WHĐ (14/01/2025) – Trong bài này, chúng ta suy tư phần thứ hai đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan: “Bát Đức Giêsu thấy Mẹ Ngài và môn đồ Ngài yêu quý đứng bên cạnh, thì Ngài nói với Mẹ: “Cuốc Bà, đây là con Bà”. Doạn lại nói với môn đồ: “Đây là Mẹ con!”. Và từ lúc đó môn đồ đã nhận được Bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).

Khi suy niệm về Đức Maria trong huyền nhiệm Nhập Thể, chúng ta đã lắng nghe Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; ở đây, khi suy tư về Đức Maria trong bí ẩn Vượt qua, chúng tôi muốn nghe Đức Maria là Mẹ các tín hữu và là Mẹ chúng ta.

“Mỗi người hãy sống theo ân sủng đã nhận”

Chúng ta cần phải xác định ngay từ đầu rằng, hai tước hiệu hay hai chân lý được bàn đến không nằm trên cùng một diện mạo. “Mẹ Thiên Chúa” là một tước hiệu được định nghĩa lâu dài, dựa trên mẫu tính thực (mẹ sinh réelle) chứ không chỉ trên mẫu tính tinh thần (mẹ sinh linh thần) ; Mã hiệu này liên hệ cách chặt chẽ và tất yếu với chân lý trung tâm của đức tin chúng ta, chân lý đó là: Đức Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người trong cùng một ngôi vị. Hiệu ứng này được chấp nhận trong toàn bộ Giáo hội. “Mẹ các tín hữu” hay “Mẹ chúng ta” liên hệ đến mẫu tính tinh thần. Mối liên hệ với chân lý trung tâm của Kinh Tin Kính ít chặt hơn. Không thể nói rằng, trong Đếm giáo, tước hiệu này đã được đón nhận “khắp nơi, mọi thời điểm và bởi mọi người”. Nó biểu thị thị giáo lý và lòng đạo đức của một số Giáo hội, đặc biệt là Giáo hội Công giáo, nhưng không phải là Giáo hội Công giáo mà thôi.   

Thánh Augustinô giúp họ phân tích những điểm dị hành giữa hai vai trò trò chơi Mẹ của Đức Maria: “Đức Maria, về mặt có thể xác định, chỉ là Mẹ Đức Kiệt, trong khi về mặt tinh thần, bởi Người đã Thánh Thánh Ý Thiên Chúa, nên Người là chị em và là Mẹ Đức Chúa Giêsu, là Mẹ về mặt tinh thần, nhưng Người không đóng vai trò đó tranh luận Ðầu là chính đúng cứu Thế, mà hơn, Người là con của Ðầu xét về mặt tinh thần. Người chắc chắn là Mẹ về mặt tinh thần của các chi thể là chúng ta, bởi lẽ Mẹ đã cộng tác, bằng lòng viếng thăm, vào việc sinh ra các tín hữu trong Giáo hội, những chi thể của Ðầu” [1] .

Sự khác biệt giữa hai tước hiệu của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ các tín hữu, được nhấn mạnh như thế để thấy rằng, đối với tước hiệu thứ hai là tước hiệu phản ánh ánh đạo đức đức, tôn kính hơn là tín lý , thì việc chấp nhận một tự do nào đó đối lập với tước hiệu này giữa các Giáo hội Giết là điều có thể, thậm chí là chí, là đúng nữa. Dù vẫn dựa trên Lời Chúa, nhưng đó không phải là một hệ thống buộc mọi người phải chấp nhận với cùng một mức độ mạnh mẽ, cùng một mức độ tự nhiên. Trong phần suy niệm ở đây, chúng tôi mong muốn khám phá ra tất cả sự phong phú chứa đựng trong tước hiệu này, và xem phước lành nào của Đức Kitô, được thể hiện qua tước hiệu đó: làm như thế chúng ta không những Thêm cho Đức Maria một dự án vinh quang nữa, mà chính chúng tôi cũng được xây dựng trong đức tin và được phát triển trong công việc ở đây theo Đức Kiến. Phần suy niệm còn nhắm làm cho anh em Tin Lành hiểu được tước hiệu này cũng như ý nghĩa của nó theo như người Công giáo chúng ta hiểu, vì anh em Tin Lành khó có thể chấp nhận tước hiệu này cũng như một số mã hiệu khác nói lên sự tham dự tích cực của Đức Maria vào công việc nghiên cứu và vào đời sống của Giáo hội, ngay cả trong hiện tại.

Phải chăng đây là lúc cần nhắc lại một đoạn Kinh Thánh về sự phân phối các phúc lộc, hay các đoàn phước trong Thân Mình Đức Kitô: “Mỗi người tùy theo lộc lộc đã được, hãy lợi ích mà phục vụ nhau như những người quản lý giỏi giang về hồng ân vạn hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1P 4,10). Lời này không chỉ áp dụng cho những nhân vật đặc biệt trong Giáo hội mà còn áp dụng cho những nhóm, những trào lưu khác nhau, cho các hệ thống truyền thông thành trong Giáo hội. Như thế, ý nghĩa của bản văn sẽ là: mỗi Giáo hội, tùy theo phúc đã được, hãy lợi ích mà phục vụ nhau như những người quản lý giỏi giang về ân sủng quá sức lao và sung sướng đến nỗi đau không thể rút lại thành “format”.  

Một số hình thức tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria là ân huệ, ân huệ đặc biệt cho Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống cũng chia sẻ phần lớn. Các Giáo hội này cần phải duy trì và phát triển những hình thức đặc biệt để các bạn khác cũng được giúp đỡ, nhưng không vì thế mà đòi buộc họ phải chấp nhận thực hành như thế. Giáo hội cải cách lại được ân huệ đặc biệt đào sâu Lời Kinh Thánh theo một cách thức nào đó, và ngày nay các Giáo hội Công giáo và Chính thống đang được trợ giúp.

Dựa vào Lời Chúa mà chúng tôi vừa nhanh chóng đến, có hai Yêu cầu đề ra cho chúng ta: before out, hãy sống ân huệ đã nhận, làm cho nó sinh hoa kết quả, và sau đó đưa ra dịch vụ tha nhân. Suy luận chính là điều chúng tôi đề xuất thực hiện. Với cách nhìn như thế, tước hiệu Đức Maria “Mẹ các tín hữu” tuy không phải là điều bắt quân mọi người phải chấp nhận, nhưng tầm quan trọng của nó đối với chúng ta không vì thế mà suy giảm đi chút nào. Theo một nghĩa nào đó, nó vẫn tăng thêm phần quan trọng: chúng ta cũng chịu trách nhiệm về ân sủng dành cho các anh em khác.

“Mọi người chúng ta đều sinh ra tại đó”

Tương tự như mẫu tính thể lý, mẫu tính tinh thần thể hiện qua hai giai đoạn và hai hành vi: thụ thai và sinh hạ. Mỗi giai đoạn tự nó không đủ. Đức Maria đã trải qua hai giai đoạn đó. Người đã thụ thai và sinh hạ chúng ta thiêng liêng. Người đã nhận ra chúng ta, nghĩa là đã được đón nhận chúng ta trong tâm hồn của Người, có thể ngay lúc Truyền Tin và chắc chắn về sau, lúc Đức Giêsu tiến tiến tới trong sứ mạng của Ngài, Người khám phá ra rằng Con của mình không phải như những đứa con khác, nghĩa là một cá nhân riêng lẻ, mà là “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), và chung quanh Ngài, một “số” tập hợp re, doing to a plus.

Để tìm một hình ảnh tương tự, tuy chưa đúng tầm, có thể ta không nghĩ đến mẹ của các linh mục sáng lập hoạt động từ thiện, coi hạn như mẹ của Don Bosco: đã tìm thấy những nhóm “bạn nhỏ”, “ hạc đáng thương” kéo đến nhà mình một ngày đông, làm chính con cầm đầu, yên tĩnh, không cần giải thích nhiều, các bà mẹ đó bắt đầu tự thích ứng với những đòi hỏi mới và bảo đảm cơm ăn, chốn ở, phí thâm nuôi dưỡng cho những đứa trẻ mới đến đó, có thể chúng là con của mình.

Trong trường hợp Đức Maria, điều đó còn sâu xa hơn rất nhiều. Về những kẻ mới đến đây, những người mà Ðức Giêsu gọi là “anh em, chị em và mẹ Ta”. Ngài phán: “Những gì các ngươi làm (cho cơm ăn, áo mặc, thăm viếng) cho một trong anh em canh mọn nhất của Ta là các người đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Đức Maria – trong thời gian đó – khi nghe hoặc được biết Con mình đã nói: “Hãy đến với Ta, hết những ai lao đao nặng” (Mt 11,28) Người hiểu rằng, mình không thể thoát được hay từ chối chấp nhận làm cho tất cả những người được mình mời đến, nếu không, Người sẽ không còn là Mẹ của Ngài về mặt tinh thần nữa.

Hiện là thời gian thụ thai, thời gian nói lên tiếng “xin vâng” của tâm hồn. Dưới chân Thập Giá là giờ sinh hạ, Đức Chúa Giêsu nói với Mẹ Ngài bằng tiếng “Quốc Bà”. Tuy không thể khẳng định chắc chắn, nhưng vì biết thánh sử Gioan thường nói theo lối ẩn, biểu hiện, mẹo gợi ý, nên chúng ta có thể nói rằng, lời này liên quan đến điều Đức Đức từng nói: “Đàn bà sinh con thì ưu tiên vì thời gian của Bà đã đến”. Lời đó còn lại chỉ đến những gì Khải Huyền nói về người đàn bà, ở đây trước đây là Giáo hội, cộng đoàn Giao Ước Mới, sinh ra con người mới và thế giới mới, thì Đức Maria được bao gồm trong đó trước đó hết, như là sự khởi đầu và là người đại diện cho cộng đoàn tín hữu đó. Giáo hội đã sớm nhận ra mối quan hệ gần gũi giữa Đức Maria và người đàn bà khi nhìn Đức Maria như là Evà mới, “Mẹ của chúng sinh mới” (thánh Irenê đã nhận ra điều đó, mà bạn là môn đệ của Polycarpe , và vị trí này lại là môn đệ của Gioan).

Hiện tại, chúng tôi đã xem bản văn của Gioan, xem bạn có thể soi sáng về điểm này như thế nào. Lời Đức Đức Giêsu nói với Đức Maria “Nguyện Bà, đây là con Bà”, và với Gioan “Ngay là Mẹ con” trước tiên có một nghĩa trực tiếp và cụ thể. Chúng ta không nên ngâm mình qua ý nghĩa trực tiếp này: Ở đây chúng ta đã khám phá ra một khía cạnh quan trọng trong tiến trình thiêng liêng của Mẹ Thiên Chúa. Một lần nữa, ta thấy Người như khách kiều cư lữ thứ trong thế giới này, không mái ấm, không nơi ở thực sự là của mình trên trần gian. Người để cho Thiên Chúa “đặt định” thời gian sinh Con, khi Lời Chúa đặt Người vào trong hoàn cảnh hoàn toàn cô đơn trước mọi người, Thiên Chúa yêu cầu Giuse đón nhận Đức Maria: “Giuse, con của Davít, tuy Sợ cưới Maria vợ về nhà” (Mt 1,20). Tỉnh giấc, Giuse đã đưa người về nhà mình. Giờ đây, lúc Con chết, một lần nữa Người lại đơn độc trong cuộc đời. Thiên Chúa yêu cầu Gioan chào Người về nhà mình và “Gioan từ giờ ấy đã nắm lấy Bà về nhà mình”. Đức Maria quả là người phụ nữ lên đênh, không bám vào đâu cả, từ đầu đến cuối, Người để Thiên Chúa quyết định cuộc đời mình. Đối với chúng ta, Người như hiện thân của người nghèo khó, “Đức Bà Nghèo Khó”.

Tuy nhiên, điều này chưa phải đã nói hết ý nghĩa cảnh tượng đó. Khoa chú giải hiện đại, nhờ những tiến bộ lớn lao trong việc hiểu biết về ngôn ngữ cũng như về những kiểu diễn thuyết của Lễ kỷ niệm thứ tư, đã xác tín về điều đó còn hơn các Giáo phụ. Nếu chỉ dùng một khóa duy nhất để hiểu đoạn văn này, coi đó như những lời trăng trối cuối cùng thì, như người ta nói, bản văn trở thành như “một con cá bắt ra khỏi nước”, không hòa hợp với văn card. Ðối với Thánh Gioan, giờ chết là Giờ tôn vinh Đức Giêsu, Giờ hoàn tất Kinh thánh, hoàn tất mọi sự. Ngay trước những lời liên quan đến Đức Maria, Gioan nói đến tước hiệu “Vua dân Do Thái” với âm thanh rõ ràng đến nghĩa tiên tri và nghĩa viên mãn của nó. Ngài nói đến chiếc áo chùng không có đường khâu (x. Ga 19,23), tip lại áo chùng của Vị Thượng Tế, vì áo đó cũng được may mảnh mảnh (Xh 28,31), và tip lại sự hoàn tất lời tri đầu tiên. Ngay sau những lời đó, ta đọc thấy Đức Giêsu “phó thác thần khí”, nghĩa là Ngài tắt thở nhưng cũng có nghĩa là Ngài sai Thánh Thần, như lời ghi chú tiếp theo sau về máu và nước ra từ cạnh sườn cho chỉ định điều đó. Thư thứ nhất của Thánh Gioan làm sáng tỏ: “Có ba nhân chứng: Thần Khí, nước và máu” (1Ga 5,7-8). Cạnh sườn khai mở cửa chỉ lời tiên tri Êzêkiel: nước hằng sống ra từ bên hông Ðền Thờ Mới (x. Ez 47,1tt). Chính Đức Đức từng nói về thân mình Ngài bị tan rã như về Ðền Ngã Mới (x. Ga 2,19tt).

Toàn văn mạch được xác định rõ ràng, bản văn sẽ được giải quyết thích cách thở nén nếu người ta chỉ muốn tìm thấy trong đó một nghĩa riêng, cá nhân, thay vì, cùng với chú thích giải truyền thống, nhận ra rằng bản văn mang một nghĩa phổ quát, nghĩa Giáo hội sắc hơn, có liên hệ với khuôn mặt người “đàn bà” trong Khởi nguyên 3,15 và trong Khải Huyền 12. Nghĩa Giáo hội của bản văn đó là: người môn đệ ở đây không chỉ là Gioan, nhưng là người môn đệ, trong tư cách là môn đệ Đức Giêsu, thực tế là mọi môn đệ. Đức Giêsu trong hấp hấp trao họ cho Đức Maria để họ nên con của Người, và trao Đức Maria cho họ, để Người nên Mẹ của họ.

Lời của Đức Giêsu có khi mô tả một thực tế đã có, khải tượng điều khiển bằng sa mạc; có khi ngược lại, Lời của Ngài sáng tạo, làm cho hiện hữu điều mà nó diễn tả. Những lời Đức Chúa Giêsu lúc hấp hối nói với Đức Maria và với Gioan thuộc vào loại thứ hai này. Khi nói: “Ninh là Mình Thầy” Đức Giêsu biến bánh trở thành Thân Mình Ngài. Cũng thế - tuy vẫn có tất cả những điều khác biệt - khi nói: “Niết là Mẹ con” và “Niết là con Bà”, Đức Chúa Giêsu đã làm cho Đức Maria nên Mẹ Gioan, và Gioan nên con Đức Maria. Đức Giêsu không công bố vai trò làm Mẹ mới của Đức Maria, nhưng đã thiết lập vai trò làm Mẹ đó. Vai trò làm Mẹ này không phải của Đức Maria, mà là của Lời Chúa, không dựa vào công phúc, mà là ân ân.

Như thế, dưới chân Thập Giá, Đức Maria xuất hiện như Nữ Tử Sion, sau khi hứa tang các con mình, đã được Thiên Chúa cấm cho một dòng theo dõi mới, không xác xác thịt nhưng theo Thần Khí, một dòng theo dõi đông hơn ban đầu theo dõi dòng. Ngâm là điều mà một thánh vịnh được phục vụ ứng dụng cho Đức Maria nói lên: “Kìa of Philitinh, thành Tyr cùng miền Ethiopi, tại đó kẻ trộm này người đã sinh ra”. Nhưng về Sion, người ta có thể nói: “Người người sinh tại đó.” Chúa ghi vào sổ bộ dân dân: “Kẻ này người nọ đều sinh ra tại đó” (Tv 87,2tt). Đúng như vậy: Tất cả chúng ta đều sinh ra tại đó, mọi người đã sinh ra. Điều đó nói về tôi, về bạn.

Chúng ta phải giảm ta đã không “được tái sinh nhờ Lời Hằng Sống và vĩnh cửu của Thiên Chúa” (x. 1P 1,23)? Phải giảm chúng ta đã không sinh ra “do Thiên Chúa” (Ga 1,13)? Không tái sinh “bởi nước và Thần Khí” (Ga,5)? Rồi rồi! Nhưng điều đó không loại trừ việc chúng ta còn được sinh ra bởi lòng tin và nỗi đau khổ của Đức Maria, theo một nghĩa khác, nghĩa tùng phục và nghĩa dụng cụ. Nếu Thánh Đấu, là tôi tớ và là tông đồ của Đức Kitô, có thể nói với các tín hữu của ngài: “Nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em trong Đức Kitô Kitô” (1Cr 4,15), thì Đức Maria còn có lý gấp mấy để nói như thế, vì Người là Mẹ của họ: “ Thứ con cái của tôi, những kẻ tôi đã phải quặn đau mà sinh ra” (Ga 4,19)? Ai có thể nói lời đó của thánh Tông đồ đúng hơn Đức Maria? Người sinh chúng ta “một lần nữa” dưới chân Thập Giá, bởi Người đã sinh chúng ta lần đầu tiên, không phải trong quặn đau mà là trong vui mừng khi Người sinh cho đời “Lời Hằng Sống và Vĩnh cửu” là Đức Hiện, trong Ngài, chúng ta được tái sinh.

Lời Thiên Chúa hứa không liên hệ với những vật thể, đến các thành phố hay các bức tường, nhưng dành cho những người cụ thể mà các biểu tượng hoặc hình ảnh biểu thị. Vì vậy, nếu liên hệ đến những con người cụ thể thì những lời trải nghiệm nơi ai rõ ràng nhất nếu không phải là nơi Đức Maria, Nữ Tử Sion Khiêm Hạ, khởi đầu của “số bạch”, ngay cả trên bình diện niên biểu - những người mà Thánh hiền nói: “Những lời hứa đã được dành cho họ” (x. Rm 11,5tt)?

Vì vậy, như chúng ta đã áp dụng cho Đức Maria khúc Ai ca về Sion bị tàn phá, phải uống chén nghĩa nội bộ của Thiên Chúa, giờ đây, tin vào khả năng nuôi dưỡng và phong phú vô cùng của Lời Chúa, vốn vượt qua xa các lược đồ giải quyết, chúng ta áp dụng cho Đức Maria bài ca Sion được tái sinh thiết bị sau lưu trữ. Tròn mắt kinh ngạc khi nhìn thấy những đứa trẻ mới của mình, Người kêu lên: “Người ấy ai đã nuôi giáo dục”? (Là 49,21).

Áp dụng như thế không phải là chủ quan mà là khách quan, vì không dựa vào việc Đức Maria lúc bấy giờ có ý nghĩ hay không nghĩ đến những lời ấy, nhưng làm sự sắp xếp của Thiên Chúa, những lời ấy đã thành hiện thực nơi Đức Maria. Nhận được điều này là nhờ đọc Kinh Thánh theo Thần Khí (bài giảng Spirituelle) , thực hiện trong Giáo hội và cùng với Giáo hội. Nếu không đặt mình trong điều kiện như thế, người ta sẽ không thể khám phá điều đó. Mất đi Thần Khí, người ta phải đối mặt với văn tự. Khoa giải thích hiện đại đã đưa ra một nguyên tắc rất hay: để hiểu một bản văn, người ta không thể kể đến những tác động cũng như những âm vang của nó trong lịch sử (Wirkungsgeschichte) . Nguyên tắc này càng có giá trị đối với các bản văn Kinh Thánh: người ta chỉ có thể hiểu được các bản văn trong nội dung toàn bộ cũng như các kho tàng của chúng tôi nhờ tất cả những gì chúng đã tạo ra trong lịch sử, trước hết là nơi Israel và sau đó là nơi Giáo hội, nhờ ánh sáng và sức sống mà chúng tôi làm lan tỏa. Điều này rất đúng, nhất là đối với những câu Kinh thánh như chúng ta đang tìm hiểu. “Lịch sử các ứng nghiệm” (histoire des réalisations ) này được Giáo hội gọi là truyền thống.    

Tổng hợp về Đức Maria của Công đồng Vatican II

Công đồng Vatican II đã trình bày một diễn thuyết đạt mới cho giáo lý Công giáo truyền thống về Đức Maria, Mẹ các tín hữu. Giáo huấn về Đức Maria được lồng vào một khung cảnh rộng hơn, qua đó Đức Maria được đặt vào trong lịch sử nghiên cứu độ và trong bí ẩn Đức Kitô: “Vì đời đời, Đức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa Cùng một lúc với công việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa quan phòng trên trần gian, Ngài đã trở thành Mẹ cao trọng của Cứu Chuộc thần linh, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Người là cộng sự viên đại quảng và tôi tá khiêm hạ của Chúa vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong Ðền Thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên Thập giá. Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của nhẹ nhàng Cứu Thế, nhờ đức tin, đức tin và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sống siêu nhiên cho các linh hồn. By so trên bình diện ân ân, Người thật là Mẹ chúng ta” [2] . Và Công đồng lưu tâm xác định ý nghĩa vai trò trò làm Mẹ này của Đức Maria: “Vai trò làm Mẹ của Đức Maria tranh đấu với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất của Đức Giảm chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ sức mạnh của vai trò trung gian đó. Vì mọi ảnh hưởng có sức lực cứu rỗi của Đức Nữ Trinh trên nhân loại không phải là điều kiện tự nhiên, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa và bắt nguồn từ công nghiệp dư dòng của Chúa Kitô. Ảnh hưởng dựa trên sự tin tưởng và hoàn toàn phụ thuộc vào trung gian của Chúa Kitô, ảnh hưởng của Đức Maria rút sức mạnh từ nguồn mạch đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm cản trở điều gì, trái lại vẫn giúp các hiệp sĩ hiệp trực tiếp với Chúa Kitô” [3] .

Bên bờ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa và Mẹ các tín hữu, một phạm trù căn bản khác được công đồng sử dụng để minh họa vai trò của Đức Maria, đó là phạm trù mẫu mực hay hình bóng: “Đức Trinh Nữ, giúp ân Huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp hiệp nhất với Con là rùa cứu chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật thiết với Giáo hội, như thánh Ambrôsiô đã giảng dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo hội trên bình luận diện đức tin, đức ái, và Hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” [4] .

Nhờ những bản văn này soi sáng và qua những gì chúng ta đã nói cho đến lúc này, chúng ta có thể làm món bánh kẹp mối quan hệ kép của Đức Maria với Đức Chúa Giêsu và với Giáo hội. Với Đức Giêsu, Người là “ Mẹ và là môn đệ ”. Với Giáo hội, Người là “ Mẹ và là Thầy ”, nghĩa là mẫu mực, mẫu gương mặt lồi mẫu. Người thực hiện có thể nói như thánh mộc, và còn hơn móc nữa: “Anh em hãy theo kính tôi, cũng như tôi đối với Đức Đức” (1Cr 11,1). Người ta là mẫu mực của chúng ta vì Người là môn đệ và là người noi theo Đức Kiến cách hoàn hảo.

Điểm hết sức lực mới của giáo huấn về Đức Maria chính là vị trí mà nó được đưa vào: Hiến chế tín lý về Giáo hội. Làm được điều này, tuy không phải là không gặp những nỗi đau, xâu xé như vẫn luôn xảy ra trong những trường hợp như vậy, Công đồng kết quả đã thực hiện một canh tân sâu xa về Thánh Mẫu học so với các thế kỷ trước . Bài luận thần học về Đức Maria không còn là một đề tài riêng biệt, đặc biệt, có thể sử dụng một vị trí trung gian giữa Đức và Giáo hội, nhưng được đưa trở lại Giáo hội như vào các Giáo dục . Thánh Augustinô từng nói đến điều đó: Đức Maria là thể tuyệt vời của Giáo hội, nhưng là một trong những chi thể của Giáo hội chứ không phải là người ở bên ngoài hay bên ngoài Giáo hội: “Đức Maria thiện thiện, Đức Maria đầy Phúc, But Giáo hội quan trọng hơn Đức Maria. Vì sao? Vì Đức Maria là một phần của Giáo hội, một chi thể hữu ích, tuyệt vời, thuận lợi vượt qua mọi chi tiết khác, thế nhưng vẫn là một chi thể của toàn thân. Nếu là một chi thể của cơ thể thì thân thể hiển nhiên quan trọng hơn một chi thể” [5] .

Tuy nhiên, Giáo hội vẫn là trò chơi nổi tiếng Mẹ Đức Đức như mối quan hệ độc nhất vô nhị mà phần còn lại của Giáo hội không tham dự vào. Chương bàn về điểm truyện tranh này có tựa đề: “Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa trong huyền ảo Chúa Kitô và Giáo hội”. Việc xác định rõ ràng như thế có tầm quan trọng của nó: không có những điều huyền bí Giáo hội, mà cả trong huyền thoại Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể.

Ngay sau Công đồng, Đức cu VI đã khai triển chủ đề mẫu tính chất của Đức Maria, Mẹ các tín hữu. Ngài phân công cho Đức Maria tước hiệu Mẹ Giáo hội cách minh nhiên và long trọng: “Vì vinh danh Đức Maria và vì niềm an ủi của chúng ta, chúng tôi tôi tôn Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh là Mẹ Giáo hội, nghĩa là Mẹ Toàn Dân Chúa, các tín hữu cũng như các tử tử, những người gọi Ngài là Mẹ rất yêu quý. Và chúng tôi mong muốn từ nay, với tước hiệu rất dịu dàng này Đức Trinh Nữ sẽ càng được toàn dân Ăn giáo tôn kính và khấn cầu hơn nữa” [6] .

Trích  Bản tin Hiệp Thông  / HĐGMVN,  Số 143 (Tháng 9 & 10 năm 2024)

________

[1]  Thánh Augustinô, La thánh trinh nữ 5 - 6 (PL 40, 399).  

[2]  Ánh sáng gentium  61.

[3]  Như trên  60.

[4]  Như trên  63.

[5]  Thánh Augustin, Bài giảng 72A (= Denis 25), 7 ( Misc. Agost . 1, tr. 163).  

[6]  Thánh Phaolô VI. Discours de clôture de la troisième période du Concile   (AAS 56, 1964, trang 1016).