn, không biết xử khéo nên các chi tộc Miền Bắc ly khai lập nước Israel và tôn Giêrôbôam làm vua. Rôbôam và dòng họ chỉ còn làm vua nước Giuđa (Miền Nam).
-      Thế kỷ IX tcn: Tại Israel, Omri (885-874 tcn) lập một triều đại mới và đặt kinh đô tại Samari. Vua Akháp (874-853 tcn) xây Đền thờ Baal. Do đó ngôn sứ Êlia đứng lên bảo vệ Đạo Giavê. Tiếp đó ngôn sứ Êlisê hoạt động.
-      Thế kỷ VIII tcn: Bắt đầu xuất hiện các “ngôn sứ văn sĩ” (là những ngôn sứ có sách mang tên các ông). Tại Israel : Amốt, Hôsê. Tại Giuđa : Isaia, Mica.
-      Đế quốc Assyri bành trướng. Năm 721 tcn : kinh đô Samari bị thất thủ, dân bị đưa đi đày, nước Israel bị tiêu diệt.
VI-           THỜI TÀN CỦA VƯƠNG QUỐC GIUĐA (722 (721)-587 tcn)
-      Thế kỷ VII tcn: Vua Êdêkia (716-687 tcn) cải tổ tôn giáo và cố gắng thoát ly ảnh hưởng của Assyri, nhưng không thành công. Vua Giôsia (640-609 tcn) cũng cải tổ tôn giáo và cố gắng khôi phục nền độc lập. Đế quốc Assyri sụp đổ, đế quốc Babylon bắt đầu bành trướng. Trong thời kỳ này có các ngôn sứ Nahum, Habacúc, Sôphônia và nhất là Giêrêmia hoạt động.
-      Thế kỷ VI tcn: Ngôn sứ Giêrêmia tiếp tục, ngôn sứ Êdêkien bắt đầu hoạt động.
-      Năm 597 tcn : Nabucôđônoso lấy thành Giêrusalem lần thứ nhất, đưa dân đi đày.
-      Năm 587 tcn : Nabucôđônoso lấy thành lần thứ hai, phá thành và Đền thờ, đưa dân đi đày.
-      Năm 582 tcn : lưu đày đợt thứ ba.
-      Êdêkien và tác giả “Sách Yên Ủi Israel” (Isaia Đệ Nhị) hoạt động giữa những người lưu vong.
VII-       THỜI LỆ THUỘC BA TƯ (538-333 tcn)
-      Năm 539 tcn : Kyrô, Vua Ba Tư, lấy thành Babylon.
-      Năm 538 tcn : Kyrô ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái hồi hương.
-      Năm 520-515 tcn : Tái thiết Đền thờ Giêrusalem, ngôn sứ Hácgai và Dacaria hoạt động.
-      Thế kỷ V tcn : Ét-ra cải tổ tôn giáo, công bố luật (Ngũ Thư). Nêhêmia củng cố mặt hành chánh.
VIII-   THỜI LỆ THUỘC HY LẠP (332-63 tcn)
-      Năm 336 tcn : Alexandre, vua Macêđônia, bắt đầu thắng đế quốc Ba Tư.
-      Năm 332 tcn : Alexandre chiếm Palestine. Sau khi vua chết (323tcn), các tướng lãnh chia nhau đế quốc. Nhà Laghít (Ptôlêmê) chiếm Ai Cập, nhà Sơlucô chiếm Syri và Babilon
-      Năm 319-200 tcn : Miền Palestine thuộc quyền các vua Laghít (Ptôlêmê). Tại Ai Cập, sách Cựu Ước được dịch ra tiếng Hy Lạp (Bản Bảy Mươi).
-      Năm 200-142 tcn : Miền Palestine thuộc quyền các vua Sơlucô.
-      Năm 167 tcn : Vua Antiôcô IV bắt bớ Đạo Do Thái. Mat-ta-thy-a và và các con (Giuđa, Giônathan, Simon) khởi nghĩa.
-      Năm 164 tcn : Giuđa lấy lại Đền thờ và làm nghi lễ thanh tẩy.
-      Năm 142-63 tcn : Con cháu của Simon làm vua người Do Thái.
IX-           THỜI LỆ THUỘC RÔMA (từ năm 63 tcn trở đi)
-      Năm 63 tcn : Pompê, tướng của Rôma, chiếm Giêrusalem, Palestine trở nên một tỉnh của đế quốc Rôma.
-      Năm 37-4 tcn : Hêrôđê Cả làm vua.
-      Năm 27 tcn – năm 14 sau công nguyên : Hoàng đế Augusto trị vì.
-      Vào khoảng năm 7-6 tcn : Đức Giêsu ra đời.
-      Vào khoảng năm 5-10 sau công nguyên : Phaolô sinh ra tại Tarxê.
-      Năm 26-36 scn : Phongxiô Philatô làm Quan Trấn thủ Giuđê và Samari.
-      Năm 27 scn : (Mùa thu) Gioan Tẩy Giả ra rao giảng. Đức Giêsu khai mạc sứ vụ.
-      Năm 30 scn : Lễ Vượt Qua. Đức Giêsu chịu đóng đinh.
-      Vào khoảng năm 36-37 scn : Stêphanô tử đạo. Phaolô trở lại.
-      Vào khoảng năm 43-44 : Tông đồ Giacôbê, em của Gioan bị chém đầu.
-      Năm 45-47 scn : hành trình truyền giáo thứ nhất của Phaolô.
-      Vào khoảng năm 48-49 scn : Công đồng Giêrusalem.
-      Năm 50-52 scn : Hành trình truyền giáo thứ hai của Phaolô.
-      Năm 53-58 scn : Hành trình truyền giáo thứ ba của Phaolô.
-      Năm 58 scn : (Lễ Ngũ Tuần) Phaolô bị bắt tại Giêrusalem.
-      Năm 60 scn : Phaolô bị điệu đi Rôma.
-      Năm 61-63 scn : Phaolô bị giam ở Rôma.
-      Năm 64 hoặc 67scn : Phêrô tử đạo ở Rôma.
-      Năm 66 scn : Người Do Thái ở Palestine nổi loạn.
-      Năm 67 scn : Phaolô tử đạo tại Rôma.
-      Năm 70 scn : Titô, tướng của Rôma chiếm Giêrusalem, đốt Đền thờ.ø
-      Năm 95 scn : Hoàng đế Domitiano bắt đạo.

“Nói về Thánh Truyền và Thánh Kinh như nguồn mạch của việc dạy giáo lý, là nhấn mạnh rằng việc dạy giáo lý phải tiêm nhiễm và thấm nhuần tư tưởng, tinh thần và thái độ theo Thánh Kinh và Tin Mừng, nhờ sự tiếp xúc chuyên cần với chính các bản văn ...” 

( ĐTC Gioan Phaolô II
Tông huấn
Catechesi Tradendae, số 27)



http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/LichSuOnCuuDo/TomLuocLichSuKT.htm

LỊCH SỬ CỨU ĐỘ 8 ƠN CỨU ĐỘ LAN RỘNG

LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
DẪN VÀO THẦN HỌC THÁNH KINH
(NGUYÊN TÁC “SALVATION HISTORY”
TÁC GIẢ : NEAL M. FLANAGAN, osm)

PHẦN II : TÂN ƯỚC : BAN ƠN CỨU ĐỘ

Chương 8
ƠN CỨU ĐỘ LAN RỘNG

I. BẮT ĐẦU TẠI GIÊRUSALEM
1- Cộng đoàn Do Thái tin vào Đức Giêsu Kitô ở Giêrusalem
Cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi của Đức Kitô gồm có các tông đồ, những người Do Thái sùng đạo từ các nước khác trở về Giêrusalem dự lễ (lễ Vượt qua và lễ Ngũ Tuần, x. Cv 2,5) và những người Do Thái chính gốc. Năm chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ mô tả rõ ràng cuộc sống của Giáo Hội sơ khai : các tín hữu chăm chỉ học hỏi giáo lý từ các tông đồ và siêng năng cầu nguyện, hiệp thông với nhau khi dự “Lễ Bẻ Bánh” và chia sẻ vật chất với nhau trong tình bác ái huynh đệ (x. Cv 2, 42-47; 4, 32).
Trong giai đoạn này, sinh hoạt của cộng đoàn có những điểm riêng biệt, khác với Do Thái giáo nhưng vẫn gắn bó với Do Thái giáo : các tông đồ và các tín hữu vẫn lên đền thờ cầu nguyện như những người Do Thái sùng đạo. Nghĩa là cộng đoàn này chưa tách ra khỏi Do Thái giáo.
Trong cộng đoàn tiên khởi này, đứng đầu là thánh Phêrô và các tông đồ. Khi số tín hữu gia tăng, các tông đồ tuyển chọn thêm những người cộng tác với các ngài để phục vụ bàn thờ và phục vụ người nghèo trong Giáo Hội. Họ được  gọi là các tá viên, bây giờ Giáo Hội gọi là các phó tế. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các phó tế hoạt động rất hiệu quả (x. Cv 6-8).
2- Cái chết của thánh Stêphanô
Ông Stêphanô, là một trong bảy phó tế Do Thái gốc Hy Lạp, được tuyển chọn để giúp việc cho các tông đồ. Ông được trao trách nhiệm phục vụ những nhóm người Do Thái gốc Hy Lạp, đặc biệt là những người nghèo như nhóm các bà goá, vì họ ít được quan tâm chăm sóc. (Tên gọi “Người Do Thái gốc Hy Lạp” được dùng để chỉ những người Do Thái sinh trưởng ngoài xứ Palestin, sống theo văn hoá Hy Lạp và nói tiếng Hy Lạp, hay còn gọi : “Hy hoá”).
Với sự xuất hiện của Stêphanô và những đồng bào Do Thái gốc Hy Lạp, cộng đoàn những người theo Đức Kitô bắt đầu phát triển ra khỏi phạm vi của Do Thái giáo và trung tâm Do Thái Giáo là Giêrusalem, lòng tin vào Đức Giêsu Kitô được truyền bá đi khắp nơi, đến với những người không phải là Do Thái.
Giáo Hội sơ khai phát triển theo hướng tách ra khỏi Do Thái giáo. Bài giảng của ông Stêphanô  nêu lên tính cách tạm thời của Do Thái giáo (x. Cv 7). Nó phải nhường chỗ cho tôn giáo Đức Giêsu Kitô thiết lập, một tôn giáo không còn bị giới hạn trong một quốc gia hay một đền thờ nào cả. Stêphanô phải trả giá cho sự thật này bằng chính mạng sống mình, ông đã bị ném đá cho đến chết.
Cái chết của ông Stêphanô mở đầu cho cuộc bách hại, các Kitô hữu gốc Hy Lạp phải phân tán đi khắp nơi. Biến cố này cũng mở ra một giai đoạn mới : “Những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo Lời Chúa.” (Cv 8,4).
Sự kiện Stêphanô cho ta thấy hai điều:
-        Tính cách độc lập của Kitô giáo và Kitô giáo chính là sự hoàn tất của Do Thái giáo.
-        Chúa quan phòng đã khôn ngoan làm cho cuộc phân tán này trở thành cơ hội cho các Kitô hữu đem hạt giống Tin Mừng đi gieo vãi khắp nơi (x. Cv 11, 19-21).
II. CHO ĐẾN TẬN CÙNG TRÁI ĐẤT
1- Thánh Phêrô và ông Cornêliô (x. Cv 10-11).
Tính phổ quát của Giáo Hội được diễn tả qua việc thánh Phêrô rửa tội cho một viên đại đội trưởng người Roma là ông Cornêliô.
Thị kiến mà Thiên Chúa tỏ cho thánh Phêrô thấy sự ngăn cách giữa người Do Thái (con vật sạch) và dân ngoại (con vật ô uế) theo luật Môsê (x.Lv 11), đã bị huỷ bỏ. Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da.
2- Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại :
Theo cái nhìn của thánh sử Luca trong sách Công Vụ, thì thánh Phaolô chắc chắn là vị anh hùng đệ nhất trong số các Kitô hữu đầu tiên. Từ một người đi bách hại các Kitô hữu, Chúa đã biến đổi ngài thành vị tông đồ tiên phong rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại lừng danh nhất qua mọi thời đại và là gương mẫu cho tất cả những ai tham gia vào việc truyền giáo của Giáo Hội.
Thánh Phaolô đã rao giảng không ngừng nghỉ để thiết lập các giáo đoàn. Ba cuộc hành trình truyền giáo của thánh Phaolô :
 Năm 46 – năm 48 (x. Cv 13-14)
 Năm 49 – năm 52 (x. Cv 16-18)
ƒ Năm 53 – 58 (x. Cv 18,18 – 21, 26)
Thánh Phaolô là người góp phần quan trọng nhất vào việc cắt đứt dây ràng buộc giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, mở rộng con đường cho muôn dân đến với Đức Kitô và cho Giáo Hội đến với muôn dân. Đó là điều mà ngài đã thể hiện ở công đồng đầu tiên của Giáo Hội ở Giêrusalem.
3- Công đồng Giêrusalem (x. Cv 15)
Sự gia tăng nhanh chóng của các Kitô hữu không phải là người Do Thái làm phát sinh một vấn đề gây tranh luận : Những tín hữu này có phải giữ lề luật Môsê và sống theo các tập tục như người Do Thái hay không ? Lý do là vì những Kitô hữu gốc Do Thái còn quá quyến luyến với Do Thái giáo, với lề luật và tập tục lâu đời từ thời Môsê để lại, nên không dễ gì từ bỏ và thay đổi ngay được.
Nhưng giờ đây một giai đoạn mới đã khởi đầu.  Những kinh nghiệm của Stêphanô, Phêrô, Phaolô và Barnaba cho thấy rõ đường hướng của Chúa Thánh Thần về tính phổ quát của Giáo Hội Chúa Kitô. Tại Công Đồng Giêrusalem, các tông đồ -Phêrô, Phaolô và Barnaba- trình bày các biến cố đã xảy ra chứng tỏ Chúa Thánh Thần xuống trên mọi tín hữu không phân biệt Do Thái hay không Do Thái. Hơn nữa ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, chứ không phải do lề luật. Điều cần là lòng tin vào Đức Giêsu Kitô và gắn bó với Người. Vì vậy không được đặt ách nặng nề của luật cũ lên vai các tín hữu nữa.
Cuối cùng tông đồ Giacôbê công bố quyết định của Công Đồng không buộc các Kitô hữu phải giữ tập tục của đạo Do Thái nữa. Như vậy, từ nay Giáo Hội Chúa Kitô mở rộng cửa cho mọi người.
4- Tương quan giữa Kitô giáo và Do Thái giáo
Mặc dù Kitô giáo tách biệt và độc lập với Do Thái giáo nhưng vẫn có những mối liên hệ sâu xa. Thánh Phaolô đã dùng ba hình ảnh sau đây để diễn tả mối tương quan này :
 Do Thái giáo được ví như người giám hộ, người quản giáo cho Kitô giáo. Đối với người Hy Lạp thì người giám hộ hay quản giáo là người nô lệ giúp việc trong nhà. Người này có nhiệm vụ đưa đứa trẻ con ông chủ đi học (vì vậy người này được gọi là người sư phạm). Khi đứa trẻ đã được đưa tới cửa trường là nhiệm vụ của người quản giáo (sư phạm) đã xong. Nhiệm vụ của Do Thái giáo là dẫn thế giới này đến với Đức Kitô. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng đã kết thúc vì Đức Giêsu Kitô đã đến gặp nhân loại. (x. Gl 3, 24-25).
 Do Thái giáo là giai đoạn niên thiếu (vị thành niên), Kitô giáo là con người trưởng thành. Khi là đứa trẻ thì cần phải trông chừng, nhắc bảo. Nhưng khi trưởng thành thì nó biết ý thức, có khả năng tự lập, không phải lệ thuộc nữa. Cũng vậy, Do Thái giáo giống như thời niên thiếu cần được chăm sóc, canh giữ bằng nhiều thứ luật lệ. Kitô giáo là thời trưởng thành, được tự do trong Thánh Thần, không nô lệ lề luật nữa. (x.Gl 4, 1-7).
ƒ Do Thái giáo là tôn giáo của lời hứa (với Abraham, Môsê, Đavit, các tiên tri). Kitô giáo là sự thực hiện và hoàn tất các lời hứa.
Để kết luận về mối tương quan giữa Kitô giáo và Do Thái giáo chúng ta có thể nói rằng: Kitô giáo là cùng đích của Do Thái giáo. Vì vậy các Kitô hữu phải kính trọng và thân thiện với Do Thái giáo.
III. GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ CÁNH CHUNG
Đức Giêsu Kitô đã lên trời, Giáo Hội tiếp tục công trình của Ngài cho đến ngày Ngài trở lại (quang lâm, tái giáng) để phán xét muôn loài. Đó là ngày hoàn tất lịch sử cứu độ, ngày tiêu diệt vĩnh viễn tội lỗi và sự chết. Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự : xác loài người ta sẽ sống lại vinh quang, muôn loài muôn vật được giải thát khỏi cảnh hư nát.
Nhìn lại lịch sử phát triển của Giáo Hội, chúng ta có thể tạm chia 20 thế kỷ đã qua ấy làm đôi :
1- Ngàn năm thứ nhất
- Ba thế kỷ đầu được ghi dấu bởi thử thách và bách hại. Bước đầu gian khổ báo trước mùa màng bội thu : “Máu các chứng nhân tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu” (Tertulianô).
- Năm 313, với chiếu chỉ Milan công nhận Kitô giáo là tôn giáo hợp pháp, tên tuổi hoàng đế Côngtăngtinô (Constanstinus) gắn liền với giai đoạn tự do và lớn mạnh rất nhanh của Giáo Hội trong đế quốc của Côngtăngtinô.
- Từ thế kỷ V, nhờ uy tín của các giám mục, nhờ các đan sĩ đạo đức và tài giỏi trong việc tổ chức nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, xã hội … dân chúng dần dần xin gia nhập Giáo Hội. Giáo Hội vượt ra khỏi ranh giới đế quốc Roma, cảm hoá các sắc dân ở châu Âu. Tin Mừng đến với các sắc dân German vào khoảng thế kỷ V đến thế kỷ VIII và dân Slaves từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI.
- Hồi Giáo xuất hiện vào thế kỷ VII (từ năm 622), bành trướng mạnh mẽ và đe doạ các dân theo Kitô giáo.
2- Ngàn năm thứ hai
Ngàn năm thứ hai của Giáo Hội là một bức tranh đan xen ánh sáng và bóng tối, tích cực và tiêu cực:
- Phong trào canh tân phát xuất từ Đan Viện Biển Đức Cluny (Pháp) đem lại mùa xuân mới cho Giáo Hội.
- Ngàn năm thứ hai bắt đầu bằng một biến cố chia rẽ đáng tiếc dẫn đến ly khai của Chính Thống Giáo với Công Giáo vào năm 1054, Đông Phương và Tây Phương không còn hiệp nhất nữa.
- Sự đe doạ của Hồi Giáo dẫn đến việc thành lập Đạo Binh Thánh Giá để chiếm lại Đất Thánh và Giêrusalem. Bảy cuộc Thập tự chinh: 1096 – 1099, 1147 – 1149 , 1189 – 1197, 1202 – 1204 , 1228 – 1229 , 1248 – 1254 , 1268 – 1291.
- Những cuộc Thập Tự Chinh đem lại nhiều thất bại và tai tiếng. Vì các thế lực chính trị đã lợi dụng tính chất tôn giáo để thực hiện những mưu đồ trục lợi của mình : dùng chiến tranh để cướp đoạt tài nguyên và mở rộng thị trường ở vùng Trung-Cận-Đông.
- Hai thế kỷ XII và XIII là thời cực thịnh của Giáo Hội Tây Phương. Các dòng tu, đặc biệt là Đaminh và Phanxicô đã đem lại sinh khí mới cho Giáo Hội trong việc nâng cao đời sống sống đạo đức, luân lý cho các tín hữu. Các dòng tu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá, trí thức, cách riêng là lãnh vực triết học.
- Thế kỷ XIII là thời gian khủng hoảng vì bè rối và Toà Án Pháp Đình của Giáo Hội đã phạm nhiều sai lầm.
- Thế kỷ XIV là thời kỳ đen tối vì cuộc đại ly khai ở Tây Phương 1378-1415, phân rẽ giữa Roma và Avignon gây ra hỗn loạn.
- Cuộc cải cách của Luther dẫn đến ly giáo ngày 03-01-1521.
- Vua Henri VIII và cuộc ly giáo 1533 ở nước Anh.
- Công Đồng Triđentinô 1545-1563 đáp ứng đòi hỏi canh tân nội bộ Giáo Hội về tín lý, bí tích và kỷ luật.
- Thế kỷ XV-XVII : giai đoạn truyền giáo dưới “Quyền Bảo Trợ” của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, từ năm 1493 Toà Thánh trao cho các vua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha điều khiển việc truyền giáo. Giáo Hội mở rộng tầm nhìn, vượt ra ngoài châu Âu, đem Tin Mừng đến mọi dân tộc.
- Ngày 09-9-1659 là một ngày đáng ghi nhớ đối với Giáo Hội Việt Nam : Đức Thánh Cha Alexander VII thiết lập hai giáo phận : Đàng Trong (Đức cha Lambert de la Motte) và Đàng Ngoài (Đức cha François Pallu).
- Do những lạm dụng và bất tiện của Quyền Bảo Trợ, năm 1622 Toà Thánh thiết lập “Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin” để chấn chỉnh và hướng dẫn, trực tiếp nắm quyền và điều hành, giúp cho việc truyền giáo đạt được nhiều thành quả mới.
- Cuộc Cách Mạng Pháp 14-7-1789 mở màn cho bước tiến “trần thế hoá” (tục hoá) : tước bỏ những quyền của Giáo Hội trong lãnh vực trần thế, gây nhiều khó khăn cho Giáo Hội, nhưng cũng giúp cho Giáo Hội ý thức về bản chất của mình.
- Công Đồng Vaticanô I năm 1870 xác định về ơn bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng.
- Trong thế kỷ cuối cùng, với Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội bước vào con đường mới, đồng hành với con người và thế giới, thích nghi với những biến đổi không ngừng của xã hội.
- Ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam.

3. Giáo Hội tiến bước trong niềm tin
Giáo Hội đã trải qua nhiều thăng trầm, những chặng đường sáng ngời xen lẫn với đen tối suy sụp. Giáo Hội vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển vì đã được phát sinh từ Chúa Giêsu Kitô và được Chúa Thánh Thần không ngừng dẫn dắt.


Câu hỏi thảo luận chương 8
- Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của những ai trong Giáo Hội ?
- Là một Kitô hữu và là một giáo lý viên bạn có thể làm gì để góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội ?

LỊCH SỬ CỨU ĐỘ 7 THÔNG PHẦN VÀO ƠN CỨU ĐỘ

LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
DẪN VÀO THẦN HỌC THÁNH KINH
(NGUYÊN TÁC “SALVATION HISTORY”
TÁC GIẢ : NEAL M. FLANAGAN, osm)

PHẦN II : TÂN ƯỚC : BAN ƠN CỨU ĐỘ


Chương 7
THÔNG PHẦN VÀO ƠN CỨU ĐỘ

Chúa Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại. Những ai muốn được thông phần vào ơn cứu độ của Chúa Kitô thì phải hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người.
I. HIỆP THÔNG VỚI CHÚA KITÔ.
Chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy chỉ có Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Đấng Trung Gian duy nhất và hoàn hảo có thể đem ơn cứu độ cho loài người. Như vậy chân lý cơ bản liên quan đến sự cứu độ của mỗi cá nhân chính là sự hiệp nhất với Đức Giêsu để được cứu độ. Đức Giêsu đã hoàn tất việc cứu độ, nhưng ơn cứu độ của mỗi người lại tuỳ thuộc vào việc đón nhận Đức Giêsu của từng người. Ngay từ buổi đầu, Giáo Hội sơ khai đã tuyên xưng niềm tin này :
“Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12)
Thánh Kinh gợi ra cho chúng ta những con đường thiết yếu để hiệp thông với Đức Giêsu Kitô : đức tin, đức mến, các bí tích.
1/ Đức tin - Đức cậy - Đức mến:
Từ ngữ đức tin có một nội dung rất rộng. Trước hết đó là ân sủng Thiên Chúa ban để dẫn đưa con người đến với Đức Giêsu. Rồi từ sự nhận biết này người ta mới có thể đi đến quyết định đặt tất cả hy vọng và trông cậy vào Đức Giêsu Kitô và can đảm bước theo Người với tất cả lòng yêu mến.
Đức tin là bước thiết yếu trước hết để hiệp nhất với Đức Giêsu Kitô. Tổ phụ Abraham đã tin tưởng và đặt mọi hy vọng nơi Thiên Chúa như thế nào thì người muốn thông phần ơn cứu độ cũng phải tin và hy vọng như vậy: Đức tin bao hàm đức cậy.
Tin và hy vọng là phó thác, tin bao giờ cũng dẫn đến đức mến và được minh chứng qua những hành động biểu lộ lòng mến: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta và Cha Ta sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến ở với nó.” (Ga 14,23). Yêu mến là sống trong Đức Giêsu Kitô và trong Thiên Chúa: “Thiên Chúa là lòng mến. Ai ở trong lòng mến thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy.” (1Ga 4,16).
2/ Các bí tích
Các bí tích thông ban và tăng cường sức sống thiêng liêng cho loài người. Rửa tội và Thánh Thể là hai bí tích có vị trí đặc biệt trong Tân Ước :
a- Bí tích rửa tội :
Qua bí tích rửa tội người tín hữu chết cho tội lỗi và sống đời sống mới trong Thiên Chúa. Bí tích rửa tội cho người tín hữu thông phần vào chiến thắng của Đức Giêsu Kitô trên tội lỗi và sự chết. Cái chết và sự phục sinh là hai mặt không bao giờ tách rời của công trình cứu độ. Người chịu phép rửa tội cũng trải qua sự chết và phục sinh giống như thế bằng con đường bí tích. Họ được chuyển từ vương quốc tội lỗi và sự chết của Satan sang vương quốc tình yêu và sự sống của Thiên Chúa để sống cuộc sống mới trong Thánh Thần của Đức Giêsu Kitô. (X. Rm 6,3-4.10-11; Col 2,12)
b- Bí tích Thánh Thể
Phép Thánh Thể là phương thế rõ rệt nhất để hợp nhất với Đức Kitô ! Trong Phép Thánh Thể chúng ta được tiếp nhận Mình Máu Đức Kitô. Đây là của ăn nuôi dưỡng đời sống siêu nhiên và bảo đảm sự sống đời đời. (x. Ga 6, 53-58).
Khi cùng nhau đón nhận Mình Máu Chúa Kitô, mọi người cũng được liên kết trong cùng một sức sống, được nuôi dưỡng từ một nguồn mạch thần linh, được hiệp thông trong một tình yêu (x. 1Cr 10, 16-17).
Như vậy bí tích Thánh Thể vừa đưa ta vào sự hiệp nhất với Đức Kitô vừa làm cho chúng ta được hiệp nhất với nhau trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.
3/ Hiệu quả ơn hiệp thông :
Con đường tin-cậy-mến và con đường các bí tích gặp gỡ nhau, qui hướng về Đức Kitô, đưa chúng ta vào sự hiệp thông với Đức Kitô để được sống và sống dồi dào. Mỗi người chúng ta sẽ được :
-          Đức Kitô dẫn đến với Chúa Cha và nên một với Người, vì Đức Kitô luôn là một với Chúa Cha (x. Ga 10, 30; 14,10; 15,10; 17,11.21).
-          Trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,19)
-          Thành công dân Nước Trời (Pl 3,20)
-          Nên anh em với Đức Kitô và làm con cái của Thiên Chúa, trở nên “con trong Người Con”, “đồng thừa tự với Đức Kitô”.
-          Nên con cái thiêng liêng của Đức Mẹ Maria.
-          Là những người đồng chiến thắng Satan, chia sẻ chiến thắng của Đức Kitô (x. chương 6, phần III, 3)
-          Là con cháu thiêng liêng của Abraham theo phương diện đức tin, được thừa hưởng thành quả lời Chúa đã hứa cho Abraham và dòng dõi ông đến muôn đời. (x.Gl 3, 26-29).
-          Hợp nhất với nhau trong Đức Kitô.

II. HIỆP THÔNG VỚI GIÁO HỘI
Nhờ hợp nhất với Đức Kitô mà chúng ta được liên kết thành một cộng đoàn có tổ chức và cơ cấu. Cộng đoàn này được gọi bằng nhiều tên như : Israel mới, Dân Thiên Chúa, Vườn Nho, Cánh Đồng, Đền Thờ, Hiền Thê Đức Kitô … Ba danh hiệu thông dụng hơn cả là : Giáo Hội Đức Kitô, Vương Quốc Đức Kitô, Thân Thể Đức Kitô. Những danh hiệu này muốn diễn tả một số điều quan trọng liên quan đến bản chất và đặc tính của Giáo Hội.
1- Giáo Hội qui tụ chung quanh Đức Kitô
Chính niềm tin vào Đức Kitô qui tụ những ai chấp nhận theo Ngài và lãnh nhận phép rửa. Đức Kitô là trung tâm thu hút mọi người hiệp nhất lại với nhau một cách chặt chẽ và sống động. Sự gắn bó này cần thiết như cành nho cần gắn liền với cây nho, như chi thể với đầu. Sự liên kết này vững chắc như những viên đá được kết dính lại làm nên ngôi Đền thờ thiêng liêng. Thánh Phaolô còn dùng hình ảnh tình yêu thắm thiết của vợ chồng để diễn tả mối liên kết yêu thương giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Giáo Hội được gọi là Hiền Thê của Đức Kitô.
2- Giáo Hội loan báo Đức Kitô
Đức Kitô phục sinh đã trao cho Giáo Hội sứ mệnh giáo huấn, tiên tri, rao giảng Tin Mừng cứu độ. Khi thi hành sứ mệnh và quyền hạn này Giáo Hội luôn được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ (x. Ga 14,26; Cv 15, 28).
Qua mọi thời đại, Giáo Hội luôn đặt nhiệm vụ rao giảng lên hàng đầu, coi đó như là bản chất của mình. Giáo Hội luôn tin tưởng  tiến bước vì chính Đức Kitô đã hứa sẽ tiếp tục ở cùng Giáo Hội “cho đến tận thế” (x.Mt 28, 20). Đức Kitô tiếp tục hiện diện và giảng dạy qua Giáo Hội là Thân Thể, là “bí tích” (dấu chỉ) của Ngài.
3- Giáo Hội thực thi quyền năng của Đức Kitô .
Đức Kitô đã dùng quyền năng của mình để chiến thắng Satan, đem đem sự sống của Thánh Thần cho nhân loại. Đó là quyền năng chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, tha tội, dẹp yên sóng gió thiên nhiên, cho kẻ chết sống lại …
Ngày nay Giáo Hội tiếp tục thể hiện quyền năng của Đức Kitô qua ba nhiệm vụ :
-  Nhiệm vụ giáo huấn (tiên tri).
-  Nhiệm vụ thánh hoá (tư tế) : tế lễ và cử hành các bí tích.
-  Nhiệm vụ lãnh đạo (vương đế) : Giáo Hội có cơ cấu và tổ chức phẩm trật. Giáo Hội vừa có cơ cấu hữu hình vừa có sự sống thiêng liêng là sức mạnh Chúa Thánh Thần luôn tác động bên trong như linh hồn.

Tóm tắt chương 7
-    Chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể chiến thắng tội lỗi và sự chết, vì vậy để có thể thông phần ơn cứu độ, con người phải hiệp nhất  với Chúa Giêsu.
-    Các phương thế giúp con người thông phần ơn cứu độ  : đức tin, đức cậy, đức mến, các bí tích, nhất là rửa tội và Thánh Thể.
-    Sự hiệp nhất của mỗi người chúng ta với Chúa Giêsu qui tụ chúng ta nên cộng đoàn Giáo Hội. Thánh Kinh đã dùng nhiều hình ảnh để diễn tả Giáo Hội : Cây nho, Đền thờ, Thân mình, Hiền thê.
-    Giáo Hội cũng hiệp nhất với Chúa Giêsu khi tiếp tục sứ vụ của Ngài : Tiên tri, Tư tế và Vương đế.

Câu hỏi thảo luận:
Mỗi Kitô hữu thi hành sứ vụ tiên tri, tư tế, vương đế như thế nào ?


http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/LichSuOnCuuDo/Chuong7.htm

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

VUI HỌC THÁNH KINH ĐỨC MẸ SẦU BI

VUI HỌC THÁNH KINH ĐỨC MẸ SẦU BI


 
VUI HỌC THÁNH KINH
ĐỨC MẸ SẦU BI
Tin Mừng thánh Gioan 19,25-27
Ngày 15 tháng 9

Tin Mừng
25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà."27 Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.

25 Standing by the cross of Jesus were his mother and his mother's sister, Mary the wife of Clopas, and Mary of Magdala.
26 When Jesus saw his mother and the disciple there whom he loved, he said to his mother, "Woman, behold, your son."
27 Then he said to the disciple, "Behold, your mother." And from that hour the disciple took her into his home.
 I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì?
………………………………………………
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 19,25
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Dưới chân thập giá có những ai? (Ga 19,25)
a. Bà Maria, thân mẫu Đức Giêsu
b. Bà Maria Mácđala
c. Bà Maria vợ ông Cơlôpát
d. Cả a, b và c đúng
a2. Dưới chân thập giá có 1 bà Maria, bà này là vợ của ai? (Ga 19,25)
a. Ông Simon
b. Ông Dacaria
c. Ông Cơlôpát
d. Ông Giôxếp
a3. Người môn đệ của Đức Giêsu hiện diện dưới chân thập giá tên là gì? (Ga 19,25)
a. Phêrô
b. Tôma
c. Gioan
d. Giacôbê
a4. Đức Giêsu trao phó thân mẫu mình cho ai? (Ga 19, 26-27)
a. Ông Phêrô
b. Người môn đệ thương mến
c. Tổng trấn Philatô
d. Ông Nicôđêmô
a5. Khi được trao phó thân mẫu cho mình, người môn đệ đã làm gì? (Ga 19,27)
a. Rước bà về nhà mình
b. Yêu mến bà
c. Cùng bà cầu nguyện
d. Che chở cho bà
B.
b1. Dòng nào được phép Toà Thánh cho mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi lần đầu tiên vào năm 1668?
a. Đức Maria Nữ vương Hòa Bình
b. Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
c. Dòng Đa Minh
d. Dòng Anh Em Hèn Mọn
b2. Đức Giáo Hoàng nào đã thiết lập lễ Đức Mẹ Sầu Bi trong khắp Giáo Hội vào năm 1814?
a. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
b. Đức Giáo Hoàng Piô VII
c. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô I
d. Đức Giáo Hoàng Piô X
b3. Đức giáo hoàng nào quyết định chuyển lễ từ Chúa nhật thứ ba tháng Chín sang ngày 15 tháng 9 sau ngày Suy tôn Thánh giá, để liên kết cuộc Đồng thụ nạn của Mẹ Maria với cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu?
a. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
b. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
c. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô I
d. Đức Giáo Hoàng Piô X
4b. Khi kính nhớ lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội nhớ tới những đau khổ nào của Đức Mẹ?
……………………………………………..
……………………………………………...
……………………………………………..
……………………………………………...
……………………………………………...
……………………………………………..
……………………………………………...
b5. Khi ngắm Bảy Sự Thương Khó của Đức Maria thì chúng ta đọc những kinh gì?
……………………………………………..
……………………………………………...
……………………………………………..
……………………………………………...
III. Ô CHỮ 

Những gợi ý
01. Đức Giêsu thấy ai đứng bên cạnh người môn đệ mình thương mến? (Ga 19,25)
02. Khi được trao phó thân mẫu cho mình, người môn đệ đã rước bà về đâu? (Ga 19,27)
03. Đức Giêsu nói với người môn đệ: “Đây là mẹ của ai?”  (Ga 19,27)
04. Những người phụ nữ đứng gần cái gì của Đức Giêsu? (Ga 19,25)
05. Ai trao thân mẫu mình cho người môn đệ mình thương mến? (Ga 19,26)
06. Vợ của ông Cơlôpát tên là gì? (Ga 19,25)
07. Đây là quê quán của bà Maria. (Ga 19,25)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Thưa Bà, đây là con của Bà."
Tin Mừng thánh Gioan 19,26b


Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
ĐỨC MẸ SẦU BI

Tin Mừng thánh Gioan 19,25-27
Ngày 15 tháng 9
* Chủ đề :
Đức Maria ôm xác con
* Tin Mừng thánh Gioan 19,25
“Đứng gần thập giá Đức Giêsu,
có thân mẫu Người”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. d. Cả a, b và c đúng (Ga 19,25)
a2. c. Ông Cơlôpát (Ga 19,25)
a3. c. Gioan (Ga 19,25)
a4. b. Người môn đệ thương mến(Ga 19, 26-27)
a5. a. Rước bà về nhà mình (Ga 19,27)
B.
b1. b. Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
b2. b. Đức Giáo Hoàng Piô VII
b3. d. Đức Giáo Hoàng Piô X
4b. Khi kính nhớ lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội nhớ tới những đau khổ của Đức Mẹ :
1. Cụ già Simêon nói tiên tri cùng Đức Mẹ (Lc 2,34-35).
2. Đức Mẹ đem Chúa Giêsu trốn sang nước Ai Cập (Mt 2,13-21).
3. Chúa Giêsu ở lại trong đền thờ mà Đức Mẹ tìm kiếm Người ba ngày (Lc 2,41-50).
4. Đức Mẹ gặp Đức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá (Ga 19,17).
5. Đức Mẹ đứng kề Thánh giá Đức Chúa Giêsu là Con rất yêu dấu khi trút linh hồn (Ga 19,18-30).
6. Hai môn đệ hạ xác Chúa Giêsu mà trao cho Đức Mẹ ẵm kính (Ga 19,39-40).
7. Môn đệ táng xác Chúa Giêsu vào huyệt đá mới (Ga 19,40-42)
b5. Khi ngắm Bảy Sự Thương Khó của Đức Maria thì chúng ta đọc một kinh Lạy Cha, bảy kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh.
Xin Đức Mẹ cầu cho chúng con được nhớ những sự thương khó Đức Chúa Giêsu như Đức Mẹ thuở xưa. Amen.
III. Ô CHỮ 
01. Thân mẫu (Ga 19,25)
02. Nhà mình (Ga 19,27)
03. Anh (Ga 19,27)
04. Thập giá (Ga 19,25)
05. Đức Giêsu (Ga 19,26)
06. Maria (Ga 19,25)
07. Mácđala (Ga 19,25)
Hàng dọc : Thập Giá
NGUYỄN THÁI HÙNG
http://vuihocthanhkinh.blogspot.com/

Đức Mẹ Sầu Bi - 15/09
ĐỨC MẸ SẦU BI

Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
Mẹ sầu bi, tầm tã giọt châu,
đang đứng bên cây thập tự giá,
nơi Con Người đã bị treo lên.
Một lưỡi gươm nhọn đã đâm qua
tâm hồn Bà đang rên siết,
đang sầu khổ và đau buồn...
Thứ Sáu Tuần Thánh, khi tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Đức Chúa Giêsu thì chúng ta cũng nghĩ đến Đức Mẹ Sầu Bi. Michelangelo thành Florence, thế kỷ XV, đã khắc một pho tượng rất nổi tiếng về Đức Mẹ Sầu Bi gọi là Pietà. Cũng có một lễ dành cho tước hiệu này vào ngày 15-9, sau lễ Suy Tôn Thánh Giá. Lễ Đức Mẹ Sầu Bi (hay lễ Đức Bà Bảy Sự, lễ kính Bảy Sự Thương Khó của Đức Bà) trong tiếng Latinh là Mater Dolorosa (hay Septem Dolorum), trong tiếng Anh là Dolors of Our Lady (hay Seven Dolors of Blessed Virgin, Seven Sorrows of Our Lady).
1.   Nguồn gốc ngày lễ
Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vatican 1969, trong Phụng vụ có hai thánh lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi. Việc tôn kính Đức Mẹ Sầu Bi do Dòng Citercian và Dòng Phanxicô khởi xướng từ thế kỷ XII và thế kỷ XIII. Đến năm 1423, Công đồng Cologne đã quy định thành lập lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi (điều luật 11). Ý niệm khởi đầu chỉ hướng về mối đau khổ tổng thể, cụ thể hơn là tôn kính Đức Mẹ đau khổ đứng dưới chân thập tự giá. Thánh lễ được cử hành vào ngày thứ Sáu của tuần III sau lễ Phục Sinh. Năm 1482, bảy sự thương khó của Đức Mẹ mới được khai triển và truyền giảng ở Âu Châu. Năm 1725, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XIV đưa lễ Đức Mẹ Sầu Bi qua ngày thứ Sáu trong tuần Khổ Nạn, trước Lễ Lá [1], đó là lễ thứ I. Năm 1668, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ được Toà Thánh cho phép mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày Chúa Nhật III trong tháng 9. Năm 1912, Đức Giáo hoàng Piô X quyết định toàn thể Giáo Hội cử hành lễ này một lần nữa vào ngày 15-9 hằng năm, sau lễ kính Thánh Giá, đó là lễ thứ II. Cả hai thánh lễ đều dùng thánh thi “Stabat Mater” (Mẹ Sầu Bi đứng dưới chân Thập tự Giá) của Giacopone da Todi (1360), tu sĩ dòng Phanxicô, làm thánh ca cho buổi lễ. Năm 1969, lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày Thứ Sáu trong tuần Khổ Nạn bị bãi bỏ do việc cải tổ phụng vụ sau Công đồng Vatican II. Lý do việc bãi bỏ là vì Giáo Hội không muốn mừng một biến cố hay một mầu nhiệm hai lần trong một năm.
2.   Nghĩa của những chữ đức, mẹ, sầu, bi
2.1.  Đức có duy nhất một chữ Hán 德 (tuy có nhiều cách viết, như: 徳 , 悳 , 惪 ), nghĩa là dt. (1) Ân Huệ: Dĩ đức báo oán. (2) Ðạo đức, cái đạo để lập thân: đức hạnh. (3) Hạnh kiểm, tác phong. (4) Cái khí tốt (vượng) trong bốn mùa: mùa xuân gọi là thịnh đức tại mộc. (5) Ý chí, niềm tin: nhất tâm nhất đức (một lòng một dạ) (6) Tên nước: nước Ðức. (7) Họ Đức. đt. (8) Tạ ơn: Vương viết: “Nhiêntắc đức ngã hồ” (Vua nói: “vậy thì cám ơn tôi không?”). tt. (9) Mỹ thiện: Đức chính (chính sách tốt đẹp).
Nghĩa Nôm : Đức là từ [2] đi trước những danh xưng chức vị hay tước hiệu để tỏ lòng kính trọng dành cho những vị, những đấng mà nhiều người tôn kính. Ví dụ: Đức Chúa Trời, Đức Mẹ, Đức Phật Thích Ca, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức vua, Đức thánh Trần...
Theo Cha Giuse Cao Phương Kỷ: “Chữ đức, không có ý nghĩa thần tính, chỉ là danh hiệu tỏ lòng tôn kính dành cho nhiều người như: Đức Vua, Đức Bà, Đức Ông, Đức Thày... Ngoài ra, theo thói quen, chữ đức thường ghép vào một chức vị, hay danh hiệu của một người như Đức Giám Mục, Đức Cha... không ai gọi kèm theo tên riêng, tên tục người ta, chẳng hạn, ta quen gọi: Đức Hồng Y Khuê, mà không nói: “Đức Khuê” (vì chữ Khuê là tên riêng)” [3].
Chúng tôi đồng ý với Cha Giuse, vì Đức (nghĩa Nôm) là:
- “Từ đặt trước những danh từ chỉ những thần thánh hoặc những người đáng tôn kính” [4] “... hoặc người có địa vị cao quý trong xã hội phong kiến để tỏ ý tôn kính khi nói đến” [5].
- “Tiếng tôn gọi các bậc vua chúa, thần thánh” [6].
- “(Thường viết hoa) từ dùng để gọi thánh thần với ý tôn kính” [7].
- “Tước hiệu danh giá tột đỉnh” [8] dùng để “xưng tặng các đấng cao sang, tài trí...” như Paulus Huỳnh Tịnh Của viết: “Đức: tiếng xưng tặng các đấng cao sang, tài trí; tiếng chỉ việc nhơn lành, lòng lành: Đức Chúa trời [9]. Để tiếng đức cho trọng đấng bậc, không dám xưng ngay là Chúa trời, về các tiếng sau này cũng vậy: chúa, vua, thánh, giáo tông, giám mục, cha, thầy, phu tử, ông, mụ, bà (dùng tiếng đức cũng về một ý)” [10].
Theo lễ phép “xưng khiêm, hô tôn”, khi nói với (hoặc nói về) người trên thì người ta dùng chức vụ, vị trí công tác hay danh hiệu học vị học hàm; khi nói với (hoặc nói về) người ngang hàng hoặc dưới mình, nhưng vẫn tỏ ra lịch sự, người ta có thể dùng tên tự hay gọi theo chức vị. Có thể thêm tên hay họ tên sau chức vị khi có người khác cùng chức vị đó hiện diện. Thiết nghĩ, đối với các bậc tôn quý “danh giá tột đỉnh” được gọi là “Đức...” mà chúng ta chỉ xưng hô vỏn vẹn là “Đức + tên riêng” thì không phải phép. Thí dụ: Người ta không nói “Đức Khổng Khâu”, nhưng là “Đức Khổng Tử” [11]; không nói “Đức Tất Đạt Đa Cồ Đàm”, nhưng nói là “Đức Phật Thích Ca” [12]. Chúng ta không nên nói “Đức Maria”, mà nên nói là “Đức Mẹ Maria”, “Đức Bà Maria” hay “Đức Nữ Đồng Trinh Maria”... Tuy nhiên, khi nói về Đức Phật Thích Ca trong giai đoạn trước khi thành Phật, người ta có thể gọi ngài là “Hoàng tử Tất Đạt Đa” hay “Đức Cồ Đàm”..., cũng như có người dùng chữ “Đức Giêsu” để nhấn mạnh đến nhân tính, còn chữ “Chúa Giêsu” để nói về thần tính của Ngôi Hai Thiên Chúa [13]. Nhưng khi nhấn mạnh như thế, liệu chúng ta có đi lệch với mầu nhiệm ngôi hiệp không? Đây không phải chỉ là cách dùng từ nữa, mà liên quan đến phạm trù giáo lý đức tin rồi.
Khi ghép chữ “đức” vào hai chữ “lang quân” và “ông chồng”: Chữ “đức ông chồng” thì có nghĩa không được tốt đẹp lắm, tức là “chồng (cách gọi có ý đùa hoặc mỉa mai [14])” . Còn chữ đức lang quân, nay không nghe người ta nói nữa, chỉ thấy dùng trong văn viết với ý nghĩa như đức ông chồng vậy. Riêng Giáo hội Công giáo vẫn dùng chỉ Đức Phu Quân là Chúa Kitô... Đức Lang Quân của Hội Thánh!
2.2.  Mẹ là chữ Nôm, nghĩa là dt. (1) Người đàn bà có con, trong quan hệ với con cái: nhớ mẹ, gửi thư cho mẹ, mẹ thương con. (2) Con vật cái, trực tiếp sinh ra đàn con nào đó: gà con tìm mẹ. (3) Người đàn bà đáng bậc mẹ: người mẹ chiến sĩ. (4) Cái gốc, cái xuất phát những cái khác: lãi mẹ đẻ lãi con. (5) Mẹ ghẻ (vợ kế của bố). (6) Đàn bà xấu: Mẹ mìn. (7) Tiếng chửi: Mẹ kiếp.
2.3.  Sầu. Chỉ có một chữ Hán 愁 , nghĩa là: dt. (1) việc lo buồn: ly sầu (việc lo buồn của chia lìa). đt. (2) Lo lắng: Bất sầu ngậtbất sầu xuyên (không phải lo ăn lo mặc); tt. (3) Lo buồn: Sầu my khổ kiểm (nét mặt buồn sầu).
Nghĩa Nôm : đt.(1) Ðau lòng: Sầu khổ (hơi khác nghĩa Hv). (2) Nẫu: Gặp mưa to rau sầu hết. dt.(3) Trái durian (Hv Lựu liên), Nôm: Sầu riêng.
2.4.  Bi có nhiều chữ Hán ở đây là chữ 悲 . Nghĩa là dt. (1) Việc đau thương: Lạc cực sinh bi (Vui quá sinh việc đau thương). (2) Thương xót: từ bi. (3) Họ Bi. đt. (5) Ðau, khóc không có nước mắt. (5) Thương cảm: Du tử bi cố hương (Con đi xa thương cảm quê hương). tt. (6) Buồn.
Nghĩa Nôm : Tiếng chiêng, cồng.
3.   Ý nghĩa của “Đức Mẹ Sầu Bi”
3.1. Đức Mẹ Sầu Bi có nghĩa là Đức Mẹ đau khổ, thương khó, thống khổ... Đức Mẹ là mẹ Đức Chúa Giêsu, trong cuộc đời 33 năm của Đức Chúa Giêsu, Mẹ đã cảm nhận nhiều nỗi đau thương: Lời tiên báo của ông Simêon (x. Lc 2,34-35); Cuộc chạy trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-21); Lạc mất Chúa ba ngày (x. Lc 41,50); Vác thập tự giá lên đỉnh Calvê (x. Ga 19,17); Chúa bị đóng đinh và tử nạn trên thập tự giá (x. Ga 19,18-30); Tháo xác Chúa (x. Ga 19,39-40); Táng xác Chúa (x. Ga 19,40-42).
Và cho đến ngày hôm nay, tuy đã về trời, Đức Mẹ Maria vẫn còn tiếp tục phải chịu bao đau khổ khi chứng kiến biết bao ích kỷ, hận thù, chia rẽ, chiến tranh... giữa đoàn con cái của mình. Nhưng nỗi thống khổ lớn nhất của Đức Mẹ chính là việc trầm luân của biết bao linh hồn đang sống trong tội lỗi và sẽ sa xuống hoả ngục. Lời tiên tri của cụ già Simêon khi xưa quả rất hiện thực, vì con tim của Đức Mẹ vẫn không ngừng bị bao lưỡi đòng đâm thấu, và người đâm thấu tâm hồn Đức Mẹ lại chính là những đứa con mà Đức Mẹ đã một lần sinh ra trong ân sủng. Trong số những đứa con phản nghịch ấy, phải chăng có tôi và bạn?
3.2. Giáo Hội đã đặt lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngay sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá để như muốn nói rằng: “Khi Ðức Kitô chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Chúa đứng kề bên mà thông phần đau khổ” [15]. Cuộc đời Mẹ luôn kết hợp với những nỗi khổ đau của Con. Có lẽ không đau khổ nào lớn hơn đau khổ của chính Đức Mẹ Thiên Chúa, Đấng mà theo lời của Thánh Gioan, “đã đứng kề bên thập tự giá Đức Chúa Giêsu” (Ga 19,25) trên đồi Calvê. Không ai hiểu con cho bằng người mẹ, và cũng không ai đau khổ hơn người mẹ khi phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết của con mình:
“Mẹ sầu bi, tầm tã giọt châu,
đang đứng bên cây thập tự giá,
nơi Con Người đã bị treo lên.
Một lưỡi gươm nhọn đã đâm qua
tâm hồn Bà đang rên siết,
đang sầu khổ và đau buồn...”.
(Thánh thi Stabat Mater)
Như Đức Giêsu, Con của Mẹ, Đức Mẹ Maria cũng tự đồng hoá chính mình với mầu nhiệm đau thương của thập tự giá. Bởi thế, Đức Mẹ đáng được gọi là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Qua việc cử hành lễ Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy chiêm ngắm hình ảnh của một người Mẹ đau thương vì Con và vì chúng ta:
“Ai là người không tuôn châu lệ,
khi nhìn thấy Mẹ Chúa Kitô,
trong cảnh cực hình như thế?
Ai có thể không buồn bã nhìn xem
Mẹ Chúa Kitô, đang đau khổ cùng với Con Người?...”
(Thánh thi Stabat Mater)
Đồng thời Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy an ủi Mẹ bằng cách bắt chước và yêu mến Đức Mẹ hơn:
“Ôi lạy Mẹ là niềm yêu mến,
xin cho con cảm thấy mãnh lực của đau thương,
để cho con được khóc than cùng Mẹ.
Xin cho lòng con cháy lửa mến yêu,
mến yêu Đức Kitô là Thiên Chúa,
để cho con có thể làm đẹp ý Chúa...”.
(Thánh thi Stabat Mater)
3.3. Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Mẹ Maria đã bắt đầu cuộc lữ hành đức tin bằng những lời xin vâng: “Tôi là nữ tỳ Chúa. Tôi xin vâng như lời ngài truyền” (Lc 1,38) và những lời vui tươi hăng hái của người mẹ trẻ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Vì Đức Chúa đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Đức Chúa...”. Vì vậy, khi ngắm nhìn sự đau thương của Đức Chúa Giêsu và Mẹ Đức Chúa Giêsu trong ánh sáng Thánh Kinh, chúng ta không thể đồng hoá sự tuân phục của các Ngài với định mệnh thuyết hay thụ động tính [16]. Trái lại, như Công đồng Vatican II dạy: “Đức Trinh Nữ đã vững tiến trong cuộc lữ hành đức tin, và trung thành hợp nhất với Con Mẹ cho tới khi đứng dưới chân thập tự giá, theo đúng chương trình của Thiên Chúa” (LG 58):
“Ðức Maria, Nữ Vương cả đất trời,
Vẫn hiên ngang đứng vững
Gần bên thập giá Ðức Kitô.
Diễm phúc thay, Ðấng không phải chết
Mà được lãnh cành thiên tuế
Dành cho người tuẫn đạo”.
(Xướng đáp, Kinh Chiều Lễ Đức Mẹ Sầu Bi)
và đó là niềm vui của Mẹ cũng là niềm hy vọng của chúng ta:
Mừng vui lên, lạy Mẹ sầu bi,
Xưa kia cùng với Con yêu dấu,
Mẹ thông phần đau khổ,
Ngày nay Mẹ lại được cùng Chúa,
Chung hưởng phúc vinh quang.
(Điệp ca Tin Mừng, Kinh Sáng Lễ Đức Mẹ Sầu Bi)
4.  Kết luận
Dựa theo giáo huấn Công đồng Vatican II, Giáo Hội muốn lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng ta hướng về Đức Chúa Kitô. Do đó, Giáo Hội muốn chúng ta sùng kính Đức Mẹ đồng thụ nạn với Đức Chúa Kitô khổ nạn để chúng ta noi gương Mẹ, mà kết hợp cuộc đời khổ đau của ta với cuộc đời tử nạn của Đức Chúa Kitô, ngõ hầu mai sau chúng ta cùng được hưởng phúc trường sinh vinh hiển với Đức Chúa như Đức Mẹ.
“Khi chúng con kính nhớ tình yêu đau khổ của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho chúng con biết dùng đời sống mình để bù đắp những gì còn đang thiếu sót trong những đau khổ của Đức Chúa Kitô để mưu ích cho Hội Thánh” (Lời nguyện hiệp lễ ngày 15/09).
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
***
-------------------
[1] Trong phụng vụ trước Công đồng Vatican II, Chúa Nhật Lễ Lá còn gọi là Chúa Nhật Khổ Nạn II (Dominica II Passionis seu in Palmis) và tuần trước đó là Tuần Khổ Nạn I, Lễ Đức Mẹ Sầu Bi cử hành vào ngày Thứ Sáu trong tuần này (Feria VI post Dominica De Passione).
[2] Các từ điển không thống nhất về từ loại của chữ này, ví dụ: TỰ ĐIỂN VIỆT NAM (của Ban Tu Thư Khai Trí, NXB. Khai Trí, Sài Gòn, 1971) thì ghi là đại danh từ; ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT (của Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1999) thi ghi là danh từ; còn GIÚP ĐỌC NÔM VÀ HÁN VIỆT (của Lm. Antôn Trần Văn Kiệm, NXB. Đà Nẵng, 2004) thì ghi là mạo từ.
[3] Cao Phương Kỷ, Lạm bàn về phiên dịch Kinh-Sách sang Việt ngữ
(http://www.gpnt.net/diendan/archive/index.php/t-795.html), các chữ in đậm do chúng tôi.
[4] Nguyễn Lân, TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT NAM, NXB. TP.HCM, TP.HCM, 2000.
[5] Hoàng Phê (chủ biên), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Viện Ngôn Ngữ Học, Đà Nẵng, 2005.
[6] Hội Khai Trí Tiến Đức, VIỆT NAM TỪ ĐIỂN, NXB. Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội. Gs. Lê Ngọc Trụ, VIỆT NGỮ CHÍNH TẢ TỰ VỊ, in lần ll, NXB. Khai Trí, Sài Gòn, 1972.
[7] Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB. Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1999.
[8] Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN ANNAM - LUSITAN - LATINH (TỪ ĐIỂN VIỆT - BỒ - LA), Rôma, 1651. Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, NXB. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991.
[9] Trong Lịch Sử Đàng Ngoài, ở bài giảng đầu tiên trên bến Cửa Bạng ngày 19/03/1627, chính ngày lễ kính Thánh Giuse, Đắc Lộ đã cho biết ông rất trịnh trọng nói đến tên Thiên Chúa một cách vô cùng long trọng. Ông không dùng “Thiên Chúa”, cũng không dùng “Chúa Trời” mà nói “đức Chúa trời đất”, vì chữ đức này làm tôn giá trị tuyệt đối của “Chúa trời đất”, vì trong cung điện, trong phủ, người ta vẫn phải nói đức vua, đức chúa, đức ông, đức bà... Cho nên Phép giảng là phép giảng cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh đức Chúa blời. Đắc Lộ còn viết rõ rệt: viết chữ nhỏ ở đức và blời, và chỉ viết chữ lớn, chữ hoa ở Chúa mà thôi, vì chúng ta không thờ trời, không thờ đất mà thờ đức Chúa blời đết”. (Nguyễn Khắc Xuyên, GIÁO SĨ ĐẮC LỘ VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO NGUYÊN THUỶ VIỆT NAM:
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=44&ict=841 )
[10] Huình Tịnh Paulus Của, ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ, Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn, 1895. NXB. Khai Trí, Sài Gòn, 1974.
[11] Đức Khổng Phu Tử (551-479 BC): Tên thật là Khổng Khâu ( 孔丘 ), tên hiệu là Trọng Ni ( 仲尼 ). Khổng là một họ phổ biến ở Trung Quốc; Phu Tử có nghĩa là thầy giáo, theo văn hoá Trung Quốc việc gọi thầy bằng tên là bất kính, nên ông chỉ được gọi là “Thầy Khổng”, thậm chí cho tới tận ngày nay. Từ “Phu” không bắt buộc, vì thế ông cũng thường được gọi là Khổng Tử.
[12] Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) là tên riêng của vị Phật lịch sử đã từng sống trên trái đất này, người sáng lập Phật Giáo. Thích Ca Mâu Ni (śākyamuni là danh hiệu có nghĩa là: Trí giả trầm lặng (muni) của dòng Thích Ca).
[13] xem bài của Pt Giuse Trần Văn Nhật, Về danh xưng “Đức Giêsu” hay “Chúa Giêsu” trong www.nguoitinhuu.com.
[14] Hoàng Phê (chủ biên), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Viện Ngôn Ngữ Học, Đà Nẵng, 2005.
[15] Lời nguyện Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Lễ Đức Mẹ Sầu Bi.
[16] xem Bài giảng của ĐTC Gioan Phaolô II tại Los Angeles, ngày 15/09/1987.