Trang

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

Thầy Đã Đến Ném Lửa Vào Mặt Đất - CN 20 TN C

 Thầy Đã Đến Ném Lửa Vào Mặt Đất

Chúa Nhật 20 thường niên C

Lc 12,49-53

Trước đây đã có lần Chúa Giêsu đã từ chối lời đề nghị của anh em Gioan và Giacôbê khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt dân làng Samaria (Lc 9,54-55).  Thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại tuyên bố: “Thày đã đến ném lửa vào mặt đất”. Chúng ta phải hiểu lời Chúa Giêsu nói theo nghĩa nào?

Chúng ta không nên hiểu theo nghĩa vật chất, nhưng theo một nghĩa tượng trưng. Trong Kinh Thánh hình ảnh lửa tượng trưng cho Thiên Chúa: Môsê đến gặp Giavê Thiên Chúa trong một bụi gai bốc cháy giữa sa mạc, dân Israel nhận luật của Thiên Chúa trong lửa và bão tố trên núi Sinai.

Ở đền thờ Giêrusalem, trước khi ăn các lễ vật để bày tỏ sự hiệp thông với Thiên Chúa, thì các tư tế phải đưa lễ vật vào lửa để thiêu, để nhờ lửa và qua lửa đưa các lễ vật đến Thiên Chúa.

Một cách chính xác hơn, lửa có ý nghĩa sự phán xét của Thiên Chúa để thiêu huỷ những kẻ xấu và thanh luyện số ít người trung tín còn sót lại (St 19,23-29; Lc 3,9-17).

Tuy nhiên, đối với thánh Luca, trước hết lửa là biểu trưng của Thần Khí Thiên Chúa đến thiêu đốt các tông đồ trong ngày Hiện Xuống (Cv 2,3-10). Ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu sôi sục, nóng bỏng rực sáng cả thế gian. Ngọn lửa ấy hiện diện nơi Đức Kitô Phục sinh. Ngọn lửa ấy thiêu đốt trí lòng các môn đệ trên đường về Emmau (Lc 24,32). Ngọn lửa ấy đã được Đức Giêsu ném vào thế gian tối tăm và lãnh lẽo: “Thày đã ném lửa vào trần gian và những ước mong phải chi lửa ấy bùng cháy lên”.  Ném lửa vào thế gian và mong cho lửa đó bừng cháy lên. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Đức Giêsu.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng, Đức Giêsu như một người mang trong mình một dự án lớn lao, ước mong cho dự án ấy được hoàn thành… Dự án đích thực của Đức Giêsu là cứu chuộc nhân loại và đổi mới toàn thể địa cầu. Người hăng say và quyết tâm thực hiện cho bằng được dự án ấy, dù bị hiểu lầm, chống đối và hy sinh mạng sống mình, chết treo trên thập giá.

Con người chúng ta nhiều mộng ước nhưng lại thường hay vỡ mộng, nhiều dự án nhưng lại bỏ dở dang. Trước sự vỡ mộng và dở dang ấy, Đức Giêsu sẽ trở thành một sức mạnh và lòng nhiệt thành mới mẻ, giúp cho nhiều người chúng ta hôm nay thực hiện được mộng ước và hoàn thành dự án, ngay giữa lòng cuộc sống với  những việc tầm thường hàng ngày, chỉ cần chúng ta đốt lên ‘ngọn lửa nồng nàn của tình yêu’. (Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã trở nên vị đại thánh và tiến sĩ trong Giáo Hội bằng con đường thơ ấu thiêng liêng).

Hỡi ôi, tiếc thay! Ai trong chúng ta đã chẳng có những lần dập tắt lửa Thần Khí Chúa? Tin mừng gây quá nhiều phiền toái… dẫn chúng ta đi quá xa… đòi hỏi chúng ta quá nhiều… cấm đoán, ngăn cản chúng ta… bảo chúng ta phải làm điều này, không được làm điều kia… Thế thì, cần phải cầm lấy bình chữa cháy và dập tắt lời nóng bỏng ấy đang quấy rầy chúng ta !

Trước những việc làm dập tắt lửa của Thần Khí Chúa, chúng ta cần phải nghe lại lời của thánh Phaolô: “Anh em hãy sống theo Thần Khí” (Gl 5,16),  “đừng có dập tắt Thần Khí” (1Tx 5,19). “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6,7-8).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đem lửa Thần Khí cứu độ đến trên trần gian và ước mong lửa đó bừng cháy lên. Xin cho mỗi người chúng con luôn thắp sáng ngọn lửa Thần Khí Chúa mà chúng con đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu

Hoàng Tử Bình An Đến Mang Sự Chia Rẽ

Chúa nhật XX năm – C

( Luca 12 ,49-57)

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay xem ra thật nghịch lý: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba : cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12, 51-53).

Vậy chúng ta nghĩ sao đây khi Đức Giêsu được Isaia loan báo là Thái Tử Hòa Bình, và ngày sinh nhật của Người được các thiên thiên chào đón với những lời ca tiếng hát: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Khi đi rao giảng, Người đã từng công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5, 9). Chính Đức Giêsu, khi bị bắt, đã truyền cho Phêrô “Hãy xỏ gươm vào bao!” (Mt 26, 52). Nay lại tuyên bố: “Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51). Chúng ta lý giải sao cho sự mâu thuẫn này?

Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt xem đâu là sự bình an và hiệp nhất mà Đức Giêsu mang đến, và đâu là sự bình an và sự hiệp nhất Người muốn tẩy chay. Người đến ban bình an và hiệp nhất cho người lành, bình an dẫn tới sự sống đời đời, và Người tẩy chay sự bình an và hiệp nhất giả tạo, chỉ ru ngủ lương tâm và dẫn tới sự đồi bại.

Không phải Đức Giêsu có ý đến để đem sự chia rẽ và chiến tranh, nhưng điều Người mang đến, không thể tránh được sự chia rẽ và sự chống đối bởi vì Người đặt dân chúng trước một sự lựa chọn. Và khi đối mặt với sự cần thiết phải lựa chọn, chúng ta biết rằng sự tự do con người sẽ phản ứng nhiều cách khác nhau. Lời và con người Đức Giêsu sẽ phát hiện những điều gì giấu kín nhất trong chốn sâu thẳm lòng người. Cụ già Simeon đã tiên báo điều này, khi bồng Hài Nhi Giêsu trên tay mình và nói: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Isrel phải sụp đổ. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư của nhiều tâm hồn được biểu lộ” (Lc 2,35).

Phải chăng “lưỡi gươm” mà Đức Giêsu đã mang xuống trái đất, chính Người là nạn nhân đầu tiên cho sự chống đối này? Đúng thế, Chính Đức Giêsu sẽ là nạn nhân thứ nhất, Người sẽ thí mạng sống Người vì nó. Tiếp theo, người trực tiếp hơn hết dính líu trong thảm cảnh này là Đức Maria Mẹ Người, như cụ  già Simeon đã nói về Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35).

Chính Đức Giêsu cũng đã phân biệt hai kiểu bình an khi nói với các môn đệ mình rằng: “Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con; Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các các con đừng xao xuyến” (Ga 14, 27). Sau khi phá hủy sự bình an và tình liên đới giả tạo của loài người trong sự dữ và sự tội nhờ sự chết của Người, Đức Giêsu đã hoàn tất sự bình an và hiệp nhất mới là hoa quả của Chúa Thánh Thần. Đó là sự bình an Người cống hiến cho các môn đệ trong đêm Phục Sinh, khí nói “Bình an cho anh em!”

Đức Giêsu nói rằng sự “chia rẽ” này cũng có thể xảy ra trong gia đình: giữa cha và con trai, mẹ và con gái, anh em và chị em, nàng dâu và mẹ chồng. Và vô phúc thay, chúng ta biết điều này thỉnh thoảng gây đau đớn thật sự. Người nào đã gặp được Chúa và muốn nghiêm chỉnh theo Chúa, thường thấy mình ở trong tình huống khó khăn phải lựa chọn: Hoặc làm cho những người tại nhà được hạnh phúc và lơ là Thiên Chúa và việc thực hành đạo đức, hoặc là theo những cái sau và đặt mình xung đột với những người của mình, những kẻ mang lại rắc rối cho mình vì mọi sự nhỏ mọn mình làm cho Thiên Chúa và vì lòng sốt sắng.

Nhưng sự chống đối thâm nhập còn sâu hơn, trong chính con người, và trở thành một trận chiến giữa xác thịt và tinh thần, giữa tiếng mời gọi đi tới ích kỷ và sự hưởng thụ quá đáng, và tiếng gọi lương tâm. Sự chia rẽ và xung đột bắt đầu bên trong chúng ta. Thánh Phaolô đã minh họa điều này cách rất kỳ lạ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt; đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gal 5,17).

Thánh Công Đồng Vaticanô II dạy: ” Bản chất của hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Is 32,7). Hòa bình là kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện ra trong hành động… Do đó, hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng mãi mãi. Vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn luôn kiềm chế dục vọng của mình và chính quyền phải canh phòng cẩn thận.

Phát sinh từ tình yêu tha nhân, hòa bình trần gian là hình ảnh và là kết quả của hòa bình Chúa Kitô, hòa bình do Ðức Chúa Cha mà đến. Vì chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử hòa bình đã dùng thập giá Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể. Người đã hủy diệt hận thù trong chính xác thể Người, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người đã đổ tràn Thánh Thần tình yêu đầy lòng con người.

Nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi và cũng thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: “Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không còn tập luyện để chiến đấu” (Is 2,4). (Trích Hiến chế “Gaudium et spes”, số 78).

Xin cho thế giới được hưởng nền hòa bình do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Nữ Vương Bình An cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

BÌNH AN CHỈ CÓ KHI SỰ THẬT LÊN NGÔI

CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN, C

(Gr 38,4-6.8-10; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53)

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Nếu Tin Mừng Chúa Nhật XVIII, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để được hạnh phúc thật, và Chúa Nhật XIX, Ngài nhấn mạnh đến thái độ “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón chờ Chúa đến trong ngày Quang Lâm…,thì Chúa Nhật XX này, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.

Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:

Phần I, Đức Giêsu muốn nói đến sứ mạng Thiên Sai của Ngài;

Phần II, Ngài tiên báo về những hệ lụy do sứ mạng của mình mang lại.

1.      Sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu

Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Ngài đến để cứu độ con người, nhưng Ngài cứu độ không bằng quyền bính, mà bằng chính cái chết của mình để cứu độ nhân loại. Thật thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về sứ mạng của Mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.

Phép rửa mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự thương khó và cái chết của Ngài. Đồng thời những ai muốn bước theo Ngài thì cũng phải đón nhận phép rửa như Ngài đã chịu, tức là từ bỏ ý riêng, để vâng theo ý Chúa, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận cả cái chết để sống và làm chứng về những giá trị Tin Mừng.

Phép rửa và sứ mạng ấy, Đức Giêsu mong muốn cho mau đến: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”. Ngọn “Lửa” ấy chính là Chúa Thánh Thần. Người đến để thanh luyện những tâm hồn sỏi đá, phân biệt sự thật và giả dối. Người đến còn là để xét xử trần gian.

Ngọn “Lửa” ấy cũng chính là ngọn “Lửa” của Tình yêu, Sự Thật, Công Bình.

Như vậy Đức Giêsu ao ước cho “Lửa” ấy bùng cháy lên để biến đổi trái đất này thành Trời mới Đất mới. Những tâm hồn trai cứng thành mềm dẻo, biết yêu thương nhau, nâng đỡ và đồng hành với nhau để làm chứng cho Chúa trong sự thật, để yêu thương mọi người như anh em một nhà.

Làm được điều đó là chúng ta đã đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa, một quỹ đạo của sự thật, yêu thương, bình an và hoan lạc.

Nhưng để đạt được điều đó thật không dễ, bởi vì nó đòi hỏi ta phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thử thách, đau thương; phải chấp nhận hủy mình ra không để thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chấp nhận hủy diệt bản thân mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, tức là chấp nhận cái chết: chết đi cho con người cũ là con người tội lỗi, để thay vào đó là một con người mới, tâm hồn mới và thái độ mới theo hình ảnh của Đức Kitô.

2. Những hệ lụy của đời chứng nhân

Sau khi đã nói về sứ mạng của mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của người môn đệ, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (x. Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Tức là mâu thuẫn với chính Đức Giêsu, bởi vì Ngài được mệnh danh là “Hoàng Tử Hòa Bình”, hơn nữa, Ngài đến để đem bình an cho nhân loại! Ấy vậy mà hôm nay, Ngài lại bảo: “Tôi đến để đem chia rẽ?

Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: con đường bình an của Ngài là con đường hy sinh, của từ bỏ; con đường của sự chết vì chân lý. Và, muốn có được bình an thì phải đi trên con đường đó, để làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho công lý, và xây dựng hòa bình.

Chính Đức Giêsu cũng chỉ vì sự thật mà phải chết. Ngài không bị kết án vì đã dạy cho con người sống tốt; Ngài cũng không bị kết án vì đã làm ơn cho kẻ khác; nhưng Ngài bị kết án chỉ vì dám nói, sống và làm chứng về sự thật.

Như vậy, bình an đích thực chỉ có thể đến được với những người có tâm hồn thật thà, ngay thẳng, biết lắng nghe, và thực hành Lời Chúa. Bởi vì, bình an của Đức Giêsu không phải là một thứ bình an theo kiểu người đời trao tặng cho nhau, cũng không phải là một thứ bình an làm cho con người ngủ mê… Nhưng bình an của Đức Giêsu đem đến cho nhân loại chính là thứ bình an chỉ có được qua hy sinh, được tôi luyện bằng những thử thách, và được lớn lên trong khuôn khổ thập giá.

Quả thật, hôm nay, lời của Đức Giêsu như là một lời tiên tri cho chính Ngài và sứ vụ của các môn đệ: sẽ có nhiều người chống đối vì họ không thể chấp nhận và thay đổi. Họ không muốn sống theo sự thật. Vì thế, ngay trong gia đình cũng luôn xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng vì có người theo và có người không theo; sẽ xảy ra những sự chia rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”. Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: bình an chỉ có thể có khi sự thật, công lý được lên ngôi.

3. Bình an chỉ có được khi sự thật được tôn trọng

Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không dám nói lên sự thật chỉ vì chúng ta sợ mất lòng và bị người ta ghét bỏ. Hơn nữa, có khi chúng ta lại còn đứng về phía bất công để kết án những người lương thiện chỉ vì họ sống thật thà với một lương tâm ngay thẳng.

Trong buôn bán, có nhiều kẻ ghét những người buôn bán thật thà; người hay nói dối thì lại ghét những người nói thật…trong gia đình, những đứa con hay nịnh bợ thì lại được cha mẹ nuông chiều, còn những đứa con thật thà thì lại không được yêu…

Nhưng là Kitô hữu, chúng ta muốn được bình an thực sự của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường thập giá, con đường của chính Đức Giêsu đã đi. Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu.  Hậu quả đó có thể do ghen tức, trục lợi, hoặc chỉ vì dám nói lên những điều ngay thẳng… Đọc chuyện các thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ điều này: có những đấng bị chính con cái tố cáo, bỏ tù chỉ vì ghen ghét; có những đấng bị bắt chỉ vì người nhà, bạn bè, học trò ham tiền, trục lợi… Khi bị bắt rồi, các ngài không chịu nói dối để được tha, thậm chí còn nhân cơ hội ấy để nói và làm chứng cho vua chúa quan quyền thời bấy giờ về sự thật, thế nên các ngài đã phải đón nhận cái chết như một sự trả lẽ cho sự thật.

Như vậy, muốn có bình an thực sự là khi và chỉ khi chúng ta đã quyết liệt chiến đấu để lựa chọn. Bình an chỉ có được khi nó thực sự tách biệt khỏi gian dối, hận thù và ghen tương; tách bóng tối ra khỏi ánh sáng nhờ ngọn “Lửa” của Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã ban xuống cho nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngọn lửa của tình yêu, sự thật và lòng mến thiêu đốt tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu. Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét