VHTK Mê Cung CN 21 TN C Lc 13, 22-30
Mê Cung rất dễ. Bạn hãy đi từ điểm khởi đầu đến điểm kết thúc. Rất dễ bạn ạ.

LỜI CHÚA LÀ ĐÈN SOI CHO CON BƯỚC, LÀ ÁNH SÁNG CHỈ ĐƯỜNG CHO CON. TV 119,105
“Hãy giáo huấn người khôn, họ sẽ khôn hơn nữa. Hãy dạy bảo người công chính, họ sẽ hiểu biết thêm”. Cn 9:9
Bạn sẽ luôn nhớ những gì bạn chỉ dạy
Ai đó đã nói rằng bạn sẽ chẳng học được gì khi bạn nói; bạn chỉ học được khi bạn lắng nghe. Điều này cũng không hoàn toàn đúng lắm. Khi tôi đang chỉ dạy ai đó thì những ý tưởng và những suy tư sâu xa nhất chợt ùa về.
Quả là một chuyện quan trọng khi bạn dẫn dắt hay cố vấn cho ai đó. Hãy huấn luyện họ, chỉ bảo họ những gì bạn biết – đặc biệt là những ai dưới thẩm quyền của bạn, bất cứ người nào thực thi hướng dẫn của bạn như nhân viên, trẻ nhỏ, vv…
Những tổ chức kinh doanh thành công trước giờ vẫn có những nhân viên được thông tri, được đào tạo bài bản, và tự tin khi thực thi những hướng dẫn. Phải mất thời gian, nỗ lực và kiên nhẫn thì mới có được điều này.
Mỗi bài hát đều cần có một ca sĩ. Mỗi người thành công đều có động lực. Mỗi học viên đều có một người thầy.
Chúa Giê-su quả là một nhà giáo bậc thầy. Ngài dạy hàng ngàn người cùng lúc. Đôi khi Ngài ngồi chung với mười hai môn đệ và thông tri cho họ. Ngài luôn giúp cho các môn đệ được khích lệ, được tác động và có cảm hứng.
Ngài dạy họ cầu nguyện (Mt 26:36-46). Ngài dạy họ về thiên đàng (Ga 14:2-4). Ngài dạy họ về hỏa ngục (Lc 16:20-31). Ngài dạy những ai theo Ngài về nhiều chủ đề khác nhau, cả mục đích của Ngài, việc cho đi và các mối tương quan.
Chúa Giê-su dạy trong hội đường (Lc 13:10). Ngài cũng giảng dạy trong các làng mạc (Mc 6:6).
Điều cốt yếu là, không ai trong chúng ta được sinh ra có sẵn kiến thức uyên bác. Bạn trở nên những gì bạn là. Bạn khám phá những điều bạn biết. Cần có thời gian, nỗ lực và học hỏi.
Nhân viên của bạn không biết mọi việc. Họ có thể không nhìn thấy điều bạn thấy. Họ có thể không cảm nhận như bạn cảm nhận. Họ có thể không khám phá ra điều bạn biết.
Bạn cần dành thời gian để nuôi dưỡng viễn tượng cho họ, truyền đạt kiến thức về sản phẩm cho họ, thông tri với họ về phần thưởng bạn muốn họ theo đuổi.
Bạn cần có những người tốt quanh mình. Bạn cần những con người đầy cảm hứng quanh mình. Bạn cần những người nắm bắt thông tin quanh mình. Có thể chính bạn là nguồn thông tin và động lực duy nhất của họ.
Chúa Giê-su dạy dỗ các môn đệ của Ngài. Ngài không ngừng động viên con người. Ngài lãnh đạo bằng cách chỉ cho họ thấy tương lai họ sẽ có được từ những cam kết hiện tại.
Hãy dành thời gian huấn luyện người khác.
Chúa Giê-su đã làm như vậy.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, tương tự việc Chúa Giê-su giáo huấn các môn đệ, con cũng chọn việc chỉ bảo các nhân viên của con. Tạ ơn Cha đã soi sáng cho con phương cách dạy dỗ và huấn luyện những người xung quanh con cách hiệu quả nhất. Con ý thức rằng không có người kế nhiệm thì thành công không thể đến. Con nguyện xin nhờ Đức Giê-su. Amen
Câu Hỏi
Bạn cám ơn những ai dạy dỗ, khích lệ bạn bằng những thành quả to lớn nào?
Bạn đang khích lệ, dạy dỗ ai để giúp họ thăng tiến trong với tất cả khả năng của họ?
Bạn đang làm gì để chuẩn bị ai đó kế nhiệm bạn?
Luca Trần Gia Huấn & các bạn chuyển ngữ từ Mike Murdock, The Leadership Secrets of Jesus (Manila: Lighthouse Inspirational Books & Gifts, 2001), tr. 89-92.
Sống chung hòa bình nơi giáo xứ:
từ trưởng thành nhân bản đến tầm nhìn xa
Sống chung trong một giáo xứ không chỉ là vấn đề hòa thuận bề mặt, tránh va chạm, tránh đụng chạm. Đó là một ơn gọi sống cùng nhau như thân thể của Chúa Kitô, mỗi người là một chi thể, khác biệt nhưng không đối lập; mỗi người có một vai trò, nhưng cùng hướng về một mục tiêu chung.
Trước hết, sống hòa bình nơi giáo xứ đòi hỏi trưởng thành nhân bản: biết lắng nghe ý kiến người khác, tôn trọng lĩnh vực và khả năng của nhau, có khả năng đối thoại, biết chịu trách nhiệm về lời nói và hành vi của mình. Không ai được miễn khỏi hành trình lớn lên này. Những va chạm thường xuyên trong đời sống mục vụ không hẳn đến từ sự dữ, mà từ những cái tôi chưa trưởng thành, từ sự hiểu sai về vai trò của mình và của người khác, từ nỗi sợ bị quên lãng, hoặc khát khao được công nhận cách sai lệch.
Tuy nhiên, chỉ nhân bản thôi thì chưa đủ. Vì nếu không có một tầm nhìn sâu xa hơn, người ta dễ rơi vào so đo, tị hiềm, và những tranh cãi vụn vặt. Tầm nhìn sâu ấy chính là ý thức rằng mình đang cùng nhau làm việc trên một cánh đồng – cánh đồng của Chúa. Và chính tình yêu dành cho cánh đồng ấy sẽ là nền tảng đích thực cho sự hiệp nhất.
Cánh đồng thì bao la. Không ai có thể gặt hết. Không ai là trung tâm của cánh đồng, và cũng không ai là vô dụng. Nếu tôi thực sự yêu mến cánh đồng – tức là yêu mến cộng đoàn, yêu mến ơn cứu độ của tha nhân, yêu mến sứ mạng loan báo Tin Mừng – thì tôi sẽ không còn nhìn người khác như đối thủ, mà như người bạn đường cần thiết. Tôi sẽ không bận tâm so sánh công việc của mình hơn hay kém, mà chỉ đau đáu một điều: liệu chúng ta có đang làm vì Chúa, cho Chúa, và trong Chúa không?
Từ đó, tôi học biết trân quý những “thợ gặt” khác – những người đang vất vả cùng tôi, dù cách làm khác, tính cách khác, nhịp sống khác. Nếu tôi thực sự yêu cánh đồng, tôi sẽ cần người khác, và biết ơn người khác. Và lúc ấy, sự hòa bình không còn là chiến thuật né tránh đụng độ, mà là hoa trái của một tầm nhìn chung, của một lòng yêu thương chung dành cho Chúa và cho dân Người.
Sống chung hòa bình nơi giáo xứ không phải là tránh sóng gió, mà là lướt sóng cùng nhau vì một niềm tin lớn hơn chính mình. Và khi chúng ta quy tụ không phải quanh quyền lợi, quan điểm, hay vai trò, mà quanh cánh đồng của Thiên Chúa, thì sự khác biệt sẽ không còn là gánh nặng, mà là nét đẹp phong phú của thân thể Đức Kitô.
Giáo xứ còn là một trận địa kéo co giữa ánh sáng và bóng tối. Giáo xứ không chỉ là mái nhà thiêng liêng của người tín hữu, mà còn là một tiền đồn truyền giáo, nơi từng người, từng hội đoàn, từng lời kinh – là một mắt xích trong sợi dây kéo co vĩ đại với bóng tối. Không đơn thuần là sinh hoạt nội bộ, mỗi hành vi yêu thương, mỗi giờ phục vụ, mỗi lần tha thứ, là một cú kéo mạnh mẽ dành lại linh hồn con người khỏi tay ma quỷ.
Nhưng điều tinh ranh nhất của quỷ không nằm ở chỗ chúng ra sức kéo co. Nó không chỉ kéo phía bên kia, mà còn gài người, gài mưu sang phía chúng ta – bằng cách xé rách hàng ngũ từ bên trong.
Chúng không cần làm gì nhiều. Chúng chỉ cần thổi vào lòng người vài tia ganh tỵ, một chút ích kỷ, vài nhúm tự ái, vài vết thương chưa lành. Và thế là thay vì cùng nhau kéo về phía Chúa, chúng ta quay sang kéo nhau, nghi ngờ nhau, đổ lỗi, so đo và đấu đá. Quỷ không tốn sức mà vẫn giành được trận địa – chỉ cần ngồi cười trong bóng tối và nhìn chúng ta tự phá mình từ bên trong.
Thánh Phaolô từng nhắc: “Anh em đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, kẻo ma quỷ lợi dụng” (Ep 4,26-27). Quỷ không sợ những người yếu, nhưng rất thích những người giận dai, tự ái và cứng đầu. Những người ấy vô tình trở thành đồng minh của nó – dù vẫn mang tên Kitô hữu, dù vẫn đi lễ và đọc kinh đều đặn.
Giáo xứ chỉ có thể là cộng đoàn truyền giáo đích thực khi chúng ta ý thức rằng: chúng ta đang trong chiến tuyến, không phải chống lại nhau, mà cùng chiến đấu để lôi kéo anh chị em mình về phía Ánh Sáng. Và nếu ai đó làm tôi tổn thương, tôi tha thứ không phải vì họ xứng đáng, mà vì tôi không muốn rơi vào bẫy của kẻ dữ.
Vì thế, hòa bình trong giáo xứ không chỉ là yêu thương cho “êm chuyện”, mà là một lựa chọn chiến lược của người lính trong đạo binh của Chúa, biết giữ đội hình, giữ niềm vui, giữ sự hiệp nhất – để sợi dây kéo co không bị đứt gãy, và để bao linh hồn còn lạc xa có thể được kéo về ánh sáng của Đấng Phục Sinh.
“Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), và “tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người” (1 Cr 9,22). Thánh Phaolô đã sống tinh thần của Đức Kitô: không giữ cho mình đặc quyền nào, mà hiến cả cuộc đời để chạm vào nỗi vui buồn của tha nhân, để Tin Mừng không phải là lý thuyết cao xa, nhưng là tình yêu có hình dáng và hành động.
Và chính Đức Giêsu – đêm hôm ấy, khi Ngài biết mình sắp rời thế gian – đã không giảng thêm bài nào dài, mà quỳ xuống, rửa chân cho môn đệ, rồi bảo: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Nếu mỗi người trong giáo xứ mang lấy trái tim của Thầy Giêsu – cúi xuống để yêu, để hiểu, để đỡ nâng, để rửa chân nhau – thì ma quỷ sẽ chẳng thể xen vào. Vì ở đâu có tình yêu chân thật, ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Và như thế, giáo xứ trở thành nơi quy tụ những người biết sống cho nhau vì một Đấng lớn hơn tất cả – Đức Kitô và các linh hồn mà Người yêu thương.
Lm. Giuse Vũ Uyên Thi, S.J.
https://dongten.net/song-chung-hoa-binh-noi-giao-xu-tu-truong-thanh-nhan-ban-den-tam-nhin-xa/
PHÚC ÂM: Lc 13,22-30
22Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23Có kẻ hỏi Người : “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : 24“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.25“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói : ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào !’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ 27Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính ! 28“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.30“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
CÂU HỎI
CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn nghĩ gì về nỗ lực phấn đấu của bạn để qua cửa hẹp mà vào Nước Chúa? Bạn là người Công giáo, được gần gũi với Chúa Giêsu, bạn có sợ mình bị từ chối vào ngày phán xét không?
TRẢ LỜI
1. Đang khi Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem, có chuyện gì xảy ra? Bạn nghĩ gì về câu hỏi của một người ở Lc 13,23? Bạn có câu hỏi tương tự không?
1. Khi lên Giêrusalem để hoàn thành kế hoạch cứu độ nhân loại qua cái chết của mình (Lc 9,51), Đức Giêsu thường gặp những chuyện bất ngờ xảy ra dọc đường (thí dụ Lc 9,52-62; 10,25; 11,1; 11,27; 13,1). Trong bài Tin Mừng hôm nay, bất ngờ có kẻ hỏi Ngài: Số người được cứu độ thì ít phải không? (Lc 13,23). Nếu chỉ ít người được cứu độ, anh ta có thể nản lòng, vì thấy mình không chắc nằm trong danh sách những người được cứu. Hôm nay, một số người trong chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi tương tự, vì lo âu cho ơn cứu độ của mình.
2. Đọc Lc 13,24. Để được cứu độ có dễ không?
2. Đức Giêsu ví việc vào Nước Thiên Chúa với việc phải đi qua một cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa không dễ đi qua. Để đi qua cửa hẹp, cần nỗ lực phấn đấu (Lc 13,24). Đức Giêsu còn cho chúng ta biết lý do tại sao Ngài mời ta phấn đấu như thế: “vì nhiều người tìm cách vào mà không thể vào được.” Dù đã tìm cách vào và muốn vào, nhưng họ không thể vào được vì họ chưa phấn đấu đủ. Phấn đấu là cố gắng làm cho mình nhẹ đi những của cải trần thế để dễ vào hơn: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Lc 18,24). Phấn đấu là cố gắng làm mình nhỏ lại, cậy dựa và phó thác như trẻ thơ: “Nếu anh em không trở lại và trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
3. Muốn được cứu độ, ta cần có thái độ nào?
3. Vào Nước Thiên Chúa là chen qua một cửa hẹp. Phải dùng sức mạnh và ý chí kiên cường để làm mình nhỏ lại, để dễ lách qua cửa hẹp ấy. Ơn cứu độ là một ơn nhưng không Chúa ban, nhưng Chúa đòi con người nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Có thể nói con người cần chiến đấu quyết liệt (agônizomai) để qua cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa. Ơn cứu độ không phải là chuyện tình cờ trên trời rơi xuống, nhưng là một ân ban đòi con người đón nhận với tất cả cố gắng của bản thân.
4. Đọc dụ ngôn ở Lc 13,25-27. Dụ ngôn này giống Lc 13,24 ở điểm nào?
4. Ở Lc 13,24 Đức Giêsu dùng hình ảnh “cửa hẹp” để nói về việc khó vào Nước Thiên Chúa, bởi đó người ta cần phấn đấu mới được ơn cứu độ. Còn Lc 13,25-27 lại là một dụ ngôn về “cửa đóng” để nói về việc một số người không thể vào Nước Thiên Chúa, không thể được ơn cứu độ. Cả hai đoạn văn trên đều dùng hình ảnh “cửa” khi nói về Nước Thiên Chúa. Để vào Nước này, cần phải qua cửa. Có “nhiều người” không thể qua cửa hẹp vì thiếu phấn đấu (Lc 13,24), cũng có những người không thể vào Nước vì cửa đã đóng rồi (Lc 13,25).
5. Đọc 13,25-26. Tại sao những người đứng ngoài không được chủ nhà cho vào, dù họ rất muốn? Đâu là những lý do họ đưa ra để cho ông chủ thấy họ là người quen với ông chủ?
5. Khi chủ nhà đã đứng lên và đóng cửa lại rồi thì dù những người đứng ngoài có gõ cửa và xin ông mở, ông cũng từ chối. Lý do ông đưa ra là ông không biết gốc gác của họ (Lc 13,25), dù họ đã gọi ông một cách kính trọng: “Thưa Ngài” (kyrie) và xin vào nhà. Để đáp lại việc ông chủ nhà không chịu mở cửa cho họ vào, viện cớ là không quen biết họ, những người đứng ngoài mới chứng minh cho ông chủ thấy họ là người quen thân với ông chủ: “Chúng tôi đã ăn, đã uống trước mặt ngài”, nghĩa là đã từng đồng bàn với Ngài. Và ông chủ cũng chẳng hề xa lạ với họ: “Ngài đã giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26). Tuy vậy, ông chủ vẫn nhắc lại điều ông đã nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến” (Lc 13,27).
6. Tại sao ông chủ lại nói hai lần: Ta không biết các anh từ đâu đến? (các câu 25 và 27), dù họ là người quen với ông chủ? Muốn được cứu độ, ta cần gì? Đọc Lc 13,27.
6. Dù họ đã gần gũi thân quen với ông chủ trên bàn ăn hay trên đường phố, họ vẫn là người xa lạ với ông chủ, vì đối với ông, họ là “những kẻ làm điều bất chính” (Lc 13,27). Dù thân quen đến mấy, nhưng nếu họ là kẻ làm điều bất chính thì ông vẫn nói với họ: “Tôi không biết các anh từ đâu đến!” (Lc 13,25.27). Ông chủ không thể mở cửa để mời họ vào nhà. Ông từ chối họ bằng một câu nặng nề: “Cút đi cho khuất mắt Ta!” (Lc 13,27). Như thế để được vào nhà, để được ơn cứu độ, chuyện đã từng dùng bữa với Đức Giêsu hay đã từng được nghe Ngài dạy dỗ (Lc 13,26), vẫn chưa đủ. Điều quan trọng hơn là chính lối sống của chúng ta. Nước Thiên Chúa không có chỗ cho những kẻ làm điều bất chính. Nói cách khác, cửa Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho những ai sống công chính, nghĩa là sống theo ý muốn của Thiên Chúa.
7. Lc 13,28-29 mô tả biến cố gì, xảy ra khi nào? Ai là những người không được vào dự tiệc? Ai là những người được vào dự tiệc? Đọc Is 25,6.
7. Luca 13,28-29 là một minh họa cho biến cố sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Nước Thiên Chúa được Đức Giêsu ví như một đại tiệc do Thiên Chúa khoản đãi. Những người được vào tham dự là các vị tổ phụ Abraham, I-xa-ác, Gia-cóp và tất cả các ngôn sứ. Ngoài ra những người từ bốn phương thiên hạ, trong đó có những người Do-thái đạo đức (Cv 2,5-11), và cả dân ngoại nữa, cũng được mời vào dự đại tiệc này (x. Is 25,6). Tiếc thay, một số người lại “phải khóc lóc và nghiến răng” và “bị tống ra ngoài” (Lc 13,28). Họ là những người đã được sống gần bên Đức Giêsu, sống cùng thời với Ngài, được nghe Ngài giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm, nhưng chưa sống theo lời Ngài dạy, sống bất chính, nên không được vào dự tiệc.
8. Bạn thấy câu Lc 13,30 có thể áp dụng cho những nhân vật nào trong bài Tin Mừng này?
8. Luca 13,30 cho thấy có một sự đảo ngược vị trí giữa người đứng chót và đứng đầu. Những người đã có cơ hội gần gũi với Đức Giêsu, có thể là những môn đệ hay những người đã tin Đức Giêsu, rốt cuộc lại là những người bị đứng cuối hay bị loại. Còn dân ngoại tưởng là những người đứng cuối hay bị loại, lại được đứng hàng đầu và được nhận vào dự tiệc Nước Thiên Chúa.