Trang

Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023

Ý nghĩa và những thắc mắc về Halloween, Ngày Lễ Các Thánh và Lễ Các Đẳng Linh Hồn

Ý nghĩa và những thắc mắc về Halloween, Ngày Lễ Các Thánh và Lễ Các Đẳng Linh Hồn

 

Vào những ngày này trong năm, ở một số nước trên thế giới, người ta thường dùng hình ảnh những hồn ma kinh dị, hay những yêu tinh ghê rợn để ám chỉ những người đã chết. Ngược lại, trong dịp này, Giáo Hội Công Giáo cử hành Lễ Các Thánh Nam Nữ và Các Đẳng Linh Hồn, như thời khắc để hồi tưởng về những người đã ra khỏi đời này mà bước vào đời sống vĩnh cửu trong Chúa Kitô.

Một vài câu hỏi được đặt ra ở đây là: Đâu là tầm quan trọng và của hai ngày Lễ này? Chúng ta có thể lãnh nhận Ơn Đại Xá cho chính mình hay cho những người thân yêu đã qua đời? 

Việc mừng lễ hội Halloween có nguy cơ làm lu mờ tầm quan trọng của hai ngày Lễ này trong Giáo Hội Công Giáo như thế nào?

Đức Hồng Y Mauro Piacenza, Chánh án Tòa Ân giải Tối cao Tòa Thánh, chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc Ân xá, sẽ giúp trả lời những câu hỏi trên.

 

 

Trong Phần I, Đức Hồng Y sẽ nói về Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn sắp tới, cùng những điều kiện để lãnh nhận các ân xá cho người Công giáo và những người thân yêu của họ đã qua đời.

* * *

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, trong Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn sắp được cử hành, các tín hữu Công giáo sống những ngày này trong tâm tình hồi tưởng và cầu nguyện sốt sắng. Việc lãnh nhận ân xá dành cho các linh hồn đã qua đời có còn được thực hành trong Giáo Hội không?

Đức Hồng Y Piacenza: Vâng, chắc chắn rồi! Vào ngày 2 tháng 11, khi thăm viếng đất thánh và chu toàn các điều kiện: xưng tội, rước lễ, đọc Kinh Tin Kính và cầu nguyện theo ý của Đức Thánh Cha, thì có thể nhận được một ơn Đại xá dành cho tín hữu đã qua đời. 

 

 

Hỏi: Điều này chỉ được áp dụng trong ngày 2 tháng 11 mà thôi hay sao?

Đức Hồng Y Piacenza: Không! Ngoài việc đi viếng đất thánh vào ngày này để lãnh nhận ơn đại xá, các tín hữu còn có thể lãnh nhận ơn này vào các ngày khác trong năm bằng các thực hành những công việc đạo đức khác được ghi trong Sổ Bộ Ân Xá (Tài liệu bao gồm những cách thức có thể xóa bỏ các hình phạt do tội). Người tín hữu có thể dành ơn đại xá này cho bản thân hay cho người đã quá cố. Lưu ý, ơn đại xá này chỉ được lãnh nhận một lần trong ngày. Vì thế, chỉ có thể dành cho bản thân, hoặc dành cho người quá cố mà thôi.

 

 

Hỏi: Đôi khi trong một số hình các thánh, có ghi dòng chữ “100 ngày ân xá, 300 ân xá”. Những từ này phải được giải thích như thế nào, thưa Đức Hồng Y?

Đức Hồng Y Piacenza: Chúng ta có thể bắt gặp những kiểu diễn đạt này trước cuộc cải tổ của Công đồng Vaticano II. Những suy tư thần học đúng đắn giúp chúng ta hiểu rằng đời sống vĩnh cửu siêu vượt trên thời gian chứ không phải là khoảng “thời-gian-nối-dài, vì thế sẽ là không chính xác khi nói về hình phạt tạm và sự ân xá tương đối. Do đó, ngày nay chúng ta chỉ nói về hai loại ân xá: (1) Đại xá – khi tất cả các hình phạt do tội được xóa bỏ; (2) Tiểu xá – khi chỉ một phần các hình phạt được tha.

 

 

Hỏi: Như vậy phải chăng sự tha thứ trong bí tích Hòa Giải là chưa đủ? Và việc đến với Tòa Giải Tội vẫn chưa trọn vẹn sao?

Đức Hồng Y Piacenza: Có một điều chắc chắn rằng sự Hòa Giải diệu vời nhất là biến cố cái Chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Chúng ta! Trong Người, tất cả những lời hứa của Thiên Chúa Cha đã được thành toàn (2Cr 1,20). Chúa Giêsu là nguồn mạch và cùng đích của lòng thương xót. Sâu xa hơn, Ngài chính là lòng Thương Xót. Đức Thánh Cha Phanxicô không ngừng nhắc nhớ Giáo hội về sự thiết yếu của thực tại thương xót đối với việc tuyên xưng đức tin và thái độ của người môn đệ theo Chúa Giêsu. Nếu suy xét kĩ càng hơn chúng ta sẽ thấy lời nhắn nhủ “Đừng sợ” của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có chung cùng một ý nghĩa với lòng thương xót. Làm sao một người có thể can đảm nếu không cảm nhận được lòng thương xót? Và làm sao lòng thương xót có thể trở nên một kinh nghiệm sống thực tế chứ không chỉ là lời nói suông nếu không được thực hành một cách cụ thể  trong đời sống cá nhân, trong khả năng vượt thắng tất cả các nỗi sợ nhờ sự bảo đảm chắn của chân lý, sự an bình của điều thiện, và cuối cùng là trong niềm tin vào sự chiến thắng của Đức Kitô trên những sự xấu xa trong dòng lịch sử nhân loại?

 

Cũng giống như mọi hành vi khác của con người, tội lỗi để lại hậu quả của nó. Bí tích Hòa Giải tha tội, nhưng không xóa bỏ hết những hậu quả của tội. Ngang qua các ân xá, Mẹ Giáo Hội quảng đại kín múc từ kho tàng của lòng thương xót Chúa, và ban cho các tín hữu ơn được tha thứ không chỉ khỏi các tội của họ, nhưng còn cả những hình phạt do tội gây ra nữa. Ví dụ, nếu hai người đàn ông đánh nhau, sau đó cả hai làm hòa với nhau, nhưng không gì có thể xóa bỏ được nỗi đau và dấu vết của một cái tát vào má. Sự ân xá là để xóa bỏ dấu vết đó. Do đó, nhờ kho tàng lòng thương xót Chúa mà Giáo Hội nắm giữ những của cải chân thật và quý giá nhất. Đây là ngân hàng bảo đảm chắc chắn nhất đang hoạt động, và các cổ đông của nó thực sự may mắn!

* * *

 

Trong Phần II, Đức Hồng Y Mauro Piacenza nói về các Ân xá, Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn, cùng những ảnh hưởng tiêu cực của lễ hội Halloween.

 

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, ngài đã nói rằng các ân xá có thể được dành cho chính mình, hoặc cho một tín hữu đã qua đời. Tại sao không phải là cho một tín hữu còn sống khác, chẳng hạn chồng, vợ hoặc con cái của mình?

Đức Hồng Y Piacenza: Điều này không thể thực hiện được vì mầu nhiệm cao cả của sự tự do, mầu nhiệm làm cho chúng ta giống hình ảnh Thiên Chúa và chính Thiên Chúa vô cùng tôn trọng sự tự do của con người.

Mỗi người, khi còn sống, tức là khi đang ở đời này có thể thay đổi những lựa chọn hiện sinh của mình, có thể quyết định tự mình hoán cải, và theo nghĩa này, mỗi người đều có sự tự do và không ai có thể hoán cải thay mình. Vì vậy, mỗi người có thể nhận được các ân xá và dành riêng cho chính mình.

 

Chắc chắn ai đó có thể cầu nguyện cho sự hoán cải của những anh chị em khác, cho sự hoán cải của các tội nhân. Tuy nhiên, về bản chất, ân xá đã là một thực hành đạo đức, cần thiết cho sự hoán cải sâu xa. Dĩ nhiên, điều kiện tiên quyết vẫn là việc lãnh nhận Bí tích Hòa giải. Đối với các linh hồn đã qua đời, họ không còn thời gian và sự tự do để lập công trạng nữa. Do đó, việc hết sức quan trọng với những người đang sống là quy hướng sự tự do về điều thiện và không ngoan cố ở lại trong tình trạng tội lỗi. Các linh hồn đã qua đời không còn khả năng lập công trạng trước mặt Chúa, nhưng nhờ sự Thông Công Các Thánh – sự hiệp nhất sâu xa của các tín hữu trong Chúa Kitô, chúng ta là những người đang sống ở đời nay có thể thực hiện những việc lành phúc đức để sinh ích cho các linh hồn, đồng thời cũng để sinh ích cho chính mình.

 

 

Hỏi: Có phải đây là lý do mà Lễ Các Thánh và Lễ Các Linh Hồn thường diễn ra gần nhau? Vào ngày đầu tiên và ngày thứ hai của tháng 11 hay không?

Đức Hồng Y Piacenza: Kể từ khi thành lập, Giáo hội chắc chắn đã cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời trong các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Dù họ là các vị tử đạo hay các tín hữu bình dân qua đời một cách tự nhiên. Cộng đoàn nhận ra rằng việc cầu nguyện cho những người quá cố là một việc làm cần thiết trong đời sống, bằng lời cầu nguyện và trên hết là qua việc cử hành Thánh Lễ. Việc thực hành này biểu lộ sự hiệp nhất sâu xa với và trong Chúa Kitô, được tạo nên nhờ Bí tích Rửa tội, qua việc chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa, cùng chung sống trong cộng đoàn Kitô hữu, không thể bị chia cắt, ngay cả do cái chết. Sâu xa hơn, nếu Chúa Kitô đã chiến thắng cái chết, thì những người được tái sinh trong Chúa Kitô không còn có thể bị chia cắt bởi bất cứ điều gì, kể cả cái chết! Thật vậy, việc mừng kính trọng thể các Thánh Nam Nữ làm sáng tỏ sự thật về mầu nhiệm Các Thánh Thông Công, về sự hiệp nhất của những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta nhiều lần: “thời gian thì vĩnh cửu hơn không gian”.  Vì vậy, sự hiệp nhất trong thời gian của tất cả các tín hữu, của những Kitô hữu đầu tiên, cho đến những người sẽ lãnh nhận Bí tích Rửa tội vào sáng mai hay trong ngày tận thế, là một sự hiệp thông không gì có thể chia cắt. Điều này biểu lộ hành trình đi lên của Giáo Hội, một sự thông dự đích thực không chỉ ở đời này mà còn trong Nước Trời vĩnh cửu.

 

Chúng ta thuộc về một Thân Thể Giáo Hội duy nhất, tiếp nối không ngừng nghỉ, từ Chúa Giêsu Kitô, ngang qua Đức Trinh Nữ Maria và các thánh Tông Đồ, rồi đến chúng ta. Chính vì lý do này mà Giáo Hội trên thiên quốc có lẽ sẽ đông đảo hơn, thú vị hơn, đạo đức hơn và “có uy thế” hơn so với Giáo hội trần thế.

 

 

Hỏi: Trong những thập kỷ gần đây ở Châu Âu, vào đêm trước Lễ Các Thánh Nam Nữ, lễ hội Halloween đã trở thành một ngày lễ “thời thượng”. Hiện tượng này là do đâu? Đức Hồng Y nghĩ sao về việc này?

Đức Hồng Y Piacenza: Bạn nói đúng, lễ hội Halloween ngày càng được phổ biến, điều này chắc chắn sẽ có những nguy cơ tiềm ẩn không chỉ với những người theo chủ nghĩa tiêu thụ. Tôi nghĩ rằng đại đa số các bạn trẻ tổ chức các buổi dạ tiệc hóa trang trong dịp này đã vô tình trở thành những nạn nhân của việc chạy theo thời trang, hoặc của những chủ cửa hàng đang cố bán sản phẩm thương mại của mình bằng mọi giá, kể cả việc sử dụng những chiêu bài tâm linh.

 

Hiện tượng này quá phi lý đến nỗi trở thành một vấn nạn tiêu biểu trong xã hội hôm nay: một người không có chân lý thực sự để tin thì cuối cùng sẽ tin bất cứ thứ gì, kể cả những quả bí ngô!

 

Hơn nữa, tôi để ý rằng những hoạt động trong lễ hội này mang sắc thái tâm linh, thậm chí là ma quỷ. Do đó, nếu không được sửa dạy cách đúng đắn, giới trẻ có thể vô tình trở thành kẻ châm ngòi cho những “làn khói của Satan” vốn đã làm tổn hại thế giới quá nhiều. Tất cả chúng ta phải hết sức cẩn thận để không hít phải thứ khói độc này; phải tỉnh táo vì có thể ai đó đã hít phải chúng mà không hay biết. Chúng ta phải nhớ rằng quả bí ngô, dù có được chúc lành, thì mãi vẫn là quả bí ngô. Còn những người tham dự Halloween thậm chí còn không được chúc lành!

 

Trần Xuân Mỹ, SJ chuyển dịch

https://dongten.net/y-nghia-va-nhung-thac-mac-ve-halloween-ngay-le-cac-thanh-va-le-cac-dang-linh-hon/ 

Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023

Câu 96-101 Một Trăm Lẻ Một Câu Hỏi Về Chúa Giêsu

 Một Trăm Lẻ Một Câu Hỏi Về Chúa Giêsu, Các Câu 96-101

 Vũ Văn An 29/10/2023



Câu hỏi 96: Tại sao hiện có quá nhiều chia rẽ bên trong Kitô giáo?

Cũng như với các quan điểm khác nhau về Chúa Giêsu, chắc chắn có chỗ bên trong Kitô giáo cho tính đa nguyên hợp pháp (xem câu hỏi 7). Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa tính đa nguyên lành mạnh và các khác biệt không thể nào hòa giải. Ngay từ lúc bắt đầu của thời đại Kinh Thánh, đã có các cộng đồng khác nhau với các viễn ảnh văn hóa, ngôn ngữ, và thần học đa dạng. Cùng một lúc, người ta thấy Giáo Hội tiên khởi chật vật với vấn đề tự định nghĩa về chính mình nghĩa là điều gì hôp nhất chúng ta như một cộng đồng đức tin và điều gì phân cách hay cắt rời một ai đó khỏi cộng đồng này. Thánh Phaolô nói một cách nhấn mạnh: “Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi!” (Gl 1:9). Tác giả thư 1 Gioan, khi cố gắng cứu Tin Mừng Gioan cho Giáo Hội chính thống, đã kêu gọi cộng đồng “cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không... Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi” (1Ga 4:1-3). Mátthêu khẳng định quyền lực của cộng đồng đức tin được buộc hay tha trong các vấn đề cả tín lý lẫn kỷ luật.

Việc giải thích của cộng đồng về đức tin là một diễn trình liên tục như toàn bộ lịch sử của Giáo Hội đã chứng thực. Bi thảm thay, thường vì các lý do chính trị và kinh tế nhiều hơn là vì các lý do thần học đúng nghĩa, các chia rẽ làm tan nát cõi lòng vẫn đã xẩy ra. Các chia rẽ chính là giữa người Chính Thống Giáo Đông Phương và người Công Giáo Rôma năm 1054 và giữa người Công Giáo Rôma và người Thệ Phản năm 1517. Công đồng Vatican II (1962-1965) cuối cùng đã nhìn nhận rằng tất cả chúng ta đều có tội và xa lìa vinh quang Thiên Chúa, chúng ta phải tìm lại sự hợp nhất mọi Kitô hữu, điều mà Chúa Giêsu vốn đã cầu xin cho có (Ga 17:20-21). Nhiệm vụ của phong trào đại kết không phải là giả vờ coi như lịch sử này chưa bao giờ diễn ra và đơn sơ hy vọng rằng chúng ta có thể trở về với một hoàng kim thời đại trước đây. Mọi Kitô hữu phải thừa nhận và tôn trọng lịch sử và truyền thống đặc thù của mỗi tín phái. Cùng một lúc, chúng ta phải thắng vượt tính hay chia rẽ của quá khứ (thường dựa vào các thiên kiến cho thấy chúng ta dễ xúc cảm và nói năng hoa mỹ hơn trong sự kiện) và tìm kiếm sự hợp nhất cao hơn trong Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta vốn có do phép rửa của chúng ta (Gl 3:28).

Câu hỏi 97: Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại, khoa học. Chúa Giêsu có điều gì để nói với thời đại khao học không?

Khoa học tìm cách giải thích vũ trụ vật lý của chúng ta qua các mô hình giả thiết và, nếu có tính thực tế, áp dụng kiến thức đó một cách có thể khai thác năng lực và sức mạnh của vật chất phục vụ thiện ích của con người. Các thiện ích của khoa học thì mênh mông và tôn giáo chỉ có thể ca ngợi thiên tài sáng tạo của các khoa học gia như là ơn phúc từ Thiên Chúa. Bất chấp các tranh chấp quá khứ, thường dựa trên ngu dốt và sợ hãi, không nên có bất cứ thù nghịch nào giữa khoa học và tôn giáo. Chúng đơn giản chỉ chuyển dịch trên các bình diện khác nhau mà thôi, nhưng cả hai đều nhằm làm cho thế giới nên nhân bản hơn.

Một quan tâm chung của cả khoa học lẫn tôn giáo ngày nay là sinh thái. Tưởng tượng trái đất như mẹ và bầu trời như cha là một ẩn dụ tôn giáo có thể lội cuốn hay không đối với tâm trí con người hiện đạiNhưng, không giống như quan điểm máy móc về vũ trụ do Newton đề xướng, Các khoa học gia ngày nay ngày càng thừa nhận hơn rằng vũ trụ là một cơ thể sinh động và sôi nổi trong đó mọi thành phần đều nối kết với nhau và do đó gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi mọi thành phần khác. Phong trào duy nữ và sinh thái, cả hai phát xuất từ các quan tâm tôn giáo, nhấn mạnh tới tính nối kết, các mối tương quan, việc chăm sóc và quan tâm nuôi dưỡng người khác, cảm thức trách nhiệm xã hội, những điều ngày càng lên đặc điểm cho thời đại ta.

Chúa Giêsu là một con người của thời đại Người và do đó bị giới hạn bởi kiến thức khoa học của thời đại của Người. Nhưng Người quả mang vào ý thức nhân bản một cảm thức về mầu nhiệm thần linh tại tâm điểm vạn vật, một mầu nhiệm thần linh vốn có tính tương quan và yêu thương, khẳng định và lên sinh lực mà không hề có tính cạnh tranh hay cưỡng chế. Điều Chúa Giêsu muốn nói với các khoa học gia chỉ là thế này: đừng trở thành tác nhân của tha hóa, thống trị, cưỡng chế và cạnh tranh. Một phương thức như thế có thể đem lại cho các anh các chiến thắng ngắn hạn trong nghệ thuật thao túng nhưng nó sẽ không bao giờ dẫn các anh vào việc hiểu biết và đánh giá cao mầu nhiệm là vũ trụ vật lý của chúng ta.

Câu hỏi 98: Mỗi Chúa nhật, chúng ta đều đọc: “Chúng tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Điều này có nghĩa gì?

Câu này lấy từ “Kinh Tin kính Nixêa”, vốn thực sự được lên công thức tại Công đồng Constantinốp lần thứ nhất năm 381. Công đồng sử dụng ngôn ngữ khải huyền của Kinh Thánh. Việc phục sinh của Chúa Giêsu là một biến cố khải huyền (xem câu hỏi 71). Trong tư cách ấy, nó biểu thị tận cùng của lịch sử và phán xét cuối cùng; thế nhưng lịch sử vẫn tiếp tục. Người Biệt phái, và nhiều người khác, có chung một loại trông đợi nào đó về sự phục sinh phổ quát vào ngày tận cùng thời gian. Điều độc đáo đối với đức tin Kitô giáo là chủ trương cho rằng con người Giêsu này đã trỗi dậy một cách dự ứng trước ngày tận cùng. Nơi Chúa Giêsu, dự định thần linh đã được mạc khải, thế nhưng niềm hy vọng của chúng ta là cả chúng ta nữa cũng sẽ được trỗi dậy trong Người (Rm 6:5-11). Như thế, “kẻ chết sống lại” như biến đổi sau cùng của mọi sự trong Chúa Kitô vẫn còn cần phải diễn ra. Bao hàm toàn bộ lịch sử, nó sẽ thực sự là tận cùng của lịch sử như chúng ta biết nó.

Nên lưu ý rằng việc biến đổi này trải dài toàn bộ sáng thế. Như J. Moltmann từng chỉ rõ, không những lịch sử nhân bản mà cả biến hóa cũng có các nạn nhân của nó. Điều này có nghĩa: việc Chúa Giêsu đến vào ngày tận thế sẽ biểu thị ơn cứu chuộc không những cho con người mà còn cho cả biến hóa nữa. Đó là lý do tại sao, ẩn dụ phục sinh hết sức quan trọng. Hình ảnh này vươn xa để bao gồm toàn bộ vũ trụ vật lý trong mọi biểu hiện của nó từ viên đá đơn giản nhất tới những thuần thần tinh tế nhất. “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rm 8:22-23). Hình ảnh sinh nở thích đáng xiết bao. “Sự sống đời sau” sẽ bao gồm mọi con cái từ mẹ đất sinh ra: “Hoa trái đầu mùa” là Chúa Giêsu Kitô, rồi đếnnnhững kẻ thuộc về Người (1Cr 15:23), những kẻ có “hoa trái đầu mùa của Thần Khí”, rồi đến toàn bộ sáng thế để cuối cùng “Thiên Chúa là tất cả trong tất cả” (1Cr 15:28). Chúng ta phải tưởng tượng đời sau này ra sao? Chắc chắn không như một nơi hoàn toàn khác, thuộc thế giới khác, xa lạ, không một chút nối kết nào với trái đất này! Đúng hơn, nó sẽ là thế giới này, cũng một thế giới này, nhưng đã được biến đổi bởi quyền năng đầy sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa thành hợp nhất với sự sống thân linh, một toàn bộ toàn vẹn, thành sự sống đời đời nơi sự chết không còn bất cứ quyền lực nào nữa. Đó chính là điều phục sinh muốn nói (xem câu hỏi 68).

Câu hỏi 99: Còn về hoả ngục? Há Chúa Giêsu chẳng nói rằng những kẻ làm điều dữ sẽ bị ném vào lửa nơi khóc lóc và nghiến răng sao?

Đã có một ám chỉ như thế trong giải thích của Mátthêu về dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13:36-43). Lửa là một hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh về phán xét (thí dự Mc 9:42-48; Mt 3:10-12; 7:19). Hình ảnh này phát xuất từ lửa phán xét bừng cháy trong thung lũng Hinnom (Grm 7:32; 19:6; Is 66:24) được gọi là “Gehenna” trong Tân Ước. Cựu ước cũng nhắc đến “sheol”, thế giới tối tăm của người chết. Điều mà các tiên tri, thánh Gioan Tẩy giả, và Chúa Giêsu muốn truyền tải bằng hình ảnh này là: tầm quan trọng tối cao của quyết định nhân bản cả cho đời này lẫn cho đời sau. Nó không phải là vấn đề Thiên Chúa trả thù hay trừng phạt võ đoán. Đúng hơn, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta có ý chí tự do và tôn trọng các hậu quả của các chọn lựa của chúng ta, dù cho các lựa chọn này bao gồm việc chúng ta quay lưng khỏi vị Thiên Chúa vốn là nguồn sống duy nhất này.

Giáo Hội vốn định tín rằng có hỏa ngục, nhưng quả là vô ích khi suy đoán nó ra sao hay nó ở đâu và liệu có ai ở trong nó hay không. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện các phán đoán này. Tuy nhiên, để tưởng tượng hỏa ngục, ta chỉ cần nhìn các thứ hỏa ngục do con người tạo ra qua chiến tranh, hận thù sắc tộc, tra tấn, tàn sát, bỏ đói hàng loạt v.v... trong thế giới ngày nay. Điều quan trọng trong tín lý của Giáo Hội về hỏa ngục không phải là khả năng của chúng ta tưởng tượng ra các hành khổ cực kỳ về thể lý kéo dài mãi mãi, nhưng là cảm thức được sự mất mát khôn tả sẽ xẩy ra nếu chúng ta tự làm cho mình, qua các lựa chọn của mình, thành đời đời mất khả năng trở về với tình yêu của Thiên Chúa. Chính sự nồng ấm sâu đậm của tình yêu Thiên Chúa và việc chúng ta mất khả năng đáp ứng tình yêu này sẽ đời đời hành hạ chúng ta. Tất cả những điều này muốn nói: Thiên Chúa coi trọng những điều chúng ta làm, việc chúng ta đáp ứng ra sao đối với các sáng kiến thần linh có tạo ra sự khác biệt đối với việc tạo hình dạng cho đời sau. Đây là một vị Thiên Chúa đối thoại, Đấng muốn chúng ta trở thành các hữu thể nhân bản trọn vẹn và tự do mãi mãi sống bên trong vòng tình yêu thần linh, nhưng là Đấng tôn trọng tự do bản vị của chúng ta coi nó như thánh thiêng và bất khả xâm phạm.

Câu hỏi 100: Việc tái lâm của Chúa Giêsu sẽ ra sao?

Điều xem ra rõ ràng là các cộng đồng Kitô giáo tiên khởi có một trông đợi rất mạnh Chúa Giêsu sẽ trở lại bất cứ lúc nào như Con Người. Thánh Phaolô thậm chí xem ra còn iả định rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong sinh thời của một số người ngài viết thư cho (1Tx 4:13-5:11; 1Cr 15:50-52). Thế nhưng, Người cũng sẽ trở lại khi người ta ít ngờ nhất “như một tên trộm vào ban đêm” (1Tx 5:2; Mt 24:43-44), nên điều tốt hơn hết mà chúng ta có thể làm là sẵn sàng. Đây là điểm chính trong các diễn từ khải huyền của các Tin Mừng nhất lãm (Mc 13:1-37 các song hành). Gioan cho thấy ít cảm thức khẩn trương hơn, vì những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô thì đã đang trải nghiệm được sự sống đời đời rồi. Thế nhưng, Sách Khải huyền, vốn phát xuất từ cộng đồng Gioan, kết thúc với hoài mong của mọi Kitô hữu: “Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Kh 22:20).

Hình ảnh Con Người đến trong đám mây đầy quyền năng và vinh quang (Mc 13:26 song hành) nhằm mục đích nói rằng khi thời khắc cuối cùng tới không ai không thấy hay tránh khỏi nó. Đó là thời khắc phán xét cuối cùng và dứt khoát. Nhưng chúng ta có thể làm gì đối với sự kiện cả hai ngàn năm sau, chúng ta vẫn còn phải chờ thời khắc đó? Người ta chỉ có thể suy đoán. Nhưng nếu chúng ta coi trọng sự kiện Chúa Giêsu đã thất bại trong sứ mệnh trần thế của Người và do đó, chúng ta tiếp tục sống dưới dấu thập gía, thì có lẽ ý định sáng tạo của Thiên Chúa để biến đổi thế giới bao gồm việc hủy diệt “mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần”, “mọi kẻ thù của Người”, mà kẻ thù cuối cùng là sự chết, đơn giản chỉ cần nhiều thời gian và không gian hơn mà thôi. Luca xem ra cảm thức được sự kiện chúng ta đang ở trong trạng huốn này lâu dài hơn tưởng tượng lúc ban đầu: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1:7). Chúng ta vẫn phải tín thác vào sựquan phòng của Thiên Chúa (xem câu hỏi 64). Niềm hy vọng của chúng ta vẫn còn đó như đã được thánh Phaolô mô tả cách đẹp đẽ: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:20-21). Amen, Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!

Câu hỏi 101: Cha nghĩ điều gì sẽ diễn ra nếu Chúa Giêsu tái lâm ngày hôm nay?

Tôi nghĩ Người có thể hỏi cùng câu hỏi Người đã hỏi các môn đệ đầu tiên của Người ở Xêdarê Philípphê “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” (Mc 8:29 song hành). Phân tích đến cùng, không phải nhiều câu hỏi chúng ta hỏi Chúa Giêsu quan trọng cho bằng câu hỏi chủ yếu Người hỏi chúng ta. Và chúng ta trả lời ra sao? Thậm chí chúng ta bắt đầu trả lời ra sao nếu chúng ta không vác lấy thập giá của chúng ta và lên đường theo chân Người? Điều Máccô dạy chúng ta là: sẽ không thể có câu trả lời cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai cũng như chúng ta là ai trong tư cách môn đệ, nếu chúng ta không cảm nghiệm được việc Người chết ra sao (Mc 15:39). Phêrô từng tuyên bố rằng ngài thà chết còn hơn bác bỏ Người (Mc 14:27-31), nhưng ngài đã bác bỏ Người. Thế nhưng, nghịch lý và mầu nhiệm sự sống là những người chết lại là những người mang lại nhiều hoa trái (Ga 12:24-26). Sau cùng, điều đáng kể là làm theo thánh ý Chúa Cha bằng cách lên đường theo chân Chúa Giêsu trong quyền năng Chúa Thánh Thần của sự thật và sự sống.

Giải thích một số từ ngữ

Xin lưu ý: Các ngoặc đơn chỉ nơi từ ngữ xuất hiện lần đầu tiên

Các công đồng (Dẫn nhập): dựa trên mô hình cuộc gặp gỡ của Phêrô và Phaolô với các nhà lãnh đạo cộng đồng Giêrusalem ở Cv 15 và vào nhu cầu ngày càng lớn của các cộng đồng địa phương do các Giám Mục dẫn dắt phải khai triển các mối liên kết với các cộng địa phương khác, các tham khảo của các Giám Mục tụ họp với nhau và bao gồm sự tham dự của giáo dân đã bắt đầu vào năm 175 và phát triển thành các công đồng “chung” hay toàn thế giới thời Constantinô năm 325. Các công đồng chung được các hoàng đế triệu tập và các sắc lệnh của chúng, cả tín lý lẫn kỷ luật, có hiệu lực phổ quát. Bẩy công đồng đầu tiên từ Nixêa I (325) tới Nixêa II (787) thẩy đều bàn tới các vấn đề chính của Kitô học.

Các Giáo phụ (Dẫn nhập): thường được nhắc đến như là thời kỳ “giáo phụ”, bao gồm các trước tác của các tác giả Kitô giáo hậu Tân Ước từ thời Thánh Inhaxiô thành Antôkia (qua đời năm 110) đến Thánh Gioan Đamátcô (qua đời năm 749).Đây cũng là thời kỳ của bẩy công đồng chung đầu tiên (xem trên).

Các kinh tin kính (Dẫn nhập): các công thức được chính thức công nhận về đức tin Kitô giáo. Chúng có thể ngắn như công thức của Tân Ước: “Đức Giêsu là Chúa!” hoặc dài như Kinh Tin Kính Nixêa đọc hàng tuần trong các nhà thờ.

Cánh chung học (câu hỏi 70): phát xuất từ chữ Hy Lạp, chỉ chung cuộc (eschaton) và học hỏi (logos), đây là môn học về ý định cuối cùng của Thiên Chúa đối với toàn bộ sáng thế và nhất là đối với con người. Phục sinh đôi khi được gọi là biến cố “cánh chung” hay “khải huyền” do việc dự ứng sự tái lâm của Chúa Kitô và việc xử lý sau cùng đối với mọi sự.

Cứu thế học (câu hỏi 77): từ chữ Hy Lạp chỉ sự cứu rỗi (sōteria) và học hỏi (logos), đây là việc nghiên cứu ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi hay giải phóng sáng thế. Việc này chủ yếu được mạc khải trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (câu hỏi 75), dù không hoàn toàn như vậy. Kitô học và cứu thế học, tức là việc Chúa Giêsu là ai và Người đã hoàn tất những gì, có liên hệ hết sức gắn bó với nhau.

Khải huyền (Câu hỏi 33) do chữ Hy Lạp chỉ mạc khải (apocalypsis), thường để chỉ loại văn chương phổ biến nơi cả người Do Thái lẫn Kitô hữu trong khoảng từ năm 200 TCN tới năm 200 CN. Cuốn cuối cùng của Tân Ước, vốn đặc trưng cho loại văn chương này, có tên là Khải Huyền hay Mạc Khải cho Gioan. Viết trong thời bách hại, loại văn chương này dùng ngôn từ và hình ảnh che đậy hay có tính biểu tượng để mang lại niềm hy vọng cộng đồng vào một chiến thắng sau cùng và niềm khích lệ để họ kiên tâm. Hình thức cực đoan của khải huyền trông đợi “các dấu lạ” để tiên đoán chính xác ngày tận thế diễn ra khi nào, ở đâu, và cách nào, nhưng khải huyền của Kinh Thánh là loại văn chương có tính phản kháng từ nền tảng, dựa vào Thiên Chúa để thể hiện các niềm hy vọng của cộng đồng. Đối với các Kitô hữu, “biến cố khải huyền” sau cùng và dứt khoát diễn ra trong biến cố phục sinh của Chúa Giêsu (xem các câu hỏi 68,71,98).

Khoa phê bình Kinh Thánh (Dẫn nhập): áp dụng lý trí nhân bản (do đó, “khoa phê bình”) vào các bản văn của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Lý lẽ này có thể là lịch sử, triết học, kinh nghiệm, văn chương v.v...Các phương pháp đã được khai triển để tương ứng với các loại câu hỏi được nêu ra. Việc khai triển khoa phê bình Kinh Thánh “hiện đại” thường được địnhniên biểu từ thời phong trào Ánh Sáng thế kỷ 18.

Mạc khải (Câu hỏi 12): Việc tự thông đạt của Thiên Chúa như qua trung gian thiên nhiên, lịch sử, kinh nghiệm bản thân v.v... Đối với các Kitô hữu, việc Thiên Chúa tự thông đạt chủ yếu phát xuất qua Chúa Giêsu, Đấng mạc khải tực tại thần linh một cách sau cùng và dứt khoát trong biến cố phục sinh. Mọi điều cho là mạc khải khác phải nhất quán với mạc khải một lần vĩnh viễn này (xem các câu hỏi 67-75).

Tin mừng nhất lãm (Dẫn nhập): Các Tin Mừng Mátthêu, Máccô và Luca, gọi thế vì có thể đặt chúng vào những cột song hành để thấy chúng có bao nhiêu tư liệu chung với nhau. Trong khi Tin Mừng Gioan tuy có một số tư liệu chung với ba Tin Mừng này, nhưng nó rất khác cả về đề cương lẫn về nội dung.

Thư Mục

Đề nghị để đọc thêm

Marcus J. Borg, Jesus: A New Vision, Spirit, Culture, and the Life of Discipleship [Chúa Giêsu: Viễn kiến, Tinh thần, Văn hóa mới, và đời sống làm Môn đệ]. San Francisco: HarperCollins, 1987.

Raymond e. Brown, Responses to 101 Questions on the Bible [Trả lời 101 Câu hỏi về Kinh Thánh]. Mahwah: Paulist Press, 1990.

Michael L. Cook, Guidelines for Contemporary Catholics: The Historical Jesus [Các Hướng dẫn dành cho Người Công Giáo: Chúa Giêsu Lịch sử]. Chicago: The Thomas More Press, 1986.

Bernard J. Cooke, God’s Beloved: Jesus’ Experience of the Transcendent [Người được Thiên Chúa Yêu thương: Trải nghiệm Đấng Siêu việt của Chúa Giêsu]. Philadelphia: Trinity Press International, 1992.

James W. Douglass, The Nonviolent Coming of God [Việc Xuất hiện Bất Bạo động của Thiên Chúa]. Maryknoll:Orbis Books, 1991.

Joseph A. Fitzmyer, A Christological Catechism. New Testament Answers [Sách Giáo lý Kitô học. Các Câu Trả lời của Tân ước]. Ramsey: Paulist Press, 1982.

Andrew M. Greeley, The Jesus Myth. New Insights into the Person and Message of Jesus [Huyền thoại Giêsu. Những Tầm nhìn thông sáng mới vào Con người và các Sứ điệp của Chúa Giêsu], New York: Doubleday Image Books, 1973.

Monika K. Hellwig, Understanding Catholicism [Hiểu Đạo Công Giáo]. Ramsey: Paulist Press, 1981.

Monika K. Hellwig, Jesus, The Compassion of God [Chúa Giêsu, Lòng Cảm thương của Thiên Chúa]. Wilmington: Michael Glazier, 1983.

Elizabeth A. Johnson, Consider Jesus. Waves of Renewal in Christology [Hãy Xem xét Chúa Giêsu. Các đợt Canh tân trong Kitô học]. New York: Crossroad, 1990.

John P. Meier, A Marginal Jew. Rethinking the Historical Jesus [Một Người Do thái Bên lề. Suy nghĩ lại về Chúa Giêsu Lịch sử]. New York: Doubleday, 1991.

Juergen Moltmann, The Way of Jesus Christ, Christology in Messianic Dimensions [Con đường Chúa Giêsu Kitô, Kitô học trong các Chiều kích Thiên sai của nó]. San Francisco: HarperCollins, 1990.

Albert Nolan, Jesus Before Christianity [Chúa Giêsu trước Kitô giáo]. Revised Edition. Maryknoll: Orbis Books, 1992.

Janoslav Pelikan, Jesus Through the Centuries: His Place in the History of Culture [Chúa Giêsu qua các Thế kỷ: Vị trí của Người trong Lịch sử Văn hóa]. New Haven: Yale University Press, 1985.

Sandra M. Schneiders, Women and the Word. The Gender of God in the New Testament and the Spirituality of Women [Phụ nữ và Ngôi Lời. Phái tính của Thiên Chúa trong Tân Ước và Linh đạo Phụ nữ]. Mahwah: Paulist Press, 1986.

Gerard S. Sloyan, Jesus in Focus. A Life in its Setting [Chúa Giêsu trong tập chú. Một Cuộc đời trong Khung cảnh của nó]. Mystic: Twenty-Third Publications, 1983.

Gerard S. Sloyan, The Jesus Tradition. Images of Jesus in the West [Truyền thống Giêsu. Các Hình ảnh của CHúa Giêsu ở Phương Tây]. Mystic: Twenty-Third Publications, 1986.

 
http://vietcatholicnews.org/News/Home/Article/285669

Câu 90-96 Một Trăm Lẻ Một Câu Hỏi Về Chúa Giêsu

 Một Trăm Lẻ Một Câu Hỏi Về Chúa Giêsu, Các Câu 90-96

 Vũ Văn An 22/10/2023

Câu hỏi 90: Tại sao Chúa Giêsu không đơn giản phá hủy sự ác một lần vĩnh viễn và thiết lập vương quốc trên trái đất?

Câu hỏi này nói lên điều có lẽ là niềm hy vọng của rất nhiều người cùng thời với Chúa Giêsu (xem câu hỏi 33). Trong một số lần, chúng ta đã cho thấy rằng “Thiên Chúa Đấng đối thoại” không hành động cách ép buộc. Cả niềm hy vọng có tính khải huyền về việc tiêu diệt lớn lao “thời đại xấu xa” hiện tại lẫn niềm hy vọng duy dân tộc chiến thắng kẻ thù của mình đều không tương thích với lối hành động của Chúa Giêsu Kitô. Câu hỏi duy nhất người ta có thể hỏi cách hữu ích không phải là Thiên Chúa có thể đã làm những gì mà là Thiên Chúa đã làm những gì trong Chúa Giêsu. Mátthêu nhìn nhận vấn đề Thiên Chúa không hành động khi Chúa Giêsu bị bắt lúc một trong các môn đệ của Chúa Giêsu cắt đứt tay tên nô lệ của thầy cả thượng phẩm: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần” (Mt 26:52-53). Theo mọi Tin Mừng, điều đang diễn ra là ứng nghiệm lời sách thánh tức thánh ý Thiên Chúa.Luca cũng viết thêm: “đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm!” (Lc 22:53b). Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta như các tạo vật của thời gian và không gian. Thánh ý Thiên Chúa là chúng ta dùng thời gian và có không gian để học hỏi một điều duy nhất cần thiết: yêu mến nhau như Chúa Giêsu đã yêu chúng ta.Sức mạnh thần linh duy nhất mà Chúa Giêsu cung ứng cho chúng ta là sức mạnh của tình yêu, Thánh Thần của Người.



Tuy nhiên, câu hỏi cũng nói lên ước muốn sâu xa nhất của mọi cõi lòng nhân bản: công lý được thực hiện. Điều này không y hệt vi6ẹc trả thù hay chiến thắng kẻ thù của ta. Những ai “đói khát sự chính trực” (Mt 5:6) đói và khát Thiên Chúa, Đấng duy nhất thực sự là chính trực. Mối liên hệ “đúng đắn” với Thiên Chúa là điều làm cho mối liên hệ đúng đắn với nhau và với toàn bộ sáng thế thành khả hữu. TRong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thiết lập chính mối liên hệ như thế và do đó đã tiêu diệt sự ác một lần vĩnh viễn. “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:12). Điều đã được thể hiện nơi Chúa Giêsu vẫn còn cần được thể hiện nơi chúng ta và do đó, Người đã ban cho chúng ta Thánh Thần của Người và Lời của Người để đem chúng ta tới công lý và phán đoán: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi : xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:12-13).

Câu hỏi 91: Làm thế nào con biết Chúa Giêsu đang lắng nghe con? Tại sao có quá nhiều đau khổ trong đời con nếu Chúa Giêsu yêu con đến thế?

Trên đây, chúng tôi đã gợi ý (xem câu hỏi 65) rằng không hề có câu trả lời cho câu hỏi “tại sao?” khi người ta giáp mặt với trải nghiệm bản thân về sự ác. Ở một bình diện, chúng ta đơn giản phải chấp nhận sự kiện này: mỗi người chúng ta đều là một phần tạo nên vũ trụ mầu nhiệm và phức tạp liên tục trải qua các diễn trình thay đổi, cả lớn mạnh lẫn phân hủy. Chúng ta sinh ra và chết đi. Trong đời mình, chúng ta thường giáp mặt với những sức mạnh vượt quá tầm kiểm soát của chúng ta. Chủ yếu đối với bất cứ mối liên hệ nào với Thiên Chúa cũng đơn giản là việc chấp nhận tính tử sinh của chúng ta. Lạc giáo vĩ đại của nền văn hóa của chúng ta, một nền văn hóa cũng đã gây ra nhiều thiệt hại tâm lý vô lường, là bác bỏ sự chết. Không chấp nhậncác diễn trình bình thường của sống của chết là tự tha hóa mình khỏi thiên nhiên, và do đó khỏi chính bản ngã chúng ta như những tạo vật có thân xác.

Tuy nhiên, ở một bình diện khác, chúng ta không phải chỉ là những người thụ động chịu đựng trong một thế giới vô cảm. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trí khôn và ý chí, khả năng tưởng tượng ra các khả thể mới và tạo chúng thành các thực tại. Thiên Chúa luôn hiện diện trong óc sáng tạo của chúng ta, vì Thiên Chúa sáng tạo qua chúng ta. Không còn hoài nghi gì nữa là Thiên Chúa sống động, tích cực, hiện diện trong đời ta, trong cả các nỗi đau đớn của ta. Chúa Cha biết chúng ta cần gì ngay trước khi chúng ta cầu xin (Mt 6: 32). Chúa Con luôn lắng nghe và lưu tâm vì Người vốn bước đi cùng một nẻo đường và biết rõ chúng ta cảm nhận ra sao (Dt 4:15). Chúa Thánh Thần luôn khuyến khích và hướng dẫn chúng ta hướng tới sự viên mãn của tình yêu như có tính sáng tạo, giao ước, và tự hiến. Như thế, khi cầu nguyện, chúng ta không cầu nguyện để kéo sự chú ý của Thiên Chúa. Đúng hơn, chúng ta cầu nguyện để chúng ta có khả năng nghe được điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Đó là một trong những điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta hết lần này đến lần nọ: “...Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3bc).

Câu hỏi 92: Trong việc cầu nguyện của chúng ta, có phải lúc nào chúng ta cũng phải đến với Chúa Cha qua Chúa Con hay chúng ta có thể cầu nguyện trực tiếp với Chúa Cha?

Lời cầu nguyện của Kitô hữu luôn luôn nên có tính Ba Ngôi. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho ta bản tính tam vị của một Thiên Chúa. Tôi thấy truyền thống của Chính thống giáo luôn cầu nguyện với Chúa Cha qua Chúa Con trong Chúa Thánh Thần là có nền tảng Kinh Thánh hơn cả. Điều này không có nghĩa là chúng ta không thể cầu nguyện lúc thì với Chúa Cha, lúc thì với Chúa Con và lúc thì với Chúa Thánh Thần, tùy ý thích bản thân của mỗi người. Nhưng những lời cầu nguyện như thế không bao giờ nên quên rằng Ba Vị đều hợp nhất vô cùng chặt chẽ trong một sự sống thân linh duy nhất. Tin Mừng Gioan đặc biệt nói mạnh về khía cạnh này: “Chúa Cha và Thầy là một” (10:30). “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha... Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (14:9b.10a).

Diễn từ tại bữa tối cuối cùng trong Tin Mừng Gioan (các chương 13-17) tập chú vào hành động qua lại bên trong Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần và vào việc cư ngụ hỗ tương của cùng sự sống tam vị trong chúng ta, và sự cư ngụ của chúng ta trong sự sống tam vị. Trong truyền thống Chính Thống sau này, Ba Ngôi được tưởng tượng như đang múa nhẩy trong một vòng tròn. Chúng ta được mời gọi tham gia cuộc múa nhẩy, tham gia vào vòng ôm yêu thương năng động và hỗ tương vốn là sự sống Thiên Chúa. Thiên Chúa mời chúng ta vào và do đó, “thần hóa” chúng ta nghĩa là làm cho sự sống Thiên Chúa thành sự sống của chúng ta. Thiên Chúa mời chúng ta vào không phải để tan hòa chúng ta vào sự sống thần linh, nhưng biến đổi chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu sáng tạo, giao ước và tự hiến để chúng ta đạt tới sự viên mãn của bản thể ta như những ngôi vị nhân bản. Thiên Chúa khẳng định căn tính, phẩm giá và sự toàn vẹn bản vị của chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta là những ngôi vị nhân bản được làm cho sống động trọn vẹn, nói theo dẫn giải thông sáng và đẹp đẽ của Thánh Irênê. Ơn phúc Thiên Chúa ban cho chúng ta là Chúa Thánh Thần (Lc 11:13). Bất cứ điều gì khác chúng ta có thể cần hay muốn cầu xin cho có, ơn phúc này cuối cùng là ơn phúc không thể thiếu mà chúng ta phải cầu xin cho có. Chúng ta cầu xin Chúa Cha qua Chúa Con ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Với Chúa Thánh Thần này, ngay lúc này, chúng ta đã có thể bước đi trong sự sống mới (Rm 6:4) như sáng thế mới (Gl 6:15; 2Cr 5:17). “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Ga 17:3). Sự sống đời đời đã bắt đầu rồi khi chúng ta, nhờ đức tin và lời cầu nguyện, chúng ta được gia nhập sự sống Ba Ngôi của Thiên Chúa.

Câu hỏi 93: Làm thế nào con biết Thiên Chúa muốn gì cho con?

Trong phiên bản Mátthêu về Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (6:10b). Chính Chúa Giêsu (nhưng chỉ trong Mátthêu) đã nhắc lại những chữ này tại Vườn Diêtsimani: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (26:42b). Đối với Mátthêu, Chúa Giêsu không những là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng công bố và dạy dỗ người ta về thánh ý Thiên Chúa; Người còn hiện thân nó từ lúc chịu phép rửa bằng nước cho đến lúc chịu phép rửa bằng máu. Là một Kitô hữu, tôi chỉ có thể biết thánh ý Thiên Chúa nếu tôi tiếp nhận ơn phúc của Thánh Thần Người trong phép rửa và tìm cách hiện thân Thánh Thần này bằng cách theo chân Chúa Giêsu lên đường trong các điều kiện cụ thể và chuyên biệt của đời sống tôi. Tìm cách bắt chước các hành động Chúa Giêsu một cách chỉ lưu ý tới nghĩa đen là ngu xuẩn và hời hợt. Tôi phải nắm được Thánh Thần Người và để Thánh Thần này sống động trở lại trong bối cảnh hoàn cảnh sống độc đáo của tôi.

Ba điều nên nói về thánh ý Thiên Chúa. Thứ nhất, thánh ý Thiên Chúa, cuối cùng, là một mầu nhiệm giấu ẩn trong ý định và quyền năng của Thiên Chúa. Ngay Chúa Giêsu cũng phải tìm kiếm và khám phá ra thánh ý này qua các trải nghiệm cụ thể của đời sống Người. Cho đến tận cuộc đời Người, Chúa Giêsu vẫn không hoàn toàn chắc chắn về nó, như cảnh trong vườn Diệtsimani đã cho thấy, nhưng Người hoàn toàn chắc chắn điều này: Người có thể tín thác thánh ý này “để giữ trọn đức công chính” (3:15c). Thứ hai, ý định của Thiên Chúa được mạc khải trong phục sinh. Điều Thiên Chúa muốn cho toàn thể sáng thế và cho từng hữu thể nhân bản là sự sống viên mãn, là mỗi người chúng ta trở nên chúng ta một cách trọn vẹn qua việc kết hợp với chính sự sống thần linh. Thứ ba, Thiên Chúa tạo dựng nên mỗi con người như một ơn phúc độc đáo từ bàn tay Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta phải khám phá ra việc phải sống ý định của Thiên Chúa cách cụ thể và chuyên biệt ra sao. Ở đây, chúng ta cần biện phân các thần khí;để ôm lấy Thần Khí Thiên Chúa và xua đuổi thần khí sự ác. “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9:29b). Mục đích của Linh Thao của Thánh Inhaxiô là dìm chúng ta trong Thần Khí Thiên Chúa một cách sâu xa đến nỗi mọi điều khác trên mặt đất chỉ có thể hiểu được và lượng giá được dưới ánh sáng của Thần Khí này. Biết được thánh ý Thiên Chúa là một diễn trình biện phân sẽ kéo dài cho đến chết. Nhưng một điều rõ ràng là Thiên Chúa luôn đòi nơi chúng ta điều Người đã đòi nơi Chúa Giêsu: chúng ta mãi trung thành với các lựa chọn chân chính mà chúng ta đã đưa ra.

Câu 94: Thiên Chúa muốn chúng ta được tự do ra sao? Ngày nay, há không có quá nhiều nhấn mạnh tới việc làm bất cứ điều con muốn hay sao?

Trong nền văn hóa Hoa Kỳ, tự do thường được đi kèm với chủ nghĩa duy cá nhân tràn lan, và điều này thật bất hạnh. Tự do đích thực không lấy mình làm trung tâm, không chỉ tập chú vào các quyền lợi và lựa chọn cá nhân của tôi đến loại bỏ quyền lợi và nhu cầu của người khác. Cũng không đủ khi nói rằng tôi nhìn nhận cùng những điều này cho các cá nhân khác. Điều này dẫn đến ý niệm coi xã hội chỉ như một khế ước tối đa hóa tự do cá nhân và tối thiểu hóa nghĩa vụ xã hội. Điều này làm ngơ sự kiện, là con cái Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, chúng ta vốn thuộc về nhau. Tự do đích thực luôn có tính tương quan, như nó vốn hiện hữu trong sự sống ba ngôi của Thiên Chúa. Không ai trong chúng ta được tự do, nếu một trong các anh chị em của chúng ta bị nô dịch.

Phong trào hiện thời dưới tên “thần học giải phóng”, vốn bắt đầu trong thập niên 1960 ở Châu Mỹ La Tinh, quan tâm tới việc nhấn mạnh mối nối kết thân thiết giữa đức tin Kitô giáo của chúng ta với các thực tại xã hội,chính trị, và kinh tế thời ta. Thần học giải phóng không cho mình là một nền thần học giữa các nền thần học khác, mà là cách duy nhất làm thần học. Tham chiếu hàng đầu là Kinh Thánh. Do đó, trải nghiệm xuất hành trở thành tập chú chính vì nó nói lên 3 yếu tố không thể thiếu: tự do khỏi áp bức quá khứ (ách nô lệ tại Ai Cập); lãnh trách nhiệm hiện tại trong tư cách cộng đồng mới được thiết lập sống cho mối liên hệ với Thiên Chúa và với nhau (giao ước chủ yếu được diễn tả trong mười giới răn: tự do cho tương lai như tương lai của Thiên Chúa (một cộng đồng của hy vọng được biểu tượng bằng lãnh thổ như sự ứng nghiệm của lời Thiên Chúa hứa).

Lịch sử Israel là lịch sử của một dân tộc đấu tranh để mãi trung thành với Thiên Chúa và với nhau. Các tiên tri đặc biệt phê phán các thất bại trong trách nhiệm xã hội: đối với người nghèo, quả phụ, cô nhi, người xa lạ như tượng trưng cho những người dễ bị thương tổn và đán áp nhất.Họ tượng trưng cho thất bại của Israel, không sống đúng giao ước. Áp bức người nghèo là bác bỏ Thiên Chúa của Israel. Chúa Giêsu đến từ bên trong truyền thống đó và công bố rằng vương quốc Thiên Chúa đang đến đặc biệt cho người nghèo và người bị áp bức (xem các câu hỏi 32-33). Các giải thích cá nhân chủ nghĩa về Kinh Thánh nào làm ngơ các quan tâm xã hội của Môsê và của Chúa Giêsu đều thuận tiện cho những ai muốn duy trì nguyên trạng nghèo đói và áp bức, nhưng họ cũng bác bỏ “tự do của vinh quang con cái Thiên Chúa” (Rm 8:21b). Như thế, tự do không phải là giấy phép được làm bất cứ điều gì tôi muốn. Tự do là trách nhiệm vinh quang để chăm sóc và nuôi dưỡng người khác, và đặc biệt người nghèo, người bị hất hủi, bị nhục mạ và khinh thị giữa chúng ta. Nếu chúng ta làm thế, chúng ta khỏi cần phải quan tâm nhiều đến việc bảo vệ “Các tự do” của chúng ta nữa.

Câu hỏi 95: Ngày nay, chúng ta nghe nói khá nhiều đến các vấn đề của phụ nữ. Phong trào duy nữ có tính Kitô giáo hay không?

Có hàng loạt các phong trào duy nữ, và do đó, ta phải cẩn thận khi dùng các phạm trù này. Có một số nhà duy nữ bác bỏ Kitô giáo như là quá tộc trưởng (patriarchal) và bài phụ nữ. Có những nhà duy nữa khác cảm thấy Kitô giáo có trong mình nhiều hạt giống tự cứu chuộc mình khỏi ctính tộc trường và các xu hướng bài phụ nữ. Tôi tự kể tôi vào lớp người sau. Nếu một người duy nữ nào đó, bất kể là nam hay nữ, nhưng tin vào sự bình đẳng trọn vẹn của đàn ông và đàn bà và làm việc để biến sự bình đẳng này thành một thực tại trong mọi cơ cấu xã hội, bất kể là dân sự hay tôn giáo, thì tôi sẵn sàng gọi mình là một người duy nữ. Vấn đề là là vấn đề về nhân tính trọn vẹn, và như tôi đã thường xuyên nhấn mạnh trước đây, không điều nhân bản nào lại xa lạ đối với một Kitô giáo chân chính.

Theo nghĩa đã mô tả, mặc dù hạn tứ đã lỗi thời, tôi vẫn xin nói rằng bằng lời nói và việc làm của Người, Chúa Giêsu tự cho thấy Người là một nhà duy nữ (xem câu hỏi 25). Người có những quan điểm rất tích cực về phụ nữ và giao tiếp với họ cách công khai, thậm chí còn mời gọi một số họ thành môn đệ của Người (xem câu hỏi 50). Người sử dụng hình ảnh mẹ để nói về Thiên Chúa, Đấng mà Người gọi là Bố (Abba) (xem câu hỏi 36). Trong tất cả việc này, Người hết sức động đáo đối thời Người.Với một sự tự do gây ngạc nhiên, Người thách thức các cơ cấu và thực hành nặng tính tộc trưởng cố thủ vốn chống đối phụ nữ. Người cung cấp viễn kiến về một loại cộng đồng mới, một cách mới để lập tương quan vượt quá các chia rẽ và áp bức giữa người giầu và người nghèo, nô lệ và tự do, nam và nữ.

Trưng dẫn một công thức rửa tội tiên khởi, Thánh Phaolô chứng tỏ rằng các Kitô hữu tiên khởi hiểu điều này: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3:28). Các chia rẽ dựa vào chủng tộc, giai cấp hay giới tính đều đã bị vượt quá bởi tính nên một của chúng ta trong Chúa Kitô nhờ phép rửa. Bi thảm thay, các chia rẽ ấy đã trở lại gây bệnh dịch cho Kitô giáo từ thời tiên khởi cho tới tận ngày nay. Không có ai bị áp bức như một người đàn bà da mầu nghèo. Bà bị áp bức vì giai cấp, vì giới tính và vì chủng tộc của bà. Nếu bà không được tự do, thì không ai trong chúng ta được tự do. Phong trào duy nữ có tính Kitô giáo hay không? Tôi xin đề xuất điều này: chúng ta không phải là Kitô hữu nếu chúng ta không duy nữ cùng một cách như Chúa Giêsu, nghĩa là, nếu chúng ta không thực sự tin vào sự bình đẳng trọn vẹn giữa đàn bà và đàn ông và nếu chúng ta không làm tất cả những gì có thể để làm cho sự bình đẳng này thành một thực tại trong xã hội đương thời của chúng ta.

http://vietcatholicnews.org/News/Home/Article/285546
 




Câu 85-89 Một Trăm Lẻ Một Câu Hỏi Về Chúa Giêsu

 Một Trăm Lẻ Một Câu Hỏi Về Chúa Giêsu, Câu 85-89

 Vũ Văn An 

VI. Ngày nay, Chúa Giêsu Kitô là ai?



Câu hỏi 85: Chúa Giêsu có còn hiện diện trong thế giới ngày nay không?

Cả sách thánh lẫn truyền thống liên tục của Kitô giáo đều một cách hết sức nhấn mạnh, Có! Mátthêu kết thúc Tin Mừng của ngài ở chỗ ngài bắt đầu, với Chúa Giêsu như Đấng Emmanuen (Thiên Chúa ở với chúng ta): “và hãy nhớ, Thầy ở với các con mãi mãi, cho đến tận cùng thời gian” (Mt 28:20). Với Luca trong Công vụ, Chúa Giêsu tiếp tục sống trong ơn Chúa Thánh Thần mà Người tuôn đổ (Cv 2:33). Thế nhưng vẫn là Chúa Giêsu mà Phaolô đang bách hại (9:3-5). Cũng thế, trong Gioan, Chúa Giêsu hứa rằng nơi cư ngụ Người đang soạn nằm trong trái tim những người yêu Người và giữa các giới răn của Người. Chính ở đó, Chúa Cha và Người sẽ cư ngụ (Ga 14:23). Ngoài ra, Người còwn hứa sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ dẫn dắt các môn đệ tới mọi chân lý, công bố điều cùng thuộc Chúa Giêsu và Chúa Cha (Ga 16:12-15). Thánh Phaolô diễn tả như sau: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12:13).



Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu hiện diện bằng “thân xác” theo ba cách: Thứ nhất, như Chúa sống lại, Người hiện diện với toàn thể vũ trụ (xem câu hỏi 70). Thứ hai, qua phép rửa, Người hiện diện vơqi toàn thể cộng đồng Kitô giáo và mỗi thành viên tạo nên thân thể Người một cách tập thể hay cá thể. “Vậy anh em, anh em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12:27). Thứ ba, Trong cử hành Thánh Thể, Người hiện diên một cách độc đáo dưới dạng bề ngoài thể lý của bánh và rượu (xem câu hỏi 45). Thánh Thể có lẽ được so sánh với một tiệc vui mừng ngày sinh. Chúng ta cử hành sự hiện diện của một người luôn ở với chúng ta nhưng đời sống họ, cả quá khứ lẫn tương lai, chúng ta muốn khẳng định và công bố qua các hành động và lời nói đặc biệt có tính biểu tượng. “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11:26).

Câu hỏi 86: Thần khí Chúa Giêsu có lên khuôn các đời sống con người mọi nơi và mọi thời không?

Thần khí Chúa Giêsu là Thần khí Thiên Chúa, Đấng chúng ta gọi là Chúa Thánh Thần, được nhìn nhận chính thức tại Công đồng Constantinốp thứ nhất năm 381 như Ngôi Thứ Ba trong Chúa Ba Ngôi, Đấng được thờ lạy và tôn vinh ngang bằng và cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Augustinô gọi Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù không đưa ra căn tính ấy, nhưng Thánh Phaolô viết: “...Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5:5). Thiên Chúa, Đấng là tình yêu (1Ga 4:8.16) là mối tương quan sống động và yêu thương một cách không thể tách biệt và đời đời mà chúng ta gọi là Cha-Con-Thánh Thần.

Có ba chữ Hy Lạp chỉ tình yêu nắm bắt được rất tốt hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa trong đời sống con người. Thứ nhất, eros là loại tình yêu sáng tạo mà một người đàn ông và một người đàn bà có trong việc sinh sản con cái. Tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa được phát biểu như Thánh Thần hay Hơi Thở (ruaḥ) của Thiên Chúa bay là là trên mặt nước (St 1:2) và thở hơi thở sự sống vào tạo vật nhân bản. Thứ hai, philia là tình yêu bằng hữu. Tình yêu giao ước của Thiên Chúa di chuyển quá bên kia tính sáng tạo tới việc làm cho nhau có khả năng. “Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân của Ta” có nghĩa là Thiên Chúa cam kết với chúng ta và mong một đáp ứng từ chúng ta. Chúa Giêsu nói về tình yêu này như sau: “...Thầy gọi các con là bằng hữu vì Thầy đã làm cho các con biết mọi sự Thầy đã nghe từ Cha Thầy” (Ga 15:15b). Theo Gioan, Thiên Chúa trong Chúa Giêsu muốn thông truyền mầu nhiệm sâu xa nhất và thân thiết nhất về thực tại thần linh. Đó là điều bằng hữu làm. Thứ ba, agape là thứ tình yêu sẵn sàng hiến chính sự sống của mình vì thiện ích của người yêu. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và quả thực, “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4:9). Do đó, chúng ta có thể nói: nếu không phải nhờ Thánh Thần Thiên Chúa, nghĩa là tình yêu sáng tạo, giao ước và tự hiến của Thiên Chúa, sẽ không hề có sự sống nhân bản nào ở bất cứ nơi đâu hay ở bất cứ thời đại nào.

Câu hỏi 87: Tại sao người ta thường nói Chúa Giêsu hay Thánh Thần của Người sống trong mọi người trong khi có rất nhiều kẻ giết người không tiếc tay hay tội phạm trên thế giới như thế? Chúa Giêsu có dự phần vào việc này không?

Tình yêu Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không loại trừ ai. Theo Thánh Phaolô, mọi người chúng ta đều phạm tội và xa cách vinh quang Thiên Chúa (Rm 3:23), nhưng dù chúng ta còn là những kẻ tội lỗi và thù địch của Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn chứng tỏ tình yêu của Người trong cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu vì chúng ta (Rm 5:8). Thách đố của Chúa Giêsu với những người muốn ném đá người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngọai tình vẫn còn hiệu lực: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8:7)

Vấn đề ở đây thực sự là việc tha thứ (xem câu hỏi 49). Phân tích đến cùng, tội duy nhất không thể tha thứ là việc con người cứng lòng nghĩa là từ khước tiếp nhận sự tha thứ và tha thứ cho người khác. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là vòng ôm tối hậu kẻ thù của mình trong tình yêu và tha thứ. Tôi đích thân chống đối hình phạt tử hình vì quá thường xuyên nó là một hành vi trả thù, một từ khước tha thứ. Hơn nữa, một hành vi như thế thực tế là từ khước tin rằng con người đặc thù này có thể được cứu chuộc, họ có thể hoán cảo cả trí lẫn tâm để bắt đầu một cuộc sống mới. Tử hình chỉ có tính hình phạt; nó bỏ qua việc phục hồi. Chúa Giêsu không bao giờ từ bỏ bất cứ ai, ngay các kẻ thù ngoan cố nhất.

Vấn đề là chúng ta phải sẵn lòng và có khả năng tha thứ một cách sâu xa ra sao. Dụ ngôn người đầy tớ không biết thương xót (Mt 18:23-35), như Mátthêu mang lại cho chúng ta, đưa ra trọng điểm ở câu 35 cho hay: sự tha thứ của Thiên Chúa không thể hữu hiệu trong đời sống chúng ta nếu chúng ta không tha thứ tận đáy lòng cho anh chị em chúng ta. Tập chú là vào phán xử của vua (=Thiên Chúa). Điều này đúng, nhưng nếu chúng ta xét câu truyện theo các hạn từ của nó mà cuối cùng không áp dụng câu 35, thì kết quả ngạc nhiên sẽ diễn ra lúc vua rút lại lời của ngài và đảo ngược sự tha thức trước đó của ngài. Danh dự của vua đòi ngài giữ lời của ngài (so sánh với Hêrốt ở Mc 6:26). Không chỉ có thế, nay ngài còn kết án người đầy tớ phải chịu cực hình không bao giờ chấm dứt, một hình phạt còn tệ hơn hình phạt đã ban bố trước rất nhiều (câu 25). Hành động của các đồng bạn đầy tớ khi phúc trình mọi chuyện cho nhà vua thay vì tìm cách tha thứ và hòa giải khác đã có những hậu quả vượt xa điều đã dự tính. Trọng điểm là: khi nghe dụ ngôn này, chúng ta có thể tha thứ cho cả một đầy tớ bạn cũng thô bỉ và không biết thương xót như đầy tớ này không? Chúng ta có sẵn lòng tha thứ và tìm cách khác hơn là bạo động và trả thù để giải quyết các tranh chấp không? Quả vậy, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3:17).

Câu hỏi 88: Còn về người thuộc các tôn giáo khác, như Ấn độ giáo hay Phật giáo, hay cả người vô thần nữa thì sao? Chúa Giêsu có tạo được khác biệt nào cho họ hay không?

Có, nếu điều tôi nói trước đây về phục sinh (xem các câu hỏi 68-70) là đúng. Chúa Giêsu phục sinh hiện thân ý định của Thiên Chúa muốn có sự viên mãn trong đời sống và kinh nghiệm nhân bản. Hơn nữa, ý nghĩa của phục sinh trải dài khắp sáng thế. Niềm hy vọng Kitô giáo của chúng ta là mọi sự sẽ được biến đổi trong Chúa Kitô. Thế nhưng, chúng ta vẫn còn trong tiến trình biện phân các cách cụ thể và chuyên biệt sẽ dẫn tới sự biến đổi sau cùng này. Trong tiến trình này, chúng ta có thể học hỏi từ các truyền thống tôn giáo khác cũng như họ học hỏi từ chúng ta. Cuộc đối thoại lên sinh lực hỗ tương là điều tuyệt đối cần thiết. Chúng ta phải trung thực và cởi mờ thừa nhận điều hợp nhất chúng ta cũng như điều chia rẽ chúng ta.

Mọi tôn giáo, cũng như mọi người vô thần theo chủ nghĩa nhân bản đều gặp nhau ở việc chăm sóc và quan tâm phổ quát đối với sáng thế, trái đất, phúc lợi và số mệnh của nó. Một bản năng thực sự tôn giáo (và do đó thực sự nhân bản) không bao giờ dửng dưng đối với mẹ đất và nhiều con cái của mẹ đang rung động và tương tác như một toàn thể đầy mầu nhiệm. Hơn nữa, các tôn giáo có xu hướng có chung nhau nhiều hơn trên các bình diện quan tâm đạo đức (hành động) và cầu nguyện huyền nhiệm (chiêm niệm). Họ chia rẽ một cách sẵn sàng hơn về các tín lý hay các phát biểu các tín ngưỡng nền tảng. Những điều vừa kể chịu nhiều hạn chế nhân bản trong việc cố gắng phát biểu thể siêu việt tuyệt đối. Nhưng chính ở đây, chúng ta có nhiều điều để học hỏi lẫn nhau.Chúa Giêsu như Đấng phục sinh vượt quá mọi tôn giáo, kể cả Kitô giáo. Các Kitô hữu chúng ta đem tới cuộc tranh luận các xác tín sâu xa về ý nghĩa trung tâm của Chúa Giêsu đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta sẽ không còn là Kitô hữu nếu chúng ta không công bố Người như chính sự nhập thể của Thiên Chúa.

Nhưng chúng ta mang các xác tín này vốn nằm trong một truyền thống bắt nguồn từ tính Do Thái của Chúa Giêsu nhưng rất nhanh chóng tự phát biểu bằng các hạn từ Hy Lạp (Đông) và La Tinh (Tây). Giáo Hội Công Giáo, trong căn bản, là Tây Âu trong phát biểu văn hóa và tôn giáo của mình, mặc dù, nó đang trở nên ngày càng là một Giáo Hội thế giới nhiều hơn. Tất cả các Kitô hữu (Rôma, Chính thống, Thệ phản) phải học cách lắng nghe các tiếng nói của Châu Á, Châu Phi, và các nơi khác, nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa trọn vẹn của phục sinh. Chúa Giêsu không thuộc về Kitô giáo; Người thuộc về mọi dân tộc và toàn bộ sáng thế.Các Kitô hữu chúng ta chỉ được mời gọi làm chứng cho sự thật vốn ở trong chúng ta, làm cho sự thật, con đường và sự sống này (Ga 14:6) thành sẵn có đó cho mọi dân tộc.

Câu hỏi 89: Mọi người, cả những người không bao giờ nghe nói về Chúa Giêsu, có được lên thiên đàng không? Há phép rửa không có tính yếu tính để chúng ta được cứu rỗi hay sao?

Ở tâm điểm Tin Mừng là lệnh truyền khẩn cấp phải lên đường và công bố Tin Mừng. Đây là lệnh sai đi có tính nền tảng và yếu tính nhất cho Giáo Hội.Thánh Phaolô nói: “...Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10:9). Điều này dẫn tới lời huấn giáo lên đường và công bố Tin Mừng. Tương tự như thế, Thánh Phêrô công bố trong Cv 4:12: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”. Đó là hai bản văn đáng lưu ý hơn trong nhiều bản văn xem ra đòi hỏi phải có đức tin minh nhiên vào Chúa Giêsu Kitô để được cứu rỗi. Một đức tin như thế dẫn tới phép rửa như việc được bao gồm về bí tích vào cộng đồng những người được cứu rỗi. Với thời gian, điều này dẫn tới niềm tin cho rằng không có ơn cứu rỗi bên ngoài Giáo Hội. Hiện vẫn còn những người duy trì điều này, nhưng lối giải thích cứng ngắc về nó đã sụp đổ từ lâu với “phép rửa bằng máu” (phúc tử đạo) và “phép rửa bằng lòng ước muốn” (lương tâm tốt).

Điều gì đã diễn ra? Trước nhất, có lẽ khẳng định nền tảng nhất của đức tin Kitô giáo là: Thiên Chúa muốn ơn cứu rỗi cho mọi người (1Tm 2:4-6; xem câu hỏi 61). Chính Chúa Giêsu không loại trừ ai khỏi Nước Thiên Chúa. Bất cứ sau này người ta 
nói điều gì về Người, cũng không thể bác bỏ sự thật nền tảng này. Thứ hai, các trước tác Tân Ước phản ảnh sự chờ mong đầy phấn khởi cho rằng Tin Mừng sẽ được rao giảng đến tận cùng trái đất (Cv 1:8; 28:30) và tận cùng này sắp sửa diễn ra nay mai. Chúng ta có thể đọc các bản văn đã trích dẫn trên đây một cách tích cực như khẳng định sự cứu rỗi trong Chúa Kitô mà không rút ra kết luận tiêu cực cho rằng những người chưa nghe về Chúa Kitô sẽ không được cứu rỗi. Thứ ba, chúng ta đang sống trong thế kỷ 20, chúng ta ý thức một cách sắc nét nhiều hơn tính đa dạng và phức tạp của lịch sử nhân loại. Thực tại này qui định cách chúng ta giải thích các bản văn Kinh Thánh. Liệu chúng ta có muốn tin rằng Đấng Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giêsu lại có thể võ đoán loại trừ hàng hà sa số những người không do lỗi riêng của họ trong việc không bao giờ nghe biết về Chúa Kitô không? Tình trạng sau cùng của mỗi nhân vị chỉ có Thiên Chúa mới biết được và ta nên để cho Thiên Chúa phán xử.Cộng đồng các môn đệ mà chúng ta gọi là Giáo Hội, một lần nữa, chỉ có thể làm chứng qua việc cam kết bản thân và cộng đồng sống cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.

http://vietcatholicnews.org/News/Home/Article/285370