Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

Sự công chính của thánh Giuse đã cứu mạng Mẹ Maria


Lectio: Chúa Nhật IV Mùa Vọng (A)
Chúa Nhật, 22 Tháng 12, 2013
Sự công chính của thánh Giuse đã cứu mạng Mẹ Maria
Mt 1:18-24


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng quyền năng sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa cho bài đọc:

Đa số các thành viên của các Cộng Đoàn Kitô hữu tại Pa-lét-tin và Syria, những người mà tác giả Mátthêu đã viết sách Tin Mừng cho, là những người Do Thái cải đạo.  Họ chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và tin tưởng vào Người.  Họ đã bị bách hại vì đức tin của họ.  Những người anh em Do-thái của họ đã nói với họ rằng:  “Các bạn Kitô hữu đang bị lừa dối!  Ông Giêsu không phải, và cũng không thể là Đấng Cứu Thế!”  Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta đang suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này, cho thấy hiển nhiên mối quan tâm của Mátthêu, ông muốn khẳng định niềm tin của cộng đoàn.  Cũng như thể ông muốn nói với chúng ta rằng:  “Các bạn không hề bị lừa dối!  Đức Giêsu chính thật là Đấng Cứu Thế!”  Mục đích của Mátthêu trong các chương một và hai của quyển Tin Mừng của ông là để thông báo cho người đọc về những điều liên quan đến Chúa Giêsu, Đấng mà hoạt động của Người sẽ được mô tả bắt đầu từ chương ba.  Trong hai chương đầu, Mátthêu giới thiệu về thân thế Chúa Giêsu, về Lề Luật mới, về một ông Môisen mới.  Trong phần gia phả (Mt 1:1-17) Mátthêu đã cho thấy rằng Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít và dòng dõi ông Abraham (Mt 1:1).  Trong những câu này (Mt 1:18-25), Mátthêu tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu với chúng ta qua câu chuyện giáng sinh của Người.  Ông kể lại chuyện ông thánh Giuse được cho biết tin về việc Đức Maria đã thụ thai như thế nào và các lời tiên tri sẽ được ứng nghiệm với sự ra đời của Đức Giêsu, cho thấy rằng Người là Đấng Cứu Thế đang được mong đợi. Trong khi đọc, chúng ta nên chú ý đến những gì đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết về con người của Chúa Giêsu, đặc biệt là trong những gì liên quan đến ý nghĩa của hai cái tên mà Người nhận được.
   
b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Mt 1:18:  Một điều trái với lễ giáo phong tục trong cuộc đời Đức Maria
Mt 1:19:  Sự công chính của thánh Giuse
Mt 1:20-21:  Lời giải thích hoặc lời làm sáng tỏ bởi thiên thần Chúa
Mt 1:22-23:  Giai điệu trong Tin Mừng của thánh Mátthêu
Mt 1:24-25:  Sự vâng lời của thánh Giuse.

c)  Phúc Âm:

18 Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:  Mẹ Người là Maria, đính hôn với Giuse; trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. 19 Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. 20 Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:  “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”
22 Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: 23 Này đây!  Một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình; 25 nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để cho Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

i)  Điều nào trong bài Tin Mừng này đã đánh động bạn nhất?  Tại sao?    
ii)  Theo lời Sứ Thần, Con Thiên Chúa sẽ được sinh bởi Đức Maria là ai?    
iii)  Theo Phúc Âm của Mátthêu, lời tiên tri nào trong Cựu Ước được thực hiện trên Chúa Giêsu?
iv)  Hai tên mà Con Trẻ Giêsu nhận lãnh là gì, và Thiên Chúa có ẩn chứa dự án gì trong những tên này?
v)  Thái độ của thánh Giuse được hiểu ra sao?  Thái độ này dạy cho chúng ta điều gì?
vi)  “Sự công chính” của thánh Giuse một cách chính xác bao gồm những điều gì?
vii)  Sự công chính của chúng ta ra sao, khi được so sánh với sự công chính của thánh Giuse?

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề

a)  Bối cảnh của bài Phúc Âm:

Dựa theo gia phả của Chúa Giêsu (Mt 1:1-17) để lại cho chúng ta một câu hỏi.  Bên cạnh tên của bốn mươi hai tổ phụ của Chúa Giêsu (Mt 1:17), Mátthêu chỉ đưa ra tên bốn tổ mẫu: bà Tamar (Mt 1:3), bà Ra-kháp, bà Rút (Mt 1:4) và vợ ông Uria (Mt 1:6).  Bốn người phụ nữ thụ thai các con trai của họ bên ngoài phạm trù của sự tinh khiết hoặc ngoài vòng lễ giáo thời bấy giờ.  Vì thế, tình trạng của bốn người phụ nữ này thì bất thường trước Lề Luật Do-Thái.  Sự bất thường của bốn người tổ mẫu này thì hiển nhiên.  Chỉ cần đọc các văn bản của Cựu Ước nơi mà câu chuyện của họ được kể là đã đủ.  Và do đó, tại cuối phần gia phả dấy lên một câu hỏi:  “Và Đức Maria, hiền thê của thánh Giuse, người sinh ra Chúa Giêsu (Mt 1:16), có lẽ cũng phải chịu một số điều bất thường pháp lý chăng?  Đoạn Phúc Âm mà chúng ta suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này nói về điều này.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:

Mt 1:18: Sự không đúng lễ giáo theo pháp luật trong Đức Maria
Đức Maria đã thụ thai trước khi về chung sống với ông Giuse, vị hôn phu của bà.  Người ngoài nhìn vào sự việc thì hẳn nhận biết được có điều bất thường và sẽ nói:  “Bà Maria, thật là quá quắt!”  Chiếu theo lề luật của Môisen, thì những tội này đáng bị ném đá cho chết (Đnl 22:20).  Để tránh điều lý giải sai lầm về các sự kiện này, Mátthêu đã giúp người đọc thấy một khía cạnh khác của việc thụ thai của Đức Maria: “Bà đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần”.  Dưới con mắt thế gian điều này dường như là một sự vi phạm Lề Luật, nhưng trong mắt của Thiên Chúa điều này thì hoàn toàn trái ngược lại!

Mt 1:19:  Sự công chính của thánh Giuse
Việc mang thai của Đức Maria xảy ra trước khi bà về sống với ông Giuse, không phải vì một lỡ lầm của con người, mà là vì thánh ý Thiên Chúa.  Thiên Chúa đã trêu ngươi về lề luật khiết tịnh trong cách để cho Đấng Cứu Thế được sinh ra giữa chúng ta!  Nếu thánh Giuse hành động theo như những ràng buộc của lề luật thời bấy giờ, thì ông đã phải tố cáo Đức Maria và có lẽ bà đã bị ném đá.  Mang thai trước hôn nhân là điều không đúng lễ giáo và không theo luật khiết tịnh, thì bà phải bị trừng phạt với bản án tử hình (Đnl 22:20).  Tuy nhiên, thánh Giuse, bởi vì ông là người công chính, đã không tuân theo những ràng buộc của luật khiết tịnh.  Sự công chính của ông thì cao cả hơn.  Thay vì đi tố cáo, ông muốn tôn trọng điều bí ẩn mà ông không hiểu và quyết định lìa bỏ Đức Maria trong sự kín đáo.  Sự công chính cao cả nhất của thánh Giuse đã cứu mạng Đức Maria và cả mạng sống của Chúa Giêsu.
Vì thế, Mátthêu gửi một sứ điệp quan trọng cho các cộng đoàn tại Pa-lét-tin và Syria.  Như thể nói rằng: “Hỡi anh em, điều gì sẽ xảy ra nếu việc tuân giữ nghiêm nhặt lề luật được thực hiện, điều mà những người Biệt Phái đòi hỏi nơi anh em!  Chúng sẽ giết chết Đấng Cứu Thế!”  Sau đó Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn những người Kinh-sư và Biệt Phái, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).

Mt 1:20-21:  Lời giải nghĩa hoặc giải thích rõ của Thiên Thần Chúa và hai tên được đặt cho Con Trẻ của Đức Maria:  Giêsu và Emmanuel
“Thiên thần của Chúa” giúp khám phá ra chiều kích sâu thẳm nhất của đời sống và của các sự kiện. Người giúp nhìn thấu suốt các sự kiện và nhận thức được ơn gọi của Thiên Chúa mà với con mắt phàm trần của chúng ta không thể nhận biết được.  Thiên thần khiến cho thánh Giuse hiểu được rằng việc thụ thai của Đức Maria là kết quả việc làm của Chúa Thánh Thần.  Chính Thiên Chúa, trong ngày tác tạo trời đất, đã thổi hơi qua các vùng biển và đổ đầy với sức mạnh Lời Tạo Dựng của Chúa (St 1:2).  Việc sáng tạo mới được thực hiện trong Đức Maria.  Đó là sự khởi đầu của trời mới và đất mới, được loan báo bởi ngôn sứ Isaia (Is 65:17).  Con của Đức Maria nhận được hai tên: Giêsu và Emmanuel.  Giêsu có nghĩa là “Cứu-Chúa”.  Ơn cứu rỗi không xuất phát từ những gì chúng ta làm mà là từ Thiên Chúa, đúng ra là từ những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta.  Emmanuel có nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Trong sách Xuất Hành, khi giải thoát dân Do-Thái khỏi đất Ai-Cập, Thiên Chúa hiện xuống với những người dân bị áp bức (Xh 3:8) và phán bảo cùng ông Môisen:  “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12) và từ giây phút đó Chúa không bao giờ lìa bỏ dân Người.  Hai tên, Giêsu và Emmanuel, đưa ra sự chứng thực, và thậm chí vượt qua hẳn những hy vọng của người ta.

Mt 1:22-23:  Giai điệu Tin Mừng của Mátthêu
“Tất cả điều này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ”.  Câu này hoặc những câu tương tự khác giống như một giai điệu, những lời được lập lại nhiều lần trong Tin Mừng của Mátthêu (Mt 1:23; 2:5,15,17,23; 4:14; 8:17; 12:17; 13:14,35; v.v.).  Điều này cho thấy mục đích mà tác giả đã có trong lòng: để xác nhận với các độc giả gốc Do-Thái của ông sự thật rằng Chúa Giêsu chính thực là Đấng Mêssia đã được hứa xưa kia.  Trong Người, mọi lời hứa từ các ngôn sứ đã được ứng nghiệm.
Ở đây Mátthêu trích lời ngôn sứ Isaia:  “Người trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ là Emmanuel” (Is 7:14).  Danh hiệu Emmanuel không chỉ đơn thuần là một tên gọi cho chúng ta thấy ý nghĩa tên gọi của Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu là bằng chứng rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục ở với chúng ta. Tên của Con Trẻ là Giêsu (Mt 1:25).

Mt 1:24-25:  Sự vâng lời của thánh Giuse
Khi tỉnh dậy, thánh Giuse đã thực hiện như lời Thiên Thần Chúa truyền và tiếp nhận Đức Maria vào nhà ông.  Và thánh Mátthêu tiếp tục nói rằng ông Giuse đã không ăn ở với Đức Maria, để xác nhận rằng Chúa Giêsu được sinh ra từ Chúa Thánh Thần.

c)  Phần phụ chú:


Chìa khóa cho sách Tin Mừng của Mátthêu – Phúc Âm của Mátthêu được gửi tới cho cộng đoàn người Do Thái cải đạo, những người sống trong một cuộc khủng hoảng sâu xa về căn tính liên quan đến quá khứ là người Do Thái của họ.  Vào năm 65 sau Công Nguyên khi cuộc nổi dậy chống lại người Rôma bùng nổ, các Kitô hữu gốc Do-Thái đã không tham gia và họ lìa bỏ Giêrusalem.  Những người Biệt Phái cũng làm như vậy.  Sau khi thành Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70, những người Biệt Phái tái tổ chức những người đã ở lại và họ lập thành hàng ngũ, luôn trong một cách quả quyết hơn, chống lại những các Kitô hữu, những người mà sau cùng mà họ đã ra vạ tuyệt thông.  Vạ tuyệt thông này đã làm cho vấn đề về căn tính thậm chí còn tồi tệ hơn.  Bấy giờ, chính thức bị vạ tuyệt thông, họ không còn có thể đi đến đi đến Hội Đường của họ, hay đến các Giáo-sĩ rabbi của họ.  Và một vấn nạn đã dấy lên trong số họ:  Những lời hứa được thuộc về ai: chúng thuộc về Hội Đường hay thuộc về Giáo Hội?  Ai chính là Dân của Chúa, họ hay là chúng ta?  Đức Giêsu có thật là Đấng Cứu Thế không?  Mátthêu viết quyển Tin Mừng của ông cho cộng đoàn này.  Tin Mừng của Mátthêu có thể được định rõ bởi ba chữ sau đây:
i)  Tin Mừng của sự an ủi cho những ai bị vạ tuyệt thông và bị ngược đãi bởi người Do-Thái anh em của họ là những người không chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Chúa Kitô); nó giúp họ vượt qua cơn chấn thương hoặc kích động của sự chia lìa.
ii)  Tin Mừng của sự mặc khải: Nó cho thấy Chúa Giêsu là Đấng Mêssia thật sự, Đấng Mêssia mới, Đấng mà trong đó hội đủ tất cả mọi lịch sử của Cựu Ước với những lời hứa của nó.
iii)  Tin Mừng của sự thực hành mới: trong đó mô tả sự thực hành của Chúa Giêsu, và cho thấy làm thế nào để đạt được một nền công lý mới, cao cả hơn so với công lý của những người Biệt Phái.

Điều này xảy ra để nó có thể được thực hiện – bằng ý nghĩa của những chữ này được lặp lại nhiều lần trong quyển Tin Mừng của ông, Mátthêu đã đụng chạm đến điểm căng thẳng lớn nhất giữa các Kitô hữu và người Do Thái.  Bắt đầu từ Kinh Thánh, họ nói rằng:  “Ông Giêsu không phải và không thể nào là Đấng Mêssia!”  Cũng bắt đầu từ Kinh Thánh, Mátthêu đã trả lời và khẳng định:  “Đức Giêsu chính thực là Đấng Mêssia!”

Việc mang thai của Đức Maria – Mátthêu cũng như Luca dẫn trích lời ngôn sứ Isaia “Một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7:14).  Nhưng có một sự khác biệt. Thánh Luca đặt Đức Maria tại tâm điểm và cho dấu hiệu của sự trinh tiết thì quan trọng hơn (Lc 1:31). Mátthêu đặt thánh Giuse làm trung tâm và chú ý đến tầm quan trọng ý nghĩa của tên Emmanuel hơn.

Giấc mộng của thánh Giuse – Thiên Thần Chúa hiện đến cùng thánh Giuse trong giấc mơ và giúp ông hiểu thấu.  Với sự trợ giúp của Thiên Thần Chúa, thánh Giuse thành công trong việc khám phá ra việc làm của Thiên Chúa trong sự kiện này, mà theo định kiến của thời bấy giờ, dường như chỉ là hoa trái của sự lầm đường và của tội lỗi.  Thiên thần có nghĩa người đưa tin.  Thiên Thần Chúa mang tin đến và mang sự trợ giúp đến để nhận thức được công việc của Thiên Chúa trong đời sống.  Ngày nay có nhiều Thiên Thần Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống. Có khi họ làm việc trong lúc chúng ta ngủ, trong các giấc chiêm bao của chúng ta, những lúc khác trong các buổi họp, trong các cuộc đàm luận và trong các cuộc học hỏi Kinh Thánh, trong các sự việc, v.v.  Có rất nhiều Thiên Thần, rất nhiều Thiên Thần!

6.  Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 72 (71): 

Danh Thánh Người tồn tại đến muôn đời!
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!

Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, và Saba,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.

Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.

Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.

Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA
là Thiên Chúa Israel,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
Amen! Amen!

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét