Trang

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020

Niên lịch phụng vụ chu kỳ năm B.

 Niên lịch phụng vụ chu kỳ năm B.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Lịch phụng vụ trong Giáo Hội Công Giáo khởi đầu hằng năm vào chúa nhật thứ nhất mùa Vọng cho tới hết chúa nhật 34. mùa thường niên, và chia làm ba chu kỳ: A,B,C.

Từ chúa nhật 01. mùa Vọng ngày 29.11.2020 cho đến chúa nhật 34. mùa thường niên ngày 21.11.2021 là chu kỳ phụng vụ năm B. Trong chu kỳ phụng vụ năm B phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo Thánh sử Marco được chọn đọc vào các ngày lễ chúa nhật mùa thường niên.

Thánh sử Marco là ai?

Tác gỉa viết phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Marco ngay từ thời Giáo hội sơ khai có tên là Gioan Marco. Theo truyền thống từ thời Giáo hội lúc ban đầu, Marco và Thánh Tông đồ Phero có liên hệ mật thiết với nhau. Giám mục Papias thành Hieropolis vào năm 120. sau Chúa giáng sinh, cho rằng Marco là học trò, người thông ngôn những bài giảng của Thánh Phero từ tiếng Do Thái sang tiếng Hylạp, tiếng Latinh cho những người lương dân thời đó, mà họ không thuộc về vùng nền văn hóa Do Thái giáo. Marco viết lại những gì Thánh Phero đã nghe Chúa Giêsu rao giảng khi xưa, lúc sống theo Chúa Giêsu ba năm.

Người ta phỏng đoán Marco đã viết Phúc âm ở Roma hay trong vùng của đế quốc Roma.

Thời điểm Marco viết phúc âm được cho là vào năm 65. sau Chúa giáng sinh, trước khi thành Gierusalem bị quân đội Roma xâm chiếm tàn phá năm 70. sau Chúa giáng sinh. Nhưng Giáo sư Kinh Thánh Gioakim Gnilka cho rằng sau khi thành Gierusalem năm 70. bị tàn phá, phúc âm theo Marco mới được viết ra.

Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu, như cuốn sách giáo lý. Và cuốn sách giáo lý đó không chỉ là sách lịch sử, nhưng còn chứa đựng ý nghĩa thần học đạo đức nữa.

Lúc khởi đầu

Thánh sử Marco viết phúc âm Chúa Giêsu bắt đầu với dòng chữ: „Khởi đầu tin mừng Đức Giêsu Kitô, con Thiên Chúa“ ( Mc 1,1)

Dòng chữ xác định này nhắc nhớ đến sách Sáng thế :“ Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.“ ( St 1,1).

Và như thế, Thánh sử Marco muốn đặt Chúa Giêsu là nền tảng một khởi đầu mới. Chúa Giêsu tạo dựng con người mới và thực hiện ơn cứu độ mới. Đó là tin mừng Chúa Giêsu Kiô theo thánh sử Marco muốn loan báo mang niềm vui cho con người.

Thánh sử Marco là người thứ nhất viết sách phúc âm tường thuật về Chúa Giêsu. Sách phúc âm có nghĩa là sách tin mừng.

Trong thời cựu ước phần lớn các Thiên Thần là những sứ gỉa loan báo tin mừng cho con người. Họ là những sứ gỉa mang tin vui, loan báo sự chiến thắng của Thiên Chúa trên các thù đich.

Trong thời đế quốc Roma những chiếu chỉ mệnh lệnh của hoàng đế được gọi là tin mừng. Và các vị hoàng đế được xưng tụng là người mang tin mừng đến cho dân chúng. Vì các vị hoàng đế mang phát đi lời hứa mang lại bình an hạnh phúc cho dân chúng.

Thánh sử Marco viết loan báo tin mừng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô mang đến một triều đại vương quốc mới. Trong đó Thiên Chúa ngự trị và con người cảm nhận sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng là bình an hạnh phúc cho đời sống con người.

Danh hiệu Con Thiên Chúa

Thánh sử Marco viết xưng tụng Chúa Giêsu Kitô trong tin mừng là „ Con Thiên Chúa“ ngay đầu sách tin mừng ( Mc 1,1). Và vào cuối tin mừng, khi Chúa Giêsu chết trên thập gía qua môi miệng của Viên đại đội trưởng nói lên danh xưng“ Qủa thật, người này là Con Thiên Chúa“ ( Mc 16,39).

Trong đạo Do Thái Vua được gọi là „ Con Thiên Chúa“, nhưng không phải như Thiên Chúa, mà thuộc về Thiên Chúa.

Chúa Giêsu Kitô thuộc về Thiên Chúa trong một cách thế đặc biệt khác thường, sát gần Thiên Chúa cách đặc biệt, vì có tràn đầy thần linh của Thiên Chúa.

Theo thần thoại văn hóa Hylạp danh xưng „ Con Thiên Chúa“ được hiểu nghiêng nhiều hơn về sự sinh ra bởi qua Thiên Chúa. Thần Zeus đã sinh sản nhiều con trai và con gái. Họ cũng được xưng tụng là „ những người con của Thiên Chúa“. Họ là tín hiệu truyền tin thần thánh của Thiên Chúa. Vì họ có nguồn gốc từ Thiên Chúa.

Theo triết học cổ xưa bên Hylạp hiểu „ Con Thiên Chúa „ là người qua nền tảng lý trí có nguồn gốc từ Thiên Chúa, và có mầm mống căn cơ giống nòi Thiên Chúa ngay trong dòng máu bản thân con người họ.

Danh xưng Chúa Giêsu Kitô „ Con Thiên Chúa“ có lẽ Thánh sử Marco nghiêng nhiều hơn theo ý nghĩa hiểu theo truyền thống Do Thái giáo.

Thánh sử Marco viết phúc âm cho những người Kitô hữu bên lương, họ là những người Hylạp có nền học thức văn hóa cao. Nên danh xưng này với họ có ý nghĩa nhiều hơn trong văn hóa thần thọai và triết học Hylạp.

Hình ảnh chim bồ câu

Thánh sử Marco ngay từ chương thứ nhất sách Tin mừng nói về phép Rửa của Thánh Gioan Tẩy gỉa trong hoang địa., để dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Và chính Chuá Giesu cũng đã xin nhận phép rửa của Thánh Gioan. Qua đó Marco muốn trình bày bản thể con người thật của Chúa Giesu được Thiên Chúa chứng thực xác nhận.

Phép Rửa Chúa Giêsu nhận lãnh khi đó đã trở thành biến cố ơn kêu gọi cá nhân của ngài: „ Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.“( Mc 1,10- 11).

Thông thường xưa nay, khi ai được Thiên Chúa kêu gọi, họ cảm nhận được tiếng kêu gọi âm thầm trong tâm hồn. Nhưng nơi Chúa Giêsu thì lại khác, ơn kêu gọi của ngài tai nghe mắt nhìn thấy tiếng của Thiên Chúa nói: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.“( Mc 1,10).

Tầng Trời mở ra để Thần Linh Thiên Chúa ngự đáp xuống. Biến cố này là sự trông mong chờ đợi nguyên thủy từ ngàn xưa của dân Israel. Họ hằng trông mong Thiên Chúa sau cùng dùng quyền năng mở tung màn trời ra, sai gửi Thần Linh của Chúa đáp ngự xuống, và con người được cứu thoát.

Hình ảnh chim bồ câu đáp ngự xuống lúc Chúa Giêsu chịu phép Rửa ở bờ sông Jordan, không là hình dạng như các nhà nghệ thuật sau này khắc vẽ trình bày. Nhưng Thánh sử Marco muốn căn cứ có thể nhiều hơn đến Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên mặt nước khi vũ trụ được tạo dựng. ( Sạch sáng Thế, 1,1-2)

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ mới nơi Chúa Giêsu. Đây là bước khởi đầu mới. Con người có hình dạng giống hình ảnh Thiên Chúa, mà ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên, và yêu thương qúi trọng. Hình ảnh này được trình bày rõ nét nổi bật trong phép rửa của Chúa Giêsu đã lãnh nhận. Chúa Giêsu là người như Thiên Chúa từ nguyên thủy đã tạo dựng nên và yêu thương.

Chúa Giêsu đã có cung cách nếp sống làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, và không như Adong khi xưa đã phạm tội quay lưng lại với Thiên Chúa.

Chim bồ câu trong tường thuật về đại hồng thủy thời Ông Noe là hình ảnh con chim bồ câu mang tin hòa bình, loan báo sự hòa giải giữa Thiên Chúa và con người ( Sách Sáng Thế 8, 6-11).

Trong nền văn hóa thần thoại Hylạp tin cho rằng chim bồ câu là con vật thánh hiện thân của nữ thần Aphrodite ( nữ Thần tình yêu và vẻ đẹp), một hình ảnh tượng trưng về tình yêu Thiên Chúa xuống trên con người.

Con đường sứ vụ Chúa Giêsu

Hình ảnh con đường sự vụ Chúa Giêsu là hình ảnh đậm nét nổi bật trong Tin mừng theo Thánh Marco. Con đường sứ vụ Chúa Giêsu khởi đầu với Thánh Gioan Tầy gỉa đi rao giảng làm phép Rửa dọn con đường cho Chúa Giêsu đến, và con đường sứ vụ của Chúa Giêsu chấm dứt khi Chúa sống lại đi đến Galileo trước chờ đợi các Tông đồ.

Con đường sứ vụ của Chúa Giêsu bao gồm những việc ngài đi rao giảng thực hành nước tình yêu Thiên Chúa, và sau cùng là con đường đi đến cuộc tử nạn trên thập gía. Con đường sứ vụ Chúa Giêsu là mẫu gương cho con đường các Tông đồ, cho những người tin theo Chúa.

Mặc khải từ trời cao

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao sinh xuống trần gian làm người. Biến cố giáng sinh này Thánh sử Marco không nói thuật đến trong Tin mừng. Nhưng ngay từ khởi đầu khi Chúa Giêsu đi ra rao giảng công khai, Thánh sử Marco đã lần lượt tường thuật lại mặc khải của Thiên Chúa Cha từ trời cao về bản chất nhân phẩm của Chúa Giêsu: khi Chúa Giêsu nhận phép Rửa của Thánh Gioan nơi bờ sông Jordan ( 1,11), biến cố biến hình trên núi Tabor ( 9,7), và khi Chúa Giêsu chết trên thập gía (15,34- 39. 16, 6. ).

Từ đầu sách tin mừng, rồi vào giữa sách Tin mừng và vào cuối sách Tin Mừng, Chúa Giêsu Kitô được trình bày qua sự mặc khải của Thiên Chúa Cha từ trời cao là Con Thiên Chúa, là người chiếu sáng sự vinh quang của Thiên Chúa, đem ánh sáng vào đêm tối trần gian vì tội lỗi.

Tin mừng Chúa Giêsu theo Thánh sử Marco loan báo cho mọi dân tộc nhân phẩm thiên tính của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.

Hình ảnh con sư tử trong Tin mừng Thánh Marco.

Thánh giáo phụ Hieronymus đã căn cứ theo nội dung của phúc âm sắp xếp Con Sư tử là hình ảnh biểu tượng cho phúc âm theo Thánh Marco. Vì phúc âm này khởi đầu với Thánh Gioan tiền hô rao giảng là tiếng hô trong sa mạc, Ông sống giữa thiên nhiên trong rừng hoang dã thú vật.

Thánh sử Marco được đặt cho hình ảnh biểu tượng con sư tử, vì khởi đầu thuật lại Chúa Giêsu ra đi rao gỉang nước Thiên Chúa loan báo thời thái bình, bò con và sư tử bên nằm cạnh nhau, cùng được chăn nuôi ăn trên đồng cỏ, và sư tử cũng ăn cỏ như chiên bò.

Ở thành phố Venezia bên nước Ý có vương cung thánh đường kính Thánh Marco thánh sử. Ngoài công trường nơi mặt tiền thánh đường có cây cột trụ cao, trên đó có tượng con sư tử mầu vàng có đôi cánh là hình ảnh biểu tượng cho Thánh Marco thánh sử phúc âm Chúa Giêsu.

Ở bên trong đền thờ Thánh Phero bên Vatican, nơi vị trí bàn thờ đức tin gian cung thánh, ở bốn góc có vẽ bốn hình biểu tượng 4 Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu. Thánh sử Marco được vẽ với hình con sư tử có đôi cánh và cuốn sách Phúc âm do ngài viết.

Và Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marco có 16 chương, là cuốn sách Tin mừng ngắn nhất trong bốn cuốn sách Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô: Thánh sử Mattheo viết Tin mừng với 28 chương, Thánh sử Luca viết Tin mừng với 24 chương, và Thánh sử Gioan viết Tin mừng với 21 chương.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Vietcatholic News

Đức Phanxicô: Ba điều các gia đình cần nhớ khi bắt đầu năm Phụng Vụ mới giữa đau thương của đại dịch

 Đức Phanxicô: Ba điều các gia đình cần nhớ khi bắt đầu năm Phụng Vụ mới giữa đau thương của đại dịch

J.B. Đặng Minh An dịch
 


Chúa Nhật 29 tháng 11 là Chúa Nhật đầu tiên của năm Phụng vụ. Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Vọng với bài Tin Mừng sau theo Thánh Máccô:

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!”

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và khác hành hương tụ tập trên quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha nói:


Hôm nay là Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Vọng, một năm phụng vụ mới bắt đầu. Trong đó, Giáo hội đánh dấu thời gian trôi qua với việc kỷ niệm các sự kiện chính trong cuộc đời của Chúa Giêsu và câu chuyện về ơn cứu độ. Khi làm như vậy, với tư cách là Mẹ, Giáo Hội soi sáng đường đời của chúng ta, hỗ trợ chúng ta trong công việc hàng ngày, và hướng dẫn chúng ta đến cuộc gặp gỡ cuối cùng với Chúa Kitô. Phụng Vụ hôm nay mời gọi chúng ta sống “mùa quan trọng” đầu tiên trong một năm Phụng Vụ, là Mùa Vọng. Mùa Vọng chuẩn bị chúng ta cho Mùa Giáng sinh, và do đó Mùa Vọng là một thời điểm mong đợi và là thời gian của niềm hy vọng. Một thời để kỳ vọng và hy vọng.

Thánh Phaolô (x. 1 Cr 1: 3-9) cho biết đối tượng mà chúng ta mong đợi. Đó là gì? Thưa: là “Sự tỏ hiện của Chúa” (câu 7). Thánh nhân mời gọi các Kitô hữu ở Côrinhtô và cả chúng ta ngày nay, hãy tập trung chú ý vào cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Đối với một Kitô hữu, điều quan trọng nhất là liên tục gặp gỡ Chúa, gần gũi với Chúa. Khi quen với việc gần gũi với Chúa của sự sống, chúng ta chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ, để được ở bên Chúa cho đến muôn đời. Và cuộc gặp gỡ chung cuộc này sẽ đến vào ngày tận thế. Nhưng Chúa đến mỗi ngày, để với ân sủng của Ngài, chúng ta có thể hoàn thành những việc lành phúc đức trong cuộc sống của chúng ta và trong cuộc sống của tha nhân. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa-đang- đến, đừng quên điều này: Thiên Chúa là Thiên Chúa đang đến, là Đấng liên tục đến. Sự chờ đợi của chúng ta sẽ không làm Ngài thất vọng! Chúa không bao giờ thất vọng. Có lẽ Ngài còn khiến chúng ta phải chờ đợi, Ngài còn khiến chúng ta phải đợi một lúc trong bóng tối để sự mong đợi của chúng ta chín muồi, nhưng Ngài không bao giờ làm chúng ta thất vọng. Chúa luôn đến, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Đôi khi Ngài không tỏ hiện chính mình, nhưng Ngài luôn đến. Ngài đã đến vào một thời điểm chính xác trong lịch sử và trở thành một phàm nhân để gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Lễ Chúa Giáng Sinh tưởng nhớ sự quang lâm lần đầu tiên của Chúa Giêsu trong lịch sử nhân loại; và Ngài sẽ đến vào thời cánh chung như một vị thẩm phán phổ quát; nhưng Ngài đến mỗi ngày để thăm dân Ngài, thăm mọi người nam nữ đón nhận Ngài trong Lời Chúa, trong các Bí tích, trong anh chị em của họ. Kinh Thánh cho chúng ta biết Chúa Giêsu đang ở trước cửa và gõ vào cửa nhà chúng ta hằng ngày. Người đang ở cánh cửa trái tim của chúng ta. Ngài đang gõ cửa. Anh chị em có biết lắng nghe Chúa là Đấng đang gõ cửa, Đấng đang đến thăm anh chị em hôm nay, Đấng đang gõ cửa trái tim anh chị em một cách khắc khoải, với một ý tưởng, với một sự linh hứng không? Ngài đã đến Bết-lê-hem, Ngài sẽ đến vào ngày tận thế, nhưng hằng ngày Ngài vẫn hằng luôn đến với chúng ta. Hãy cẩn thận, hãy nhìn vào những gì anh chị em cảm thấy trong lòng khi Chúa đang gõ cửa.

Chúng ta nhận thức rõ rằng cuộc sống được tạo nên bởi những thăng trầm, bởi ánh sáng và bóng tối. Mỗi người trong chúng ta đều trải qua những giây phút thất vọng, thất bại và lạc lõng. Hơn nữa, hoàn cảnh chúng ta đang sống, được đánh dấu bởi đại dịch, gây ra những lo lắng, sợ hãi và chán nản ở nhiều người; chúng ta có nguy cơ rơi vào bi quan, có nguy cơ rơi vào trong khép kín và thờ ơ. Chúng ta nên phản ứng như thế nào khi đối mặt với tất cả những điều này? Thánh Vịnh hôm nay gợi ý: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh Người.” (Tv 33: 20-21). Nói cách khác, một tâm hồn đang chờ đợi, đang trông đợi Chúa một cách tự tin, sẽ khiến chúng ta tìm thấy được sự an ủi và can đảm trong những giờ phút tăm tối của cuộc đời. Điều gì làm nảy sinh lòng can cảm và sự tự tin này? Những điều ấy đến từ đâu? Thưa: Chúng được sinh ra từ hy vọng. Và đó là hy vọng không ta làm thất vọng, đức cậy dẫn chúng ta tiến về trước, trong khi trông đợi cuộc gặp gỡ với Chúa.

Mùa Vọng là một tiếng gọi hãy hy vọng liên tục: Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử để dẫn dắt nhân loại đến mục tiêu cuối cùng và dẫn chúng ta đến sự viên mãn của lịch sử, là chính Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử nhân loại, Ngài là “Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa không ở đâu xa, Ngài luôn ở với chúng ta, đến mức Ngài thường gõ cửa trái tim chúng ta. Chúa đi bên cạnh nâng đỡ chúng ta. Chúa không bỏ rơi chúng ta; Ngài đồng hành với chúng ta qua những biến cố của cuộc đời để giúp chúng ta khám phá ý nghĩa của cuộc hành trình, ý nghĩa của cuộc sống hàng ngày, để cho chúng ta can đảm khi chúng ta bị nản lòng hoặc khi chúng ta phải chịu đau khổ. Giữa những giông tố của cuộc đời, Thiên Chúa vẫn luôn dang cánh tay ra với chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi những mối đe dọa. Điều này thật là đẹp! Trong sách Đệ Nhị Luật, có một đoạn văn rất hay, trong đó vị tiên tri nói với dân chúng rằng: “Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người hay không?” (Đnl 4:7) Không có một quốc gia nào được như thế cả, chỉ chúng ta mới có ân huệ này là được Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta trông đợi Thiên Chúa, chúng ta hy vọng rằng Ngài mạc khải Ngài cho chúng ta, nhưng Ngài cũng hy vọng rằng chúng ta mở lòng chính mình ra với Ngài!

Xin Mẹ Maria Rất Thánh, người phụ nữ hằng mong đợi Chúa đến, đồng hành với chúng ta trong những bước đầu tiên trong năm phụng vụ mới này và giúp chúng ta chu toàn nhiệm vụ môn đệ của Chúa Giêsu đã được Thánh Tông đồ Phêrô chỉ ra. Và nhiệm vụ ấy là gì? Thưa: là giải thích niềm hy vọng trong chúng ta với thế giới (x. 1 Pt 3:15).

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói tiếp:

Anh chị em thân mến,

Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi của tôi với những người dân Trung Mỹ, nơi bị ảnh hưởng bởi những cơn bão mạnh. Đặc biệt, tôi nhớ đến Đảo San Andrés, Providencia, và Santa Catalina, cũng như bờ biển Thái Bình Dương ở phía bắc Colombia. Tôi cầu nguyện cho tất cả các quốc gia đang phải gánh chịu hậu quả của những thảm họa này.

Tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt tới anh chị em, những tín hữu của Rôma, và những người hành hương từ nhiều quốc gia khác nhau. Đặc biệt, tôi gửi lời chào đến những người, rất tiếc là với số lượng rất hạn chế, đã đến nhân dịp lễ tấn phong cho các Tân Hồng Y diễn ra vào chiều qua. Chúng ta hãy cầu nguyện cho 13 thành viên mới của Hồng Y Đoàn.

Xin chúc tất cả các bạn một ngày Chúa Nhật và một hành trình Mùa Vọng đầy may mắn. Chúng ta hãy cố gắng mang lại những điều tốt đẹp ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn mà đại dịch đang áp đặt lên chúng ta: chúng ta cần tỉnh táo hơn, thận trọng và tôn trọng những người có thể gặp khó khăn, và cần những lời cầu nguyện trong gia đình, với sự đơn sơ. Ba điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều: tỉnh táo hơn, kín đáo và tôn trọng những người có thể gặp khó khăn, và rất quan trọng, một số khoảnh khắc cầu nguyện trong gia đình, với sự đơn sơ. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Hãy tận hưởng bữa trưa của bạn và xin chào tạm biệt.

Vietcatholic News

Hai mươi câu trích để hiểu “Một thời để thay đổi”

 Hai mươi câu trích để hiểu “Một thời để thay đổi


cath.ch, I. Media, 2020-11-25


Trong quyển sách mới nhất “Một thời để thay đổi”, Đức Phanxicô viết với nhà báo người Anh Austen Ivereigh, ngài đề cập đến nhiều vấn đề xã hội và giáo hội. Coronavirus, vị trí phụ nữ, phá thai, lạm dụng, và cả vấn đề người Duy Ngô Nhĩ … Hãng tin I. Media chọn 20 câu trích dẫn chính.

1- Giáo hội đối diện với cách ly

“Tôi thực sự ấn tượng với cách mà rất nhiều người trong Giáo hội phản ứng trước đại dịch khi đi tìm những hình thức gần gũi mới với mọi người mà vẫn tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp giãn cách xã hội […]. Đây là thời kỳ Giáo hội buộc phải chia cắt, nhưng cũng là thời điểm chúng ta có thể đến với nhau theo những cách mới mẻ và sáng tạo với tư cách là con dân của Chúa”.

2- Chống lại phân biệt chủng tộc và tâm lý loại trừ

“Chúa Giêsu thách thức tâm lý mà trong trường hợp xấu nhất dẫn đến việc dùng các thuật ngữ phân biệt chủng tộc, điều này là xem thường những người không thuộc vào một nhóm đặc biệt, mô tả người di cư như mối đe dọa và dựng lên các bức tường để thống trị và loại trừ”.

3- Tìm hiểu thu nhập cơ bản chung

“Tôi nghĩ đã đến lúc phải tìm hiểu các khái niệm như Thu nhập cơ bản chung (UBI), còn được gọi là thuế thu nhập âm (INR): một chi trả khoán một lần, vô điều kiện cho mọi công dân, có thể được thanh toán qua hệ thống thuế”.

4- Tình trạng bấp bênh của những người bị bứng gốc rễ

“Tôi lo ngại về một loại hình thức văn hóa truyền thông tìm cách nhổ tận gốc những người trẻ nhất ra khỏi truyền thống phong phú nhất của họ, tước bỏ di sản lịch sử, văn hóa và tôn giáo của họ. Một người bị nhổ gốc rễ rất dễ bị chi phối”.

5- Văn hóa sự sống

“Nếu bạn nghĩ rằng phá thai, an tử và án tử hình là những chuyện chấp nhận được, trái tim bạn sẽ khó lo lắng cho việc làm ô nhiễm các dòng sông và phá hủy rừng nhiệt đới.”

6- Từ chối cuộc sống sắp đến và người nhập cư

“Với việc phá thai cũng như việc đóng cửa biên giới, chúng ta từ chối sự điều chỉnh lại các ưu tiên của mình, hy sinh mạng sống con người để bảo vệ an ninh kinh tế hay để xoa dịu nỗi sợ hãi, tránh làm cha mẹ vì sợ gián đoạn cuộc sống của mình. […] Tôi thường tự đặt cho mình hai câu hỏi: loại bỏ một mạng sống để giải quyết một vấn đề có đúng không? Thuê một kẻ sát nhân để giải quyết một vấn đề có đúng không?”

7- Nét đẹp của tính đồng nghị

“Trong năng động của thượng hội đồng, các khác biệt được thể hiện và mài dũa cho đến khi có được đồng thuận, nếu không thì cũng phải có một thỏa thuận, ít nhất là một hài hòa giữ được các sắc thái tốt đẹp của những khác biệt của nó. Đây là trường hợp của âm nhạc: bảy nốt với các nốt thăng nốt trầm, chúng ta tạo một bản hòa âm làm nổi bật nét đặc trưng của mỗi nốt. Đây chính là nét đẹp của nó: sự hài hòa có thể là kết quả của những chuyện phức tạp, phong phú và bất ngờ. Trong Giáo hội, chính Chúa Thánh Thần là Đấng tạo nên sự hòa hợp này”.

8- Các lạm dụng trong các cộng đồng hậu Vatican II

“Trong lịch sử Giáo Hội, luôn có những nhóm theo tà giáo, vì bị cám dỗ kiêu ngạo, cho mình cao hơn Nhiệm Thể Chúa Kitô. Kể từ Công đồng Vatican II (1962-1965), vào thời đại chúng ta, chúng ta đã có những hệ tư tưởng cách mạng, sau đó là những hệ tư tưởng duy tân. Trong mọi trường hợp, điều đặc trưng của họ là sự cứng nhắc. […] Đằng sau mỗi nhóm tìm cách áp đặt ý thức hệ của mình lên Giáo hội, chúng ta nhận thấy họ có sự cứng nhắc giống nhau. Không sớm thì muộn sẽ có một tiết lộ gây sốc về tình dục, tiền bạc và kiểm soát lương tâm.”

9- Phụ nữ và chủ nghĩa giáo quyền

“Có lẽ vì chủ nghĩa giáo quyền, sự băng hoại của chức tư tế, nên nhiều người lầm tưởng ban lãnh đạo Giáo hội chỉ là nam giới. Nhưng nếu chúng ta đến bất kỳ giáo phận nào trên thế giới, chúng ta sẽ thấy phụ nữ điều hành các cơ sở, trường học, bệnh viện, nhiều cơ quan, nhiều chương trình khác nhau […]. Nói rằng họ không thực sự cai trị vì họ không phải là linh mục, đó là giáo quyền và thiếu tôn trọng”.

10- Bảo vệ khỏi tất cả các loại vi rút

“Chúng ta hãy nhìn vào tình trạng của chúng ta bây giờ: chúng ta mang khẩu trang để bảo vệ bản thân và bảo vệ người khác khỏi một loại vi rút mà chúng ta không nhìn thấy. Nhưng còn tất cả những loại vi rút vô hình khác chúng ta cần phải bảo vệ thì sao? Chúng ta sẽ hành xử như thế nào trước các đại dịch tiềm ẩn của thế giới này, đại dịch đói, bạo lực và biến đổi khí hậu?”

11- Tiên tri giả

“Hãy coi chừng những người ngày nay tuyên bố dự đoán tương lai theo kiểu rõ ràng và chắc chắn. Trong các cuộc khủng hoảng luôn xuất hiện các “tiên tri giả”, những kẻ phớt lờ quyền tự do xây dựng tương lai của người dân, những kẻ khép kín trước hành động của Thiên Chúa […]. Thiên Chúa hoạt động trong sự đơn sơ của những trái tim rộng mở, trong sự kiên nhẫn của những ai biết dừng lại cho đến khi họ thấy rõ điều đó”.

12- Truyền thống không phải là viện bảo tàng

“Truyền thống không phải là viện bảo tàng, tôn giáo chân chính không phải là tủ đông đá, giáo lý không tĩnh tại nhưng lớn lên và phát triển, giống như cây cối, cây lớn lên, luôn mang hoa trái nhưng vẫn cũng là một cây. Một số người cho rằng Chúa đã nói một lần cho tất cả – họ gần như luôn độc quyền, theo cách và theo hình thức mà họ biết rõ.”

13- Giáo hoàng và ma quỷ

“Sự trở lại của ma quỷ dưới hình thức cám dỗ có một truyền thống lâu đời trong Giáo hội. Chẳng hạn, chúng ta nghĩ đến các cám dỗ của Thánh Antôn, của Thánh Têrêxa Hài Đồng xin rảy nước thánh vào người vì ma quỷ vây quanh mình, hy vọng sẽ không bị vấp ngã. Ở tuổi của tôi, tôi phải có cặp mắt kiếng đặc biệt để xem khi nào ma quỷ vây quanh tôi làm cho tôi vấp vào cuối đời, bởi vì tôi đang ở nơi này: Tôi đang ở cuối cuộc đời.”

14- Sự cằn cỗi của hạnh phúc

“Hoa trái của hạnh phúc ích kỷ là sự cằn cỗi. Mùa đông nhân khẩu học mà nhiều nước phương Tây hiện đang trải qua là thành quả của nền văn hóa an sinh thoải mái này. Thật khó để mọi người  hiểu thế nào là “hạnh phúc” (benessere) là điều đáng mơ ước, nhưng lại là trạng thái mà chúng ta rất cần để được cứu.”

15- Hệ sinh thái không phải là một ý thức hệ

“Hệ sinh thái là một nhận thức, không phải hệ tư tưởng. Có những phong trào xanh biến kinh nghiệm sinh thái thành hệ tư tưởng, nhưng ý thức sinh thái chỉ là: ý thức, không phải hệ tư tưởng. Đó là nhận thức về những gì đang bị đe dọa cho  số phận của nhân loại.”

16- Lịch sử là những gì nó là

“Lịch sử là những gì nó là, chứ không phải những gì chúng ta muốn nó là; và khi chúng ta cố gắng che giấu nó dưới một ý thức hệ, chúng ta làm mờ đi nhận thức về những gì bây giờ chúng ta cần phải thay đổi để có một tương lai tốt đẹp hơn.”

17- Phê phán việc chính trị hóa các phong trào phò sự sống

“Thật không may, một lần nữa, chúng ta không thể bỏ qua những người trong Giáo hội rơi vào trạng thái tâm trí này. Một số linh mục và giáo dân đã đánh mất ý thức liên đới và huynh đệ với những anh chị em còn lại của họ. Họ đã biến nó thành trận chiến văn hóa mà trên thực tế là một nỗ lực để đảm bảo việc bảo vệ sự sống.”

18- Lạm dụng và #Metoo

“Không được quyền lạm dụng nữa – dù là tình dục, quyền lực hay lương tâm – dù bên trong hay bên ngoài Giáo hội. Chúng ta thấy cũng cùng một sự thức tỉnh này trong toàn xã hội: trong phong trào #MeToo, trong nhiều vụ bê bối xung quanh các chính trị gia quyền lực và giàu có, các ông trùm truyền thông và doanh nhân – những kẻ săn mồi trên chính người dân của họ”.

19- Lần đầu tiên Đức Phanxicô tố cáo những cuộc đàn áp chống lại người Duy Ngô Nhĩ

“Tôi thường nghĩ đến những dân tộc bị bức hại: người Duy Ngô Nhĩ, người nghèo Uyghur, người Yazidis – những gì nhóm hồi giáo cực đoan làm cho họ thì thật tàn nhẫn – hoặc các tín hữu kitô ở Ai Cập và Pakistan, họ bị chết vì bom nổ khi đang cầu nguyện trong nhà thờ.”

20- Lối sống cần tránh để có thể dấn thân

“Nếu bạn có khuynh hướng ăn ngon, đi xe sang trọng và những thứ tương tự, bạn đừng đến gần các phong trào bình dân và chính trị (và, làm ơn, cũng đừng vào chủng viện). Một lối sống thanh đạm và khiêm tốn hiến thân phục vụ thì đáng giá hơn có hàng ngàn người theo dõi mình trên các trang mạng xã hội.”

Marta An Nguyễn dịch

http://phanxico.vn/2020/11/30/hai-muoi-cau-trich-de-hieu-mot-thoi-de-thay-doi/

Lời mời gọi trưởng thành – Khóc cho thành Giêrusalem

 Lời mời gọi trưởng thành – Khóc cho thành Giêrusalem

Ronald Rolheiser, 2020-11-23

Trưởng thành có nhiều mức độ khác nhau. Trưởng thành cơ bản được định nghĩa chính yếu là phải vượt qua tính ích kỷ bản năng mà chúng ta được sinh ra, để bây giờ động lực và hành động của chúng ta được định hình qua nhu cầu của người khác chứ không chỉ qua nhu cầu của chúng ta. Đó là mức tối thiểu cơ bản, mức tối thiểu để được trưởng thành. Sau mức độ này, còn có các mức độ và trình độ tùy theo mức độ động cơ và hành động của chúng ta là vị tha hay vị kỷ.

Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta có các mức độ trưởng thành ngày càng sâu sắc hơn, dù đôi khi chúng ta có thể bỏ lỡ lời mời vì nó được thể hiện một cách tinh tế chứ không như lời mời đạo đức được truyền đạt một cách rõ ràng. Một lời mời tinh tế, nhưng rất sâu sắc để có được một mức độ trưởng thành cao hơn như việc Chúa Giêsu khóc cho thành Giêrusalem. Có gì bên trong hình ảnh này?

Và đây là hình ảnh và khung bối cảnh của nó. Chúa Giêsu vừa bị bác bỏ, cả về con người lẫn thông điệp của Ngài và Ngài thấy rõ nỗi đau mà người dân sẽ gánh chịu do sự từ chối này. Phản ứng của ngài là gì? Ngài có phản ứng theo cách mà hầu hết chúng ta thường nghĩ: “Quỷ tha ma bắt! Tôi hy vọng bạn gánh đủ toàn bộ hậu quả của chính sự ngu ngốc này của bạn!” Không. Ngài khóc, giống như cha mẹ đối xử với đứa con ương ngạnh bằng tình yêu; ngài mong trong từng thớ thịt, có thể cứu con mình khỏi các hệ quả của các lựa chọn không tốt của nó. Ngài cảm nhận được vết thương của con cái hơn là vui vẻ nhìn nỗi đau của chúng.

Ở đây có một thách thức kép. Đầu tiên là vấn đề cá nhân: chúng ta vui mừng khi những người từ chối lời khuyên của chúng ta đau khổ vì sự sai trái của họ hay chúng ta khóc trong lòng vì nỗi đau mà họ đã tự mang lại? Khi chúng ta thấy các hệ quả trong cuộc sống của những người có các chọn lựa không đúng, dù đó là do vô trách nhiệm, do lười biếng, do ma túy, tình dục, phá thai, do ý thức hệ, do thái độ chống tôn giáo, hoặc do ý xấu, chúng ta có vui mừng khi các lựa chọn bắt đầu cắn họ như rắn cắn (Này, đã làm thì ráng chịu!) hay chúng ta khóc vì họ, vì bất hạnh của họ?

Phải thừa nhận, thật khó để không vui khi thấy người từ chối lời khuyên của mình bị lãnh đủ với quyết định cứng đầu của họ. Đó là cách hoạt động tự nhiên của  trái tim, vì thế sự đồng cảm có thể đòi hỏi một mức độ trưởng thành rất cao. Ví dụ, trong đại dịch Covid-19, các chuyên gia y tế (hầu như không có ngoại lệ) yêu cầu chúng ta mang khẩu trang để bảo vệ người khác và bảo vệ chính mình. Phản ứng tự phát khi chúng ta thấy ai coi thường cảnh báo này, chúng ta có nghĩ họ thông minh hơn bác sĩ, không mang khẩu trang và sau đó bị nhiễm vi-rút không? Chúng ta có vui thầm khi thấy họ phải gánh hậu quả việc họ làm hay chúng ta, một cách ẩn dụ, “khóc cho thành Giêrusalem” không?”

Ngoài thách thức đưa ra cho mỗi chúng ta để tiến tới một mức độ trưởng thành cao hơn, hình ảnh này còn chứa đựng một thách thức mục vụ quan trọng đối với Giáo hội: trong tư cách Giáo hội, làm thế nào chúng ta thấy một thế giới thế tục hóa đã khước từ nhiều niềm tin và giá trị của chúng ta? Khi chúng ta thấy các hệ quả thế giới đang phải trả cho điều này, chúng ta vui mừng hay thông cảm? Chúng ta có thấy thế giới thế tục với tất cả những vấn đề mà nó đang tự gây ra do từ chối một số giá trị Tin Mừng như một đối thủ (người mà chúng ta cần bảo vệ cho chính chúng ta) hay như đứa con đau khổ của mình? Nếu bạn là cha mẹ hoặc ông bà đang đau khổ vì đứa con hay đứa cháu chướng khí, bạn sẽ có thể hiểu ý nghĩa của “khóc cho Giêrusalem”.

Hơn nữa, cuộc đấu tranh để “khóc” cho thế giới thế tục (hoặc với bất cứ ai từ chối các giá trị chúng ta bảo vệ) còn bị làm trầm trọng hơn vì một động lực khác chiến đấu chống lại sự cảm thông. Trong chúng ta có một khuynh hướng cảm xúc và tâm lý sai lệch hoạt động theo cách này. Bất cứ khi nào chúng ta bị tổn thương nặng nề, chúng ta cần phải đổ lỗi cho ai đó, cần phải tức giận chống ai đó và cần phải đả kích ai đó. Và bạn biết ai là người chúng ta luôn chọn để đổ lỗi không? Một người mà chúng ta cảm thấy đủ an toàn để làm tổn thương vì chúng ta biết họ đủ trưởng thành để không trả đũa lại!

Có rất nhiều chỉ trích Giáo hội ngày nay. Đúng, có rất nhiều lý do chính đáng để chỉ trích. Do các thiếu sót của Giáo hội, một phần của sự thù địch này là chính đáng; nhưng một số sự thù địch thường vượt ra ngoài những gì được chứng minh. Cùng với sự tức giận chính đáng, đôi khi cũng có rất nhiều tức giận vô cớ, tự nguyện. Phản ứng của chúng ta trước những tức giận vô cớ và lời buộc tội không công bằng đó là gì? Chúng ta có phản ứng bằng trả đũa không? “Anh vượt giới hạn rồi, đi chỗ khác mà nổi giận!”Hay là, như Chúa Giêsu khóc cho thành Giêrusalem, chúng ta đáp lại tức giận và buộc tội bất công bằng nước mắt cảm thông và lời cầu nguyện rằng một thế giới đang giận dữ với chúng ta sẽ được tha thứ cho các lựa chọn không đúng của họ không?

Triết gia Soren Kierkegaard đã viết câu nổi tiếng: Chúa Giêsu muốn có đồ đệ, Ngài không muốn có người ngưỡng mộ Ngài! Lời khôn ngoan. Trong phản ứng của Chúa Giêsu trước sự từ chối mình, khi Ngài khóc cho thành Giêrusalem, chúng ta thấy sự tinh tế trong mức độ trưởng thành con người. Và chúng ta được kêu gọi trưởng thành trong tư cách cá nhân cũng như trong tư cách cộng đồng giáo hội. Chúng ta cũng thấy đây là trái tim rộng lớn cảm nhận được nỗi đau của người khác, ngay cả nỗi đau của người từ chối mình.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

http://phanxico.vn/2020/11/29/loi-moi-goi-truong-thanh-khoc-cho-thanh-gierusalem/

Bạn có so sánh các con của bạn với nhau không?

 

Bạn có so sánh các con của bạn với nhau không?

 
  •  
  •  


BẠN CÓ SO SÁNH CÁC CON CỦA BẠN VỚI NHAU KHÔNG?

Phêrô Phạm Văn Trung tổng hợp từ:
aleteia.org/cp1/2020/11/23
aleteia.org/2020/10/03

WHĐ (30.11.2020) – Chiêm ngưỡng sự đa dạng trong cuộc sống của các thánh có thể giúp bạn coi trọng tính độc đáo của mỗi đứa trẻ.

Khi nhìn vào các vị thánh, chúng ta bị ấn tượng bởi sự đa dạng vô cùng của các ngài; không có hai vị nào giống nhau. Điều này cho chúng ta thấy rằng ân sủng của Thiên Chúa không bóp chết bản chất con người, mà là làm cho nó thành hiện thực. Mỗi màu của một bảng màu vô hạn dường như phát ra ánh sáng độc đáo của riêng nó. Ý niệm này rất có giá trị đối với việc nuôi dạy con cái của chúng ta. Sự thánh thiện không tạo ra sự sao chép giống nhau theo kiểu nhân bản vô tính, và cách cha mẹ nhìn con cái của mình sẽ phong phú hơn khi nhìn chúng qua con mắt của Thiên Chúa. Quan điểm này sẽ giúp chúng ta không rơi vào hy vọng sai lệch rằng một đứa trẻ sẽ giống đứa khác, hoặc giống chúng ta.

Học cách nhìn người khác bằng con mắt của Chúa

Đón nhận cuộc sống không chỉ là trao ban cuộc sống; mà cũng là hoàn toàn thuận theo ân sủng riêng của mỗi đứa con và thậm chí tích cực tìm kiếm ân sủng đó. Sự tự do của con cái nẩy sinh từ sự tự do sẵn có của cha mẹ. Và dấu hiệu của sự tự do nội tâm này là niềm vui mà mỗi người trong chúng ta cảm thấy khi thấy người khác sinh hoa trái độc đáo của họ.

Chúng ta có thể để cho đứa con, và thậm chí để nhiều hơn cho đứa con ở lứa tuổi vị thành niên, biết rằng chúng ta cảm nhận những gì độc đáo ở chúng và rằng chúng ta yêu những gì làm cho chúng trở nên độc đáo. Và chúng ta có thể làm điều này mà không cần so sánh chúng với các anh chị em của chúng ở khía cạnh “tốt hơn…” hoặc “tệ hơn…” Điều này sẽ gieo mầm niềm tin cho đứa trẻ để tìm ra con đường của chính mình. Nhưng để điều này không trở thành một bài tập công thức, chúng ta cần học cách nhìn con cái chúng ta bằng đôi mắt của Thiên Chúa, kiên nhẫn chờ đợi sự biểu lộ thánh thiện độc đáo nhất của chúng. Chúng ta càng mong muốn điều này, chúng ta càng ít áp đặt các tiêu chuẩn so sánh lên chúng [Linh mục Tu viện trưởng Vincent de Mello].

MỘT GƯƠNG MẪU

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho chúng ta cơ hội tuyệt hảo để suy ngẫm về cung cách mà thánh nữ trở thành một người thánh thiện và tuyệt vời như vậy. 

Chính những lựa chọn dù lớn hay nhỏ của thánh nữ đã quyết định hướng đi của cuộc đời của chị thánh, nhưng kỹ năng nuôi dạy con cái của cha mẹ thánh nữ, ông Louis và bà Zélie, đã đóng góp rất nhiều vào con người của chị thánh. Ông Louis và bà Zélie không chỉ nuôi dạy Têrêsa, mà còn có tám người con khác - năm người đã trưởng thành, tất cả đều trở thành nữ tu.

Mặc dù ông Louis và bà Zelie đã sống cách đây một thế kỷ, nhưng có rất nhiều điều cần học hỏi từ các ngài để có thể thích nghi với việc nuôi dạy con cái hiện nay.

1. TRÂN TRỌNG NHỮNG ĐIỀU NHỎ BÉ

Được biết đến với cái tên “Bông hoa nhỏ”, Têrêsa luôn tâm niệm và biết ơn những báu vật nhỏ bé của cuộc đời. Khuyến khích con bạn trân trọng những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống - cho dù đó là con bọ rùa bò trên tay, đi dạo trong công viên, quả táo mới hái hay lòng tốt của hàng xóm. Hãy chắc chắn rằng bạn nhắc nhở con cái của bạn rằng đây là tất cả những món quà từ Chúa cần được nâng niu.

2. TRÂN TRỌNG ANH CHỊ EM

Têrêsa là một trong chín người con, mặc dù chỉ có năm cô con gái còn sống trong thời thơ ấu và sau đó trở thành nữ tu. Các chị em rất thân thiết, như những bức thư giữa bà Zélie và những người thân yêu của bà cho thấy. Thật may mắn khi các cô gái có một mối quan hệ thân thiết như vậy vì khi bà Zélie qua đời (Têrêsa mới 4 tuổi), các chị của cô đã đóng vai trò là “mẹ”. Nếu bạn có nhiều con, hãy giúp chúng phát triển mối quan hệ với anh chị em của chúng để chúng có mối liên kết bền chặt giúp đỡ chúng lâu dài sau khi bạn qua đời.

3. LUÔN DÀNH CHỖ CHO TÌNH CẢM

Gia đình ông bà Martins là một gia đình giàu tình cảm, ông Louis đặt cho các cô gái của mình những cái tên con cưng dễ thương. Têrêsa thực sự là "Petite Reine", hay nữ hoàng bé nhỏ. Mặc dù Têrêsa không sống với gia đình trong thời thơ ấu vì bệnh tật - cô được gửi đến sống với một bảo mẫu thiếu kinh nghiệm - khi cô trở về lúc 15 tháng, cô đã được chào đón với nhiều tình cảm. Đừng ngại dành bao bọc con bạn bằng tình cảm và giúp chúng coi trọng tình cảm vì biết rằng tình yêu thương này bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Tình cảm được thể hiện và được cảm nhận sẽ giúp một đứa trẻ cảm thấy an tâm và được yêu thương suốt một chặng đường dài. 

4. DẪN LỐI BẰNG GƯƠNG SÁNG

Gia đình Martins đối mặt với nhiều thất vọng trong cuộc sống của họ nhưng họ không bao giờ bỏ cuộc. Cô Zélie có mong muốn bước vào đời sống tu trì, nhưng mẹ bề trên đã thuyết phục rằng cô không phù hợp. Mặc dù thất vọng, cô đã nỗ lực hết mình để trở thành một nhà sản xuất ren xuất sắc, và đã thành lập doanh nghiệp ở tuổi 22. Anh Louis, từng muốn trở thành một kinh sĩ dòng tu nhưng không thể tham gia cộng đoàn do không biết tiếng Latinh. anh tiếp tục kinh doanh sản xuất đồng hồ và trang sức thành công, cuối cùng anh đã ký hợp đồng để cùng vợ tham gia việc kinh doanh của bà. Hãy chỉ cho con bạn cách bạn phải vượt qua những thất vọng trong cuộc sống, và mở lòng ra để đi theo một con đường khác do Chúa hướng dẫn.

5. HÃY LUÔN HÌNH THÀNH CHÚNG TRONG NIỀM TIN

Gia đình Martins đã cho con cái của họ một cuộc sống lấy Chúa làm trung tâm. Mặc dù ông Louis mất vợ vì bệnh ung thư khi còn trẻ, cũng như mất 4 người con, nhưng ông vẫn tiếp tục nuôi dạy các con của mình tin tưởng vào Cha trên trời. Ngay trước khi Têrêsa bước vào đời sống tu trì, ông Louis đã đưa cô và chị gái Céline đến Rôma trong một chuyến hành hương. Điều này cho phép chị nữ tu tương lai của Dòng Cát Minh biết quý trọng Giáo Hội trong tất cả vinh quang của Giáo Hội, và ngay cả một số thất bại của Giáo Hội: Chính tại Rôma, Têrêsa nhận xét rằng các linh mục cần lời cầu nguyện, vì vậy cô bắt đầu dâng lời cầu nguyện và hy sinh cho các linh mục. Mặc dù bạn có thể không điều hành một cuộc hành hương đến Rôma, nhưng có rất nhiều đền thánh và địa điểm tôn giáo đáng ghé thăm và điều đó có thể giúp con bạn hiểu thêm về đức tin của chúng.

6. LÀM TỪ THIỆN

Trong khi gia đình Martins muốn chia sẻ kiến ​​thức tâm linh của họ, họ cũng muốn hành động theo hiểu biết đó. Họ cho con cái tham gia vào các công việc bác ái và vào những việc lảm tốt lành, đồng thời cho chúng hiểu rằng cần phải quan tâm đến những người kém may mắn. Ngay cả khi bạn bận bịu vắt chân lên cổ và không thể làm công việc tình nguyện được, vẫn có rất nhiều hành động tử tế bạn có thể thực hiện trong cuộc sống hàng ngày và là một tấm gương tuyệt vời cho con cái của bạn.

7. THỂ HIỆN NIỀM TIN

Gia đình Martins không chỉ có một đức tin phi thường vào Chúa, họ còn có niềm tin vào con cái của họ. Têrêsa là một đứa trẻ bướng bỉnh, biết mình muốn gì từ khi còn rất nhỏ. Mặc dù cô được cho biết rõ ràng rằng cô không thể vào tu Dòng Cát Minh, nhưng sự hết lòng của cha cô vì mục đích của cô đã cho phép cô gia nhập dòng tu khi mới 15 tuổi. Nhờ hiểu được mong muốn của con gái mình, ộng Louis có thể tin rằng con gái mình có khả năng thực hiện những bước phi thường như vậy khi còn trẻ. Cố gắng hiểu con bạn và những khao khát của chúng và giúp chúng đạt được mục tiêu của mình.

8. KIÊN NHẪN

Thật khó mà nghĩ về một vị thánh quan trọng như vậy lại có những khiếm khuyết khi còn nhỏ, nhưng Têrêsa là người đầu tiên thừa nhận rằng mình không phải là người dễ bảo nhất trong số những người con. Đầy xúc động, cô cảm thấy khó kiềm chế cảm xúc của mình và phải mất nhiều năm, cô mới học được cách tự chủ. Vậy mà, dù khó khăn nhưng bố mẹ vẫn là bàn tay dẫn đường, kiên nhẫn dẫn đường cho cô. Vì vậy, nếu bạn thấy mình đang bí lối với những đứa con đặc biệt nhạy cảm, thất thường hoặc hay gây ra náo động, hãy biết rằng bạn đang có bè bạn đồng hành tốt lành.


https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/ban-co-so-sanh-cac-con-cua-ban-voi-nhau-khong--41014

Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2020

3 Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa, Chương Hai

 Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa, Chương Hai

Vũ Văn An
 


Chúa Giêsu trong lịch sử văn hóa
Nguyên tác: Jaroslav Pelikan,
Bản tiếng Việt: Vũ Văn An





CHƯƠNG HAI: Khúc quanh lịch sử

Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Người đi, sinh bởi người đàn bà, sinh dưới lề luật.

Các người cùng thời của Chúa Giêsu biết Người là một rabbi, nhưng là một rabbi có thừa tác vụ và giáo huấn lấy “Tin mừng của Thiên Chúa ‘Thời kỳ đã mãn, và nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay; hãy thống hối và tin vào tin mừng’” (Mc 1:14-15) làm nội dung chính. Nhiều người trong số các môn đệ tiên khởi của Người thấy việc mô tả Người như một tiên tri là điều không thể tránh được, nhưng suy nghĩ thêm dẫn họ đến chỗ chuyên biệt hóa điều khác biệt trong sứ mệnh tiên tri của Người: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1:1-3).

“Thời kỳ đã mãn... vào thời sau hết này”: Điều hiển nhiên từ những phát biểu như thế của các thế hệ tín hữu Kitô tiên khởi, khi họ thi hành trách vụ đi tìm một ngôn ngữ không bị suy sụp dưới sức nặng của điều họ tin có ý nghĩa về việc Chúa Giêsu xuất hiện, họ đã thấy họ cần phải sáng chế ra một thứ văn phạm về lịch sử. Các phạm trù vũ trụ và không gian, chứ không phải chỉ là các phạm trù lịch sử và thời gian, đã được khẩn trương đưa vào để phục vụ trách vụ này; và trước khi trách vụ này được hoàn tất, các môn đệ của Chúa Kitô đã khéo lo liệu biến hình các hệ thống siêu hình mà họ đã thừa hưởng từ triết học Hy Lạp. “Nhưng”, như Charles Norris Cochrane, một trong các phân tích gia khiêu khích và sâu sắc nhất của diễn trình này, từng nhận định, “sự phân rẽ giữa Kitô Giáo và chủ nghĩa Cổ Điển không ở phương diện nào rõ ràng và được nhấn mạnh bằng về phương diện lịch sử”. Ông kết luận “Quả thực, theo một nghĩa hết sức thực chất, nó đánh dấu đỉnh điểm của vấn đề giữa hai bên” (1). Nó cũng đánh dấu đỉnh điểm của vấn đề giữa giáo hội và hội đường. Tự gọi mình là Israel mới và Israel đích thực, Giáo Hội đã nhận làm của riêng sơ đồ ý nghĩa lịch sử vốn được nêu lên trong lúc giải thích việc cứu chuộc Israel do cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập hoàn tất, và thích ứng sơ đồ này vào việc cứu chuộc nhân loại do sự phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết hoàn tất.

Như thế, giống mọi bức tranh khác trong lịch sử các mô tả về Chúa Giêsu, bức tranh này cũng phát xuất từ truyền thống Do Thái. Trong một ngôn ngữ khiến ta nhớ đến Edêkien, Đanien, và các trước tác khải huyền sau này của Do Thái Giáo, một trong các môn đệ tiên khởi của Người, người từng nghe Người tự gọi Người là “đầu hết và cuối hết”, nghĩa là, Chúa của lịch sử, đã tuyên bố:

“Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng. Đầu Người tóc trắng như len trắng, như tuyết; mắt Người như ngọn lửa hồng; chân Người giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò; và tiếng Người như tiếng nước lũ. Tay hữu Người cầm bảy ngôi sao và từ miệng Người phóng ra một thanh gươm hai lưỡi sắc bén. Mặt Người toả sáng như mặt trời chói lọi” (Kh 1: 12-16).

Ngoại trừ một số chi tiết (như giầy thay vì ‘chân giống như đồng đỏ được tôi luyện’) bức tranh khắc gỗ Vision of Seven Candlesticks (Thị Kiến Bẩy Cây Đèn Nến) của Albrecht Durer (thế kỷ 15), với “ý nghĩa siêu thực kỳ diệu”, trong đó, “tính ba chiều của không gian được nhấn mạnh và bác bỏ cùng một lúc” (2) trông gần như thể được dùng làm căn bản cho các lời lẽ trên của Sách Khải Huyền, hơn là ngược lại. Khuôn mặt uy nghi trong tranh khắc gỗ của Durer quả thực là Chúa của lịch sử, chủ quyền trên trời và dưới đất, vĩnh hằng và thời gian, và là cả “Anpha lẫn Ômêga, khởi thủy và cánh chung” (3).

Căn cứ vào các nguồn Do Thái đương thời, ta biết rằng việc công bố của chính Chúa Giêsu về nước Thiên Chúa, cũng như các công bố như thế của các môn đệ về Người, vang dội, bằng những âm sắc khải huyền Do Thái, nỗi mong chờ tha thiết được thấy cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên các kẻ thù của Israel, từng được hứa hẹn đã lâu và bị trì hoãn quá thường, nay đang ló dạng. Thế hệ được Chúa Giêsu, và trước Người, Gioan Tẩy Giả, ngỏ lời công bố ấy, là thế hệ đang nhón gót “trông chờ” (Lc 3:15). Sách Công Vụ mô tả các môn đệ của Chúa Giêsu, cả sau các biến cố Thứ Sáu Tuần Thánh và Ngày Phục Sinh, vẫn hỏi Người ngay lúc Người sắp sửa lánh mặt hữu hình khỏi họ, “lạy Chúa, có phải nay là lúc Chúa phục hồi vương quốc Israel không?”. Người trả lời: “không phải là việc các con được biết thì giờ và mùa tháng mà Chúa Cha đã ấn định bằng thẩm quyền riêng của Người” (Cv 1:6-7).

Tuy nhiên, tránh né vấn đề sâu sắc nhất liên quan đến nỗi mong chờ Do Thái Giáo và Kitô Giáo tiên khởi đối với việc xuất hiện Nước Thiên Chúa bằng cách ngưng lại ở đó là điều quá dễ dàng. Vì đặc biệt trong thế kỷ 20, nền bác học Tân Ước buộc người ta phải xem xét vị thế mà nỗi mong chờ khải huyền kia vốn nắm được không những đối với các thính giả của Chúa Giêsu mà còn cả ở trong sứ điệp của chính Chúa Giêsu nữa (4). Nhiều lần trong sứ điệp của Chúa Giêsu, lời kêu gọi thống hối và lời mời gọi thay đổi đạo đức đã lấy lời hứa hẹn Parousia làm cơ sở: tức việc xuất hiện của Con Người trong đám mây vinh quang nay mai sẽ kết thúc lịch sử con người và sẽ đem tới một trật tự mới của nước Thiên Chúa. Một cách chuyên biệt, các giáo huấn luân lý của Bài Giảng Trên Núi, như lệnh truyền phải chìa má bên kia, ngoại trừ đối với Tolstoy, thường bị xem là một bộ luật đạo đức hoàn toàn không thực tiễn đối với cuộc sống đời thực, đã xuất hiện như một công bố những gì các môn đệ của Người phải làm trong thời gian chờ đợi ngắn ngủi xen kẽ giữa thừa tác vụ trần gian của Người và ngày tận cùng lịch sử. Theo tin mừng Mátthêu, Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người rằng “Các con sẽ không đi hết các thị trấn của Israel trước khi Con Người đến”; và cả ba Tin Mừng nhất lãm đều trích lời Người nói lúc gần kết thúc thừa tác vụ của Người rằng “Thật, Thầy bảo thật với các con, thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi mọi điều này xẩy ra. Trời và đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy sẽ không qua đi” (5).

Nhưng thế hệ đó đã không sống để thấy tất cả những điều đó: Con Người không xuất hiện, và trời và đất không qua đi. Người ta còn dám cho rằng “trọn lịch sử ‘Kitô Giáo’ cho tới tận nay, nghĩa là, lịch sử thực sự bên trong của nó, đặt căn bản trên việc triển hạn cuộc Parousia này, của việc chưa diễn ra cuộc Parousia này, một cuộc bãi bỏ cánh chung” (6). Sự thất vọng trước niềm hy vọng khải huyền về cuộc Tái Lâm này có nghĩa gì đối với lời hứa “lời Thầy sẽ không qua đi”? Con người Chúa Giêsu làm thế nào có thể và đã duy trì ra sao thế giá của Người khi giá trị của con người đó xem ra tùy thuộc ở lời tuyên bố về sự cáo chung sắp đến của lịch sư? Các học giả thế kỷ 20 đã tìm cách nhận diện cuộc khủng hoảng do sự thất vọng này đem tới như là chấn thương lớn của các thế kỷ đầu của Kitô Giáo và là nguồn làm xuất hiện giáo hội định chế và tín điều về con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên, một cách khá ngạc nhiên, giả thuyết chấn thương gây ra do việc “triển hạn cuộc Tái Lâm” tìm được rất ít củng cố nơi các nguồn thuộc thế kỷ thứ hai và thứ ba. Thay vào đó, các nguồn này cho thấy một sự kết hợp giữa một niềm hoài mong khải huyền mạnh mẽ rằng lịch sử sẽ kết thúc và việc sẵn lòng sống với viễn ảnh một lịch sử nhân bản vẫn tiếp tục, cả hai điều này đều tìm được biểu thức trong việc nhấn mạnh đến tính trung tâm của Chúa Giêsu.

Tư tưởng gia Bắc Phi Tertulianô, nhà văn Kitô hữu đầu tiên sử dụng tiếng Latinh, có thể là một minh họa cho sự kết hợp trên về cuối thế kỷ thứ hai (7).Cảnh cáo các đồng tín hữu của mình chống lại việc tham dự các buổi trình diễn hạ cấp của xã hội Rôma, Tertulianô thúc giục họ chờ đợi quang cảnh lớn lao hơn của những ngày vĩ đại đang đến, khi Chúa Kitô vinh hiển tái lâm trong một đoàn diễn hành chiến thắng giống như một người đại thắng Rôma và sẽ dẫn phía sau làm tù nhân của Người đủ các quân vương tổng trấn từng bách hại dân của Người, đủ các triết gia và thi sĩ từng chế nhạo sứ điệp của Người, đủ các tài tử và “các yếu nhân của tội lỗi” vốn nhạo cười các giới răn của Người. Và do đó, ông viết ở chỗ khác, “chúng ta không bao giờ tiến bước mà không được vũ trang... Với lời cầu nguyện, ta hãy chờ tiếng kèn của thiên thần” (8). Thế nhưng cũng một Tertulianô này, khi trả lời việc hoàng đế Rôma kết án ông tội phản nghịch, đã tuyên bố “chúng tôi cũng cầu nguyện cho các hoàng đế, cho các cộng sự viên của họ và mọi nhà cầm quyền, cho phúc lợi toàn thế giới, cho sự thắng lợi của hòa bình, cho việc trì hoãn ngày chung thẩm” (9). Những tuyên bố như thế về các hoàng đế Rôma, về một phương diện nào đó, quả là một chuẩn bị cho việc xuất hiện, vào thế kỷ thứ tư, của ý niệm hoàng đế Rôma theo Kitô Giáo, trị vì nhân danh Chúa Kitô và nhờ quyền năng của Người; nhưng trong ngữ cảnh lúc này, ta nên chú ý tới lời quả quyết: các Kitô hữu vốn cầu xin cho việc triển hạn cuộc tái lâm của Chúa Kitô.

Vì lời quả quyết trên của Tertulianô đại diện cho một cái hiểu mới mẻ về ý nghĩa của lịch sử, một cái hiểu theo đó Chúa Giêsu không phải chỉ là người kết thúc lịch sử bằng việc tái lâm trong tương lai, như thứ khải huyền ngây thơ và chiểu tự vốn nghĩ, nhưng còn là Khúc Quanh Lịch Sử, một lịch sử, dù vẫn còn tiếp diễn, đã được biến đổi và đảo ngược bởi lần đến đầu tiên của Người trong dĩ vãng.Tertulianô cũng được tưởng nhớ như một nhân vật chính trong lịch sử khai triển các tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi và ngôi vị Chúa Kitô, dự ứng trong các các công thức thần học của mình phần lớn các thành quả sau cùng của các cuộc tranh luận của hai thế kỷ 3 và 4. Tuy nhiên, trong các thế kỷ này, không phải chỉ có ý nghĩa thần học và tín điều của Chúa Giêsu như Con Thiên Chúa đã được đúc kết khi minh giải về tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi, mà cả ý nghĩa văn hóa của Chúa Giêsu như chiếc bản lề của lịch sử và do đó như căn bản cho cả việc giải thích mới về diễn trình lịch sử lẫn thuật chép sử mới.

Việc giải thích mới mẻ diễn trình lịch sử đã bắt đầu với lịch Israel, mà mục tiêu chính nay được coi là cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Điều này trở thành hiển nhiên trong việc giải thích, và thao túng, truyền thống tiên tri của Thánh Kinh Do Thái. Khi mô tả cuộc xuất hành của con cái Israel khỏi cảnh nô lệ, tiên tri Hôsê, nhân danh Thiên Chúa, đã nói rằng “Khi Israel là một đứa bé, Ta thương nó, và từ Ai Cập, Ta gọi con Ta” (Hs 11:1); nhưng trong tay tin mừng gia Kitô Giáo, những lời này trở thành lời tiên đoán việc Thánh Gia trốn qua Ai Cập để tránh âm mưu sát hại của Vua Hêrốt (Mt 2:15). Các thánh vịnh được gọi là thánh vịnh tôn phong nhận diện Thiên Chúa như vua đích thực của Israel, dù Israel có các vua trần gian như Đavít, và thánh vịnh 96 công bố “Chúa thống trị!”; nhưng các triết gia và thi sĩ Kitô Giáo thêm vào bản văn một ám chỉ minh nhiên tới thập giá Chúa Kitô, và câu đó trờ thành “Chúa thống trị từ cây gỗ”, những chữ mà sau đó, họ kết án người Do Thái đã xóa bỏ (10). Các Kitô hữu lục lọi Thánh Kinh Do Thái tìm các lời ám chỉ về Chúa Kitô, thu thập chúng thành nhiều tuyển tập và chú giải (11). Các tiên tri của Israel đã tìm được mục tiêu và cùng đích của họ nơi Chúa Giêsu.

Điều trên cũng xẩy ra với vương quốc Israel, được các Kitô hữu coi như nay đã trở thành vương quốc chân chính của Thiên Chúa, mà Đấng Kitô chịu đóng đinh thống trị “từ cây gỗ”. Israel đã bị thay đổi thành một vương quốc dưới sự thống trị của Vua Saun; nhưng “khi ông bị bác bỏ và nằm xoài ngoài mặt trận, dòng dõi ông cũng bị bác bỏ để không vị vua nào phát xuất từ dòng dõi này, thì Đavít kế ngôi vương quốc, mà con trai được chủ yếu gọi là Kitô”. Vua Đavít, người “đã trở thành một loại khởi điểm và khởi đầu cho tuổi trẻ của dân Thiên Chúa” đã thiết lập Giêrusalem làm thủ đô của vương quốc; thế nhưng, ngay trong tư cách vua của “Giêrusalem trần thế” ấy, ông vẫn là “con của Giêrusalem thiên giới”. Ông nhận được lời hứa: “hậu duệ ông sẽ cai trị Giêrusalem mãi mãi” (12). Nhưng Đavít trong tư cách vua đã nhìn quá chính ông và vương quốc của ông tới vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, nên đã tuyên bố trong Thánh Vịnh 45 mà, theo cách giải thích lịch sử của Kitô Giáo, như ngỏ cùng Chúa Kitô vua rằng “Ngôi báu ngài, lạy Thiên Chúa, sẽ trường tồn vạn kỷ. Vương trượng ngài, vương trượng công minh; ngài ưa điều chính trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngài
đã xức dầu cho ngài [Bản Bẩy Mươi bằng tiếng Hy Lạp: echrisen se = tấn phong ngài là Đấng Kitô] vượt trổi các đồng liêu bằng dầu thơm hoan lạc” (Tv 45: 6-7) (*).

Như thế, Đavít gọi Người là Thiên Chúa ngay ở dòng đầu, và sau đó, đã xưng hô với Người như cả vua lẫn Đấng Kitô, vị vua chân chính được xức dầu để “trổi vượt hơn, và khác biệt với, những vị ngày xưa vốn được xức dầu một cách tượng trưng” (13). Một cuộc duyệt lại tòan bộ lịch sử của các vương quốc Giuđa và Israel bị phân chia dựa trên điều “ơn quan phòng của Thiên Chúa hoặc ra lệnh hoặc cho phép” cho thấy dù các vị vua bắt đầu với Rehoboam, con Salômôn, “qua các lời nói và hành động khó hiểu của họ đã không tiên báo điều có thể thuộc về Chúa Kitô và giáo hội”, tuy thế họ vẫn chỉ về Đấng Kitô. Khi các vương quốc chia rẽ sau cùng được thống nhất dưới quyền một ông hoàng ở Giêrusalem, thì điều này có mục đích dự ứng về Chúa Kitô như vị vua duy nhất; thế nhưng vương quốc của họ không còn thẩm quyền hay chủ quyền gì nữa, vì “Chúa Kitô coi họ chỉ như các chư hầu của người Rôma” (14).

Lịch sử các thay đổi và các hình thức tiếp nối nhau của chức tư tế ở Israel, theo luận điểm Kitô Giáo, cũng chỉ có nghĩa khi được nhìn theo viễn tượng lấy Chúa Giêsu làm khúc quanh của nó. Chức tư tế nhà Lêvi của Aaron chỉ có tính tạm thời, không hơn không kém là một chiếc bóng mà bản chất thực, cuối cùng, nay đã xuất hiện dưới vị tư tế đích thực là Chúa Giêsu Kitô; vì “Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi” (Dt 7:24). Lời đe dọa và lời tiên tri ngỏ với Eli thượng tế (1Sm 2:27-36) “Ta sẽ làm chỗi dậy cho Ta một tư tế trung thành: nó sẽ làm theo như lòng Ta muốn, như hồn Ta mong” đã không nên trọn trong chức tư tế và các tư tế của Israel, tất cả đều có tính tạm thời, nhưng đã xuất hiện qua Chúa Giêsu Kitô” như thầy cả thượng phẩm (15). Mặc dù trong Tân Ước, hạn từ tư tế chưa bao giờ được nói đến một cách minh nhiên để chỉ các thừa tác viên của giáo hội Kitô Giáo, cả với các tông đồ của Chúa Giêsu trong thừa tác vụ của họ cũng thế, mà chỉ chỉ về Chúa Giêsu như một tư tế hoặc các tư tế của Cưu Ước hay mọi tín hữu đều là tư tế, nhưng chẳng bao lâu sau đó, giáo hội đã dùng hạn từ này cho hàng giáo sĩ thụ phong của mình (16). Lịch sử chức tư tế, do đó, được coi như bắt đầu với hình bóng xa xôi của Menkixêđê, người từng dâng lễ vật “bánh cùng rượu”, và sau đó, nhận được hình thức dứt khoát nơi Aaron, anh trai của Môsê; nhưng tất cả đều dẫn tới Chúa Giêsu Kitô và từ Người, dẫn tới chức linh mục của giáo hội Tân Ước và lễ hy sinh của Thánh Lễ (17).

Như thế, toàn bộ lịch sử Israel đã đạt tới khúc quanh của nó nơi Chúa Giêsu như tiên tri, tư tế và vua (18). Theo cùng cách này, Người được nhận diện như khúc quanh trong toàn bộ lịch sử của mọi quốc gia trên thế giới khi lịch sử ấy được tóm gọn trong lịch sử “chúa tể các quốc gia” là đế quốc La Mã. Mặc dù điều này trên thực tế là chủ đề quán xuyến (leitmotif) trong các thế kỷ thứ 3, thứ 4 và thứ 5, nhưng công trình đồ sộ và gây ảnh hưởng hơn cả của việc nhận diện ấy là điều mà chính tác giả cuốn sách, trong phần nói đầu, nói là “nhiệm vụ vĩ đại và gay go”, đó là cuốn “Kinh Thành Thiên Chúa” (19). Đối với nhiệm vụ định vị Chúa Giêsu trong lịch sử thế giới cũng như đối với nhiệm vụ giải thích con người và giáo huấn của Chúa Giêsu cho Dân Ngoại, Tân Ước, vì là sách chủ yếu viết bởi các Kitô hữu gốc Do Thái, nên đã cung cấp ít hướng dẫn minh nhiên hơn là việc nó định vị Người trong lịch sử Israel. Nhưng quả nó có nói Người chỉ đến khi thời gian viên mãn (20).

Phỏng theo ngôn ngữ Phaolô trên, một nhà văn Kitô giáo tiên khởi, trong một cố gắng giải thích tại sao Thiên Chúa đã chờ đợi lâu đến thế, đã chia lịch sử thế giới thành hai “thời” hay “thời đại” dưạ trên “khuôn mẫu” vừa được khám phá vừa được thiết lập nơi Chúa Giêsu (21). Các người khác, cũng thế, đã cố gắng thiết lập một nối kết nào đó giữa việc Chúa Giêsu xuất hiện và lịch sử Rôma, sớm khởi đầu với các chương đầu tiên của Tin Mừng Luca với các ngôn từ nói về “sắc lệnh từ Xêda Augustô truyền ra khắp thế giới phải đăng ký” và về “năm thứ 15 thời trị vì của Xêda Tibêriô” (22). Nhưng chất xúc tác đối với việc khảo sát tường tận mối nối kết này là lời tố cáo cho rằng việc thay thế các thần của Rôma bằng Chúa Kitô đã giáng sự nổi giận và trừng phạt của các thần xuống thành phố và khiến cho Rôma phải sụp đổ. Vì, như Thánh Augustinô chủ trương, “không những trước khi Chúa Kitô bắt đầu giảng dậy, mà thậm chí trước khi Người được sinh ra bởi Trinh Nữ”, lịch sử Rôma đã được đặc trưng bởi “nhiều tội ác ghê tởm của các thời trước”, những cái ác, thêm vào đó, còn trở nên “không thể dung tha và rất kinh khiếp” không phải lúc Rôma bị đánh bại về quân sự mà khi nó đạt được đại thắng quân sự (23). Thực thế, “khi Carthage bị hủy diệt và cộng hòa Rôma được giải thoát khỏi lý do lớn lao khiến nó âu lo, thì đó là hàng loạt những tội ác tác hại phát sinh ngay tức khắc từ điều kiện phồn thịnh của các sự việc”, trên hết là sự tập trung “luật thèm khát” trong tay “một số ít mạnh hơn” trong khi “mọi người khác kiệt lực và mệt mỏi” phải chịu ách của họ (24). Không phải Rôma không đương đầu được với thất trận và suy thoái mà họ không đương đầu được với phồn thịnh và chiến thắng. Cho nên, việc mở rộng đế quốc Rôma, mà những kẻ tố cáo đổ lỗi cho Chúa Kitô đã đảo ngược, không tự động có ích lợi hiển nhiên cho nhân loại; vì, như câu phương ngôn năng được lặp đi lặp lại của Thánh Augustinô, “nếu công lý bị bãi bỏ, thì đế quốc còn là gì ngoài cái tên lạ chỉ sự ăn cắp (grande latrocinium)?” (25).

Mặt khác, theo Thánh Augustinô, người ta có thể tìm được dấu vết của nhiều thành tựu rõ ràng vĩ đại của Rôma mà sử gia Rôma Sallust từng kể ra: tham vọng của nó và “lòng thèm muốn vinh quang” và uy thế của nó, những điều vốn hành xử như để hạn chế thói hư và vô luân (26). Thiên Chúa, Đấng hành động và được biết đến nơi Chúa Kitô, cũng sử dụng các phẩm tính này khi thi hành các mục đích của lịch sử, vốn là kết quả không do may mắn hay tình cờ hoặc quyền lực của các vì sao nhưng do “trật tự sự vật và thời gian, dấu kín khỏi chúng ta, nhưng hoàn toàn được biết rõ nơi [Thiên Chúa, Đấng]... cai trị như chúa tể và bổ nhiệm như thống đốc” (27). Ý niệm “trật tự sự vật và thời gian”, điều mà Thánh Kinh gọi là “hàng loạt các thế hệ” được Thánh Augustinô cực lực bênh vực chống lại lý thuyết cho rằng lịch sử tự nó lặp lại, “cùng một biến cố thời gian được tái diễn bởi cùng một vòng xoay (revolutions)” và chu kỳ “định kỳ” (28). Và luận điểm giải quyết chống lại thuyết chu kỳ trong lịch sử là cuộc đời và con người Chúa Giêsu Kitô: vì “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta một lần cho tất cả, và khi đã chỗi dậy, Người không còn chết nữa”, điều cũng đúng là Platông từng giảng dậy tại Academy vào một thời điểm trong lịch sử, không lặp đi lặp lại “trong vô lượng chu kỳ vẫn còn tiếp diễn” (29). Chính việc xem xét cuộc đời, cái chết và phục sinh của Chúa Kitô, như một biến cố đơn nhất và không thể lặp lại, thế nhưng cùng một lúc lại như một sứ điệp và “mầu nhiệm được công bố từ khởi nguyên nhân loại” (30) đã làm cho Christopher Dawson gọi Thánh Augustinô, tuy hơi quá đáng một chút, “không những là người sáng lập ra triết lý Kitô giáo về lịch sử” mà “thực sự còn là người đầu tiên trên thế giới khám phá ra ý nghĩa của thời gian” (31).

Như thế, thời gian và lịch sử là điều chủ yếu đối với Thánh Augustinô, chủ yếu theo nghĩa đen của chữ crucialis, như thuộc về crux Christi, thập giá Chúa Kitô (một cách dùng của chữ crucialis mà thực ra không có tiền lệ cổ điển và thậm chí cả giáo phụ nào, từ ngữ trong tiếng Anh có lẽ là do Francis Bacon sáng chế) (32): lịch sử cây thập giá của Chúa Kitô vừa là công trình cứu chuộc của Người vừa là gương sáng của Người để ta noi theo (33). Nhưng các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, nhìn như khúc quanh của lịch sử, không phải chỉ ảnh hưởng tới việc giải thích lịch sử này; nó còn chịu trách nhiệm đối với việc quan tâm được tái sinh lực hoá và được biến đổi trong việc viết lịch sử nữa. Mặc dù Thánh Augustinô không những soạn thảo nhiều loại văn thể khác nhau nhưng trong cuốn Tự Thú của mình, ngài còn tạo ra một văn thể chưa hề có tiền lệ đúng nghĩa, bất luận là cổ điển hay có tính chất Kitô giáo, tuy nhiên, ngài chưa bao giờ đặt tay viết lịch sử theo lối thuật chuyện có lẽ trừ một hai công trình gây tranh cãi có vết tích của loại lịch sử này. Nhưng hai tác giả Kitô giáo Hy Lạp thuộc thế kỷ trước Thánh Augustinô, tức Eusebiô thành Xêdarê và Athanasiô thành Alexandria có thể cung cấp tài liệu cho loại chép sử này lấy linh hứng từ cuộc đời Chúa Giêsu Kitô. Sự kiện họ đứng ở phiá đối lập trong cuộc tranh luận vĩ đại của thế kỷ thứ tư về mối liên hệ giữa con người Chúa Giêsu Kitô và Thiên Tính (Godhead) khiến sự đóng góp chung của họ vào việc chép sử càng thêm đáng lưu ý.

Mặc dù Eusebiô đôi khi bị tố cáo là quá lạc quan, thậm chí còn thiếu trung thực nữa (34), nhưng công trình của ông như một sử gia của ba thế kỷ đầu thì chắc chắn đã làm ông trở thành người không thể thiếu đối với bất cứ cố gắng nào để hiểu thời kỳ này: nếu người ta lấy bất cứ cuốn sách giáo sử thời nay nào viết về thời kỳ đó rồi bôi bỏ các dữ kiện phát xuất từ Eusebiô, thì hẳn họ chỉ còn lại rất ít điều. Trong tư cách tác giả hai cuốn sách có ý định biện hộ cho sứ điệp Kitô giáo, tức cuốn Chuẩn Bị Tin Mừng và cuốn Chứng Minh Tin Mừng, và như sử gia chính của các sách hộ giáo trong các thế kỷ trước đó, Eusebiô phê phán các người đi trước vì đã chú tâm tới “các luận điểm” hơn là “các biến cố” (35). Trong cuốn Lịch sử Giáo hội của ông, ông bắt tay sửa lại sự mất quân bình ấy và để làm như thế một cách cụ thể, ông đã viết lịch sử dưới ánh sáng cuộc đời Chúa Giêsu.

Trong lời nói đầu cho cuốn sách, ông trình bầy 2 luận bác do những người ngoại đạo phê phán Chúa Kitô và Kitô giáo: Chúa Kitô là “người mới xuất hiện gần đây trong lịch sử loài người” và nước của Chúa Kitô “bị giấu giếm ở một ngõ ngách nào đó trên thế giới”. Nói tóm lại, Chúa Kitô “vừa mới mẻ vừa hẻo lánh”. Ông trả lời các luận bác này bằng cách, trước nhất và quan trọng nhất, là mô tả chính lịch sử của Chúa Giêsu (36). Theo Eusebiô, lịch sử này trải dài tới tận thuở ban đầu của kinh nghiệm con người, vì tất cả những ai Thiên Chúa đã xuất hiện với đều được gọi là Kitô hữu “trong sự kiện chứ không phải chỉ là cái tên” (37). Nhưng lịch sử cũng trải dài đến tận thời của tác giả; vì cũng như đối với các sử gia cổ điểncổ thời, Eusebiô tập trung vào các biến cố đương thời. Ấy thế nhưng, có một sự khác biệt căn bản: theo Eusebiô, biến cố có tính quyết định trong lịch sử ông đang thuật lại không diễn ra lúc ông đang sống, nhưng đã diễn ra trong đời sống Chúa Giêsu Kitô. Như một học giả đã viết “ông lưu tâm tới việc, dựa vào dự án của Thiên Chúa dành cho thế giới, nắm được các hệ luận lịch sử phổ quát của việc Chúa Giêsu bước vào thế giới” (38). Để trình bầy rõ các hệ luận này, ông không đưa ra các luận điểm mà là các biến cố: ông viết trình thuật lịch sử mà khúc quanh của nó là “triều vua Augustô” lúc Chúa Giêsu Kitô sinh ra (39).

Là người cùng thời và đôi khi đối nghịch với Eusebiô, Thánh Athanasiô thành Alexandria, được tưởng niệm chủ yếu nhờ các công trình của ngài về thần học tín lý và bút chiến. Thế nhưng, xét về nhiều phương diện, cuốn sách gây ảnh hưởng nhất được ngài viết chỉ đề cập đến tín lý và bút chiến một cách tình cờ. Đó là cuốn Cuộc đời Thánh Antôn, cuốn tiểu sử viết về vị khai sáng ra phong trào đơn tu Kitô Giáo ở Ai Cập, cuốn sách mà cả những người chỉ trích Thánh Athanasiô hơn cả cũng buộc phải khen ngợi (40). Dường như cuốn sách, ít nhất một phần, được viết cho độc giả Phương Tây và lúc tác giả còn sống đã được dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, và dưới hình thức này, đã gây ảnh hưởng lớn đối với việc trở lại của Thánh Augustinô (41). Vì mục đích hiện tại, Cuộc đời Thánh Antôn được coi như điển hình hàng đầu của lối viết sử mới và lối viết tiểu sử mới lấy hứng từ đời sống Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Chắc chắn, có nhiều điểm tương tự giữa nó và các cuốn tiểu sử bằng tiếng Hy Lạp của người ngoại giáo. Cuốn nổi tiếng Những Cuộc Đời Song Hành của Plutarch cho ta một số tương tự này, dù những điểm khác biệt thì rõ ràng hơn nhiều. Một trong những nghiên cứu tỉ mỉ nhất về văn thể của cuốn tiếng Hy Lạp Cuộc đời Các Thánh, tức nghiên cứu của Karl Holl, đã đặc biệt coi các cuốn tiểu sử của Posidonius và Apollonius thành Tyana là điển hình (42). Dù mục đích của cuốn sách là trình bầy Thánh Antôn như hiện thân của một lý tưởng, điều này vẫn không ngăn cản Thánh Athanasiô mô tả đời ngài bằng những hạn từ cụ thể như cuộc đấu tranh trong cuộc sống, một cuộc đấu tranh chỉ chấm dứt với cái chết. Suốt cuốn sách là một cố gắng nhằm mô tả cuộc đời Thánh Antôn như “công trình của Chúa Cứu Thế nơi Thánh Antôn” (43). Điều rõ ràng là Thánh Antôn chọn lối sống đơn tu vì ở đây, ngài có thể vâng theo giáo huấn của Chúa Giêsu cách hữu hiệu hơn cả (44). Cuộc đời Thánh Antôn đầy những câu truyện phép lạ cũng như rất chi tiết trong việc thuật lại các bài giảng chống lạc giáo của Thánh Antôn. Johannes Quasten, sử gia hàng đầu của chúng ta về nền văn chương Kitô giáo tiên khởi, đã chính xác tóm tắt vị trí của cuốn Cuộc đời Thánh Antôn của Thánh Anathasiô trong lịch sử viết tiểu sử như sau:

“Không còn hoài nghi chi nữa mẫu mực cổ điển xưa về [hạnh, Vita] các bậc anh hùng và loại hạnh mới hơn về các bậc hiền nhân đã gợi hứng cho Thánh Athanasiô. Nhưng thành tựu vĩ đại của ngài vẫn là: ngài đúc lại các lối phát biểu được thừa hưởng này về các lý tưởng bình dân trong khuôn đúc Kitô giáo và cho thấy cũng một anh hùng tính nơi người mô phỏng Chúa Kitô được sự trợ giúp của sức mạnh ơn thánh. Như thế, ngài đã tạo ra một loại viết tiểu sử mới được dùng làm mẫu mực cho toàn bộ lối viết sử thánh bằng tiếng Hy Lạp và La Tinh sau này” (45).

Một cuốn tiểu sử thời Trung Cổ kiểu trên như cuốn Cuộc đời Cuthbert của Thánh Bede là điển hình của truyền thống do Cuộc đời Thánh Antôn tạo ra; như một nghiên cứu gần đây đã nhận xét, “Chuyện thông thường là việc nhận thấy rằng một người thánh thiện như Cuthbert mô phỏng cuộc đời Chúa Kitô và các thánh, nhưng ta có khuynh hướng quên thực tại và các hệ luận của một việc mô phỏng như thế khi nói về tiểu sử” (46). Cuộc đời Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng là khúc quanh cho cả cuộc đời của Cuthbert (cuộc đời ngài sống) lẫn Cuộc đời Cuthbert (cuộc đời được Thánh Bede viết về).

Sau cùng, chính lịch của Âu Châu, một lịch sau đó đã trở thành lịch của hầu hết thế giới hiện đại, đã diễn biến tới chỗ nhìn nhận quan điểm trên về ý nghĩa của nhân vật Giêsu như khúc quanh của lịch sử, khúc quanh cho cả lịch sử như một diễn trình lẫn lịch sử như một trình thuật. Như chúng ta đã ghi nhận, các sử gia Kitô giáo từ Thánh Luca tới Eusebiô và sau đó đã duy trì hệ thống của Rôma trong việc định ngày tháng cho các biến cố bằng triều đại hay hoàng đế. Ngày tháng của triều đại hoàng đế, ngược lại, được trưng dẫn theo bảng niên đại (chronology), tính từ ngày dã sử Romulus và Remus thiết lập ra Rôma viết tắt là A.U.C. nghĩa là Ab Urbe Condita [từ ngày thành lập kinh thành] (vốn là tựa đề công trình của Livy mà nay ta gọi là Lịch Sử Rôma). Việc bách hại giáo hội dưới thời Diocletian, người cai trị từ năm 284 tới năm 305, đã dẫn một nhóm Kitô hữu định lịch của họ từ điều họ gọi là Thời Các Tử Đạo. Thí dụ, Bảng Chú Dẫn Các Chữ Ngày Lễ của Thánh Athanasiô (Index to the Festal Letters of Athanasius) thế kỷ thứ tư được sắp xếp theo lịch ngày tháng trong một năm của Ai Cập, nhưng định năm của Chữ Ngày Lễ đầu tiên là “năm 44 Thời Diocletian” nghĩa là Năm Của Chúa 327 (47). Đó là hệ thống lịch vẫn còn được Kitô hữu Coptic của Thánh Athanasiô ở Ai Cập, cũng như các Kitô hữu Ethiopia, duy trì.

Nhưng đến thế kỷ thứ sáu, một đan sĩ người Schyth sống ở Rôma, tên là Dionysius Exiguus (“Denis Nhỏ”) đề nghị một hệ thống mới để tính ngày. Hệ thống này không được đặt tên theo thần thọai ngoại giáo với việc thành lập ra Rôma bởi Romulus và Remus, cũng không theo Diocletian, kẻ bách hại, mà theo việc nhập thể của Chúa Giêsu Kitô, nhất là theo ngày truyền tin việc Người sinh ra cho Trinh Nữ Maria bởi thiên thần Gabrien, 25 tháng 3, năm 753 A.U.C. Vì những lý do đến nay vẫn còn mù mờ, Dionysius Exiguus tính lầm từ 4 đến 7 năm, phát sinh ra sự bất thường qua đó có khi người ta bảo Chúa Giêsu sinh ra năm 4 B.C. (trước Chúa Kitô). Tuy nhiên, bỏ ra ngoài chuyện vặt vãnh này, việc Dionysius ấn định ra “thời đại Chúa Kitô” dần dần trở thành nhất định, dù diễn trình thiết lập nó cần nhiều thế kỷ, và nay đã thành phổ quát (48). Từ đó, ngày tháng lịch sử và tiểu sử được đánh dấu là A.D. (năm của Chúa) và B.C. (trước Chúa Kitô), theo “các năm của Chúa chúng ta”. Ngay cuộc đời của kẻ Phản Kitô cũng được đặt niên biểu theo niên biểu của Chúa Kitô; các tiểu sử của kẻ thù Người cũng được viết cách này, đến nỗi ta nói tới việc Nêrông chết năm 68 A.D. và Stalin chết năm 1953 A.D. Dù sao, theo chiều hướng này, và không chỉ theo chiều hướng này, mọi người buộc phải thừa nhận rằng vì Chúa Giêsu thành Nadarét, lịch sử không bao giờ còn như trước nữa.
_____________________________________________
(*) Bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ hơi khác: “Ngôi báu Thiên Chúa tặng ban cho ngài sẽ trường tồn vạn kỷ, vương trượng ngài, vương trượng công minh; ngài ưa điều chính trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngài đã tôn phong ngài vượt trổi các đồng liêu mà xức cho dầu thơm hoan lạc”.

Ghi chú

(1) Charles Norris Cochrane, Christianity and Classical Culture: A Study of Thougth and Action from Augustus to Augustine (Oxford: Clarendon Press, 1944) tr. 456
(2) Erwin Panopfsky, The Life and Art of Albrecht Durer, 4Th Ed. (Princeton: Princeton University Ptress, 1955) tr.56-57
(3) Kh 21:6; 1:8.
(4) Hai cố gắng sâu sắc nhất đề cập đến vấn đề này là Amos Wilder, Ethics and Eschatology in the Teachings of Jesus, rev. ed. (New York, Harper, 1950), và Rudolf Otto, The Kingdom of God and the Son of Man, bản dịch của Floyd V. Filson and Bertram Lee Wolff (London, Lutterworth 1938).
(5) Mt 10:23; Mc 13:30; Lc 21:32
(6) Schweitzer, Quest of Historical Jesus, tr. 360.
(7) Jaroslav Pelikan, “The Eschatology of Tertullian”, Church History 21 (1952) 108-22
(8) Tertullian, On Spectacles 30; on Prayer 29
(9) Tertullian, Apology 39
(10) Tv 96:10; Thánh Justin, Dialogue with Trypho 73:1; Venantius Fortunatus, Carmina 2.7
(11) Thánh Irenaeus, Proof of Apostolic Preaching; Cyprian, Testimonies
(12) Thánh Augustine, City of God 16.43; 17.20; 17.4
(13) Thánh Augustine, City of God 17.16; Eusebius, Ecclecsiatical History 1.3.15-15
(14) Thánh Augustine, City of God17.20-23
(15) Thánh Augustine, City of God 17.5-5
(16) Pelikan, Christian Tradition 1:25-26
(17) Fred. L. Horton Jr, The Melchizedek Tradition: A Critical Examination of the Sources of the Fifth Century A.D. and in te Epistle to the Hebrews (Cambridge: Cambridge Univerity Press, 1976)
(18) Eusebius, Ecclesiatical History 1.19; Thánh Augustine, City of God 17.4; John Calvin, Institutes of the Christian Religion 2.15, McNeil ed. 1:494-503
(19) Peter Brown, Augustine of Hippo. A Biography (London: Faber and Faber, 1969) tr. 299-312
(20) Ep. 1:10; Gl 4:4
(21) Epistle to Diognetus 9
(22) Lc 2:1; 3:1; Eusebius, Ecclecsiatical History 1.5.2
(23) Thánh Augustine, City of God 2.18-19
(24) Thánh Augustine, City of God 1.30
(25) Thánh Augustine, City of God 4.3-4
(26) Sallust, Catilina 7; Augustine, City of God 5.12-13
(27) Thánh Augustine, City of God 4.33; 5.1; 5.11
(28) Thánh Augustine, City of God 16.10; 12.18
(29) Thánh Augustine, City of God 12.13; Origen, Against Celsus 4.67
(30) Thánh Augustine, City of God 7.32
(31) Christopher Dawson, “St Augustine and his Age” trong St Augustine , ed. Martin C, d’Arcy (New York: Meridian Books, 1957) tr. 69
(32) Xem Oxford English Dictionary, s.v. “crecial”
(33) Thánh Augustine, on the Creed 9
(34) Martin Werner, Die Entstehung des christlichen Dogmas (Bern: Paul Haupt, 1941) tr. 112-113, xem thêm tr.50
(35) Eusebius, Preparation of the Gospel 1.3.6-7
(36) Tôi đã thích ứng ở đây một số tư liệu trong cuốn sách của tôi The Finality of Jesus Christ in an Age of Universal History (London: Lutterworth, 1965) tr. 48-56
(37) Eusebius, Ecclecsiatical History 1.4.6
(38) C.F. Georg Heinrici, Das Urchristentum in der Kircheneschichte des Eusebius (Leipzig: Verlag der Durr’schen Buchhandlung, 1894) tr. 21
(39) Eusebius, Ecclecsiatical History 4.26.7, trích dẫn Melito thành Sardis
(40) Eduard Schwartz, Zur Geschichte des Athanasius (Berlin: Walter de Gruyter, 1959) tr. 286 n. 3
(41) Xem tr. 112
(42) Karl Holl, “Die schriftstellerisch Form des griechischen Heiligenlebens”, Gesammelte Aufsatze zur Kirchengeschichte, 3 vols.(1928; tái bản, Darmstadt: Wissenschaftliche Buchgesellschaft, 1964) 2.249-69
(43) Thánh Athanasius, Life of Anthony 7
(44) Thánh Athanasius, Life of Anthony 1-2
(45) Johannes Quasten, Patrology, 3 vols. cho đến nay (Westminster, Md.: Newman Press, 1951-),3:43
(46) Judith H. Anderson, Biographical Truth: The Representation of Historical Persons in Tudor-Stuart Writing (New Haven: Yale University Press, 1984) tr.21-22
(47) Xem bản dịch và bảng hữu ích do Archibald Robettson soạn, Nicene and Post-Nicene Fathers of the Church 4:502-03
(48) Bruno Krusch, Studien zur christlichen-mittelatterlichen Chronologie: Die Entstehung unserer heutigen Zeitrechnung, 2 vol. (Berlin: Akademie des Wissenchaften, 1938) 2:59-87.
 
Vietcatholic News