Trang

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Khi Sự Thật Chết Đi, Ai Sẽ Hoài Mong Nó? Một Phản tỉnh trong Thời Đại Hậu-Sự Thật

 

Khi Sự Thật Chết Đi, Ai Sẽ Hoài Mong Nó? Một Phản tỉnh trong Thời Đại Hậu-Sự Thật


Khi Sự Thật Chết Đi, Ai Sẽ Hoài Mong Nó?

Một Phản tỉnh trong Thời Đại Hậu-Sự Thật

 

Sau khi Từ điển Oxford nâng “hậu-sự thật” lên vị thế từ của năm 2016, khái niệm này đã thu hút nhiều sự chú ý của công chúng.[1] Từ điển có ảnh hưởng này đã liên kết thuật ngữ trên với các sự kiện như Brexit và sự trỗi dậy của cánh hữu dân túy mới ở nhiều quốc gia phương Tây. Chúng tôi muốn nói rằng thuật ngữ “hậu-sự thật” ám chỉ thái độ ngừng ưu tiên các sự kiện khách quan trong tiến trình hình thành ý kiến công chúng, để ủng hộ hệ tư tưởng bộ lạc.

 

Tuy nhiên, nếu sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy, thường được thúc đẩy bởi các thuyết âm mưu, khiến chúng ta có cảm giác đang bước vào kỷ nguyên mới của hậu sự thật, thì cần thừa nhận rằng đây không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới. Các chế độ toàn trị trong quá khứ chỉ truyền thông cho công dân của quốc gia họ những gì vốn để củng cố hệ tư tưởng của họ. Họ thậm chí thường đi xa hơn khi sửa đổi các sự kiện khách quan để chuẩn nhận hệ tư tưởng đã thể chế hóa của mình. Sự thật sẽ được điều chỉnh không phải theo thực tế khách quan độc lập với các cấu trúc của con người, mà theo hệ tư tưởng của nhóm giành được quyền lực. Đây là lý do tại sao hậu-sự thật dễ dàng dẫn chúng ta nghĩ đến chủ nghĩa Quốc xã của những năm 1930, cũng như chủ nghĩa xét lại lịch sử của chế độ Xô Viết và các đồng minh của nó.

 

Trong bối cảnh này, thật thích đáng để xem xét luận đề do nhà sử học và nhà tiểu luận người Mỹ Timothy Snyder đề xuất.[2] Theo ông, “hậu-sự thật là tiền-phát xít”.[3] Vì thế, Snyder chỉ ra một góc nhìn nghịch lý: bạo lực của chủ nghĩa phát xít, một đặc trưng của đường lối cực hữu, dường như đã phát triển từ chủ nghĩa tương đối do các ý thức hệ cực-tả thúc đẩy.

 

Đi sâu hơn vào luận đề này, chúng ta sẽ có thể hiểu được cách thức hậu-sự thật xuất hiện từ cấu trúc tinh thần của một chủ nghĩa hậu hiện đại nào đó: hạ thấp sự thật thực tế để ủng hộ nguyên tắc rằng mọi thứ đều tương đối. Kế đến, chúng ta sẽ xét xem bằng cách nào mà chủ nghĩa tương đối, được thúc đẩy bởi cái gọi là “cánh tả hậu hiện đại”, có thể tạo ra khả năng quay trở lại của một loại chủ nghĩa phát xít.

 

Do đó, chúng tôi sẽ xem xét luận đề này, trước tiên xác định vấn đề về cấu trúc tinh thần của cái gọi là “hậu hiện đại” về lối sống cộng đồng. Tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ ra cách các chiến lược được thúc đẩy để chống lại các vấn đề của hậu-sự thật chỉ có thể hiểu được trong một quan điểm hiện thực. Cuối cùng, chúng tôi sẽ bảo vệ tầm quan trọng của tình huynh và đối thoại, dựa trên khả năng hội tụ hướng tới các chân lý khách quan.

 

  • Giải cấu trúc về Khái niệm Chân lý Khách quan

Nếu chúng ta yêu cầu một tác giả kinh điển như Aristotle đưa ra một định nghĩa về chân lý, chúng ta sẽ thấy một mối tương quan tương ứng giữa các tuyên bố mà chúng ta có thể đưa ra như, chủ thể nhận thức và thực tế khách quan, cái độc lập với chúng ta: “Sẽ sai khi nói rằng cái tồn tại không tồn tại hoặc rằng cái không tồn tại có tồn tại; nhưng nói rằng tồn tại là có và không-tồn tại là không, như thế mới đúng.”[4] Định nghĩa này cho thấy rằng chân lý của một tuyên bố được xác định bởi sự tương ứng của nó với các sự kiện khách quan, liên quan đến các thực tế bên ngoài và độc lập với chúng ta. Mặc dù, trên thực tế, chân lý nằm trong tư duy nhưng Aristotle khẳng định có sự phụ thuộc của nó vào một thực tế ngoài các cấu trúc của con người: “Diễn ngôn chân chính không thể, theo bất kỳ cách nào, tạo ra thực tại cho nội dung của chính nó, nhưng nội dung tự thể hiện theo một cách nhất định như là nguyên nhân cho thực tại chân thật của diễn ngôn.”[5]

 

Theo quan điểm này, suy nghĩ của tôi gặp thấy bản chất của một thực tại, vốn độc lập với ý chí, niềm tin và ý thức hệ của tôi. Trung thành với truyền thống triết học này, Thomas Aquinas đã kế thừa một công thức thể hiện quan niệm hiện thực này: chân lý là “adaequatio rei et intellectus,”[6] nghĩa là “sự phù hợp của sự vật và của trí tuệ.”[7] Do đó, chân lý được quan niệm là sự tương ứng giữa thực tại khách quan và tâm trí.

 

Đây là khái niệm cổ điển về chân lý xét như là sự tương ứng, vốn là khái niệm cho rằng phải có một số sự đồng nhất giữa bản thân thực tại và những gì được tạo ra trong tâm trí tôi. Bất cập của quan điểm này xuất phát từ thực tế là chúng ta không nhìn mọi thứ bằng con mắt của Chúa, Đấng đã tạo ra chúng. Nếu tôi không phải là người tạo ra những thứ tôi nhìn thấy, làm sao tôi có thể biết được liệu nhận thức của mình có tương ứng với bản chất thực tại của chúng hay không? Vì trong khi tôi chỉ tiếp cận được những hình ảnh được tạo ra trong tâm trí mình, thì sẽ rất khó, nếu không muốn nói là không thể, để tôi biết chắc chắn về thực tại của chính những thứ tồn tại bên ngoài tôi. Do đó, đối với tôi, việc nghĩ rằng tôi đang tiếp cận được bản chất chính xác của các thực thể bên ngoài và độc lập với tôi có vẻ là ảo tưởng, bởi vì tôi chỉ nhìn thấy chúng qua lăng kính của đôi mắt mình.

 

Nietzsche cho thấy sự bế tắc của lập trường hiện thực này khi cho rằng nhận thức giác quan mà chúng ta có ở bất cứ thời điểm nào “không bao giờ dẫn đến chân lý nhưng được thỏa mãn bởi các kích thích” mà chúng ta tiếp nhận và được tạo ra bên trong hữu thể, bên trong cuộc sống của chúng ta.[8] Descartes đã nhận thấy sức nặng của lập luận hoài nghi này trong việc giải cấu trúc chủ nghĩa hiện thực. Và, khi tìm cách vượt qua nó, ông đã đề xuất một định nghĩa mới về chân lý: đó là một sự chắc chắn chủ quan sẽ được thiết lập trong chúng ta thông qua bằng chứng về sự rõ ràng và sự phân biệt của một số ý tưởng nhất định.[9]

 

Tuy nhiên, chính ông, cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại, là người đã đưa chúng ta đến với cách tiếp cận quy chủ thể để xác định chúng ta la ai. Vì vậy, khi chúng ta tập trung vào những ý tưởng xuất hiện trong tâm trí, chúng ta đã dần rời xa quan điểm hiện thực. Hầu hết các triết gia đã dần quan niệm rằng việc tiếp cận chân lý chỉ đơn giản là một hoạt động chủ quan. Cuối cùng, chủ nghĩa hiện thực nhường chỗ cho chủ nghĩa phối cảnh: nó không chỉ là vấn đề khẳng định sự bất khả thi của việc tiếp cận một Chân lý khách quan và phổ quát, mà còn là bác bỏ luôn cả sự tồn tại của một Chân Lý viết hoa như vậy. Những sự kiện khách quan vì thế mất đi sự liên hệ, trong khi những cách giải thích chủ quan và tùy hoàn cảnh lại được đề cao. Cuối cùng, không còn sự thật khách quan nào nữa: mọi thứ giờ đây chỉ còn là những cách giải thích có thể có.

 

Tóm lại, đây là quan điểm của Nietzsche, một trong những nhà tư tưởng được coi là cha đẻ của trường phái “hậu hiện đại.” Nietzsche, người nói rằng mình “hành triết bằng những nhát búa.” Theo như Habermas nhận xét, Nietzsche đã mở ra khả năng xem xét thế giới một cách nghệ thuật, bằng một lập trường phản siêu hình được đặc trưng bởi chủ nghĩa hoài nghi nhận thức luận cấp tiến. Theo nghĩa này, chân lý cuối cùng dễ dàng bị giản lược, trong một quan điểm như vậy, chân lý trở thành sản phẩm của ý chí quyền lực. Đây sẽ là kết quả tự nhiên của việc tố cáo ảo tưởng của những người tin vào tính khách quan của chân lý.[10] Do đó, chân lý được coi là một cấu trúc hoàn toàn mang tính con người. Đây là cách nhà tư tưởng người Đức định nghĩa nó, cụ thể là, như một thuyết nhân hóa.[11]

 

Nietzsche mô tả cho chúng ta quá trình hình thành các chân lý đã kết tinh thông qua các quy ước xã hội, các giai đoạn lịch sử, truyền thống và văn hóa. Khi làm như vậy, ông đã dấy lên sự hoài nghi về bất kỳ kiến ​​thức nào mà chúng ta cho là mình có thể tiếp cận. Thật vậy, làm sao tôi có thể chắc chắn rằng suy nghĩ nảy sinh trong tâm trí tôi tương ứng với thực tế khách quan của môi trường xung quanh tôi? Đối với Nietzsche, có một giả định sai lầm về chân lý trong quan điểm hiện thực: ông nói rằng, các nhà triết học cổ điển đã thực hiện một hành động đạo đức giả bởi lòng kiêu hãnh tuyệt đối khi tuyên bố họ biết bản chất của sự vật trong chính chúng, như thể sự trình hiện trong tâm trí đã tiếp cận được thực tế của sự vật.[12]

 

  • Chủ Nghĩa Tương Đối như là Tin Vui

Khi công bố bản chất bấp bênh, tương đối và thay đổi của bất kỳ chân lý nào mà chúng ta có thể hình dung, Nietzsche không có ý định đưa cho chúng ta tin xấu: đó là tin vui đối với ông, ngay cả khi nó liên quan đến rủi ro cho những ai dám sống trong sự ngẫu nhiên tuyệt đối của thực tế. Trong phạm vi chúng ta giải cấu trúc khái niệm cổ điển về chân lý, chúng ta mở ra chân trời cho những chân lý mới mà mỗi người chúng ta có thể tạo ra bằng chính cuộc sống của mình. Nếu điểm yếu của chân lý bắt nguồn từ bản chất tương đối cố hữu của nó, thì sức mạnh của nó nằm ở khả năng tạo ra những chân lý mới của chúng ta. Chấp nhận sự ngẫu nhiên không thể vượt qua của bất kỳ chân lý nào là khám phá ra bản thân mình như một chủ thể “sáng tạo đầy nghệ thuật”.[13] Việc giải cấu trúc chủ nghĩa hiện thực đi kèm với tuyên bố rằng mỗi người chúng ta là nhà sáng tạo của những chân lý mới. Đó là lý do tại sao tôi chỉ thực sự trở nên tự do sau khi loại bỏ Chân lý khách quan và phổ quát. Do đó, việc đánh bại Chân lý tuyệt đối như vậy, mà tôi nên thích nghi, ứng với chiến thắng của tôi như một “thiên tài kiến thiết” đầy quyền năng. Và, không giống như loài ong, tạo ra mật ong từ những gì chúng tìm thấy trong thiên nhiên xung quanh, tôi chỉ có thể tạo ra các khái niệm từ chính mình.[14] Do đó, Nietzsche không chỉ phá vỡ quan điểm hiện thực; ông đã mời chúng ta tạo ra bản chất riêng, hoàn toàn độc đáo của mình từ người mà chúng ta là, hay nói cách khác, từ chính ý chí của chúng ta.

 

Cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa hiện thực cổ điển do đó xuất phát từ động lực này, cái khiến tôi chống lại phong trào thích nghi với thực tế bên ngoài tôi, một thực tế dường như không thuộc về cuộc sống của chính tôi. Tôi coi quan điểm hiện thực này là toàn trị, vì nó tìm cách áp đặt lên tôi một Chân Lý mà tôi phải thích nghi, khi phải tuân theo tất cả những người khác sống cùng tôi trên trái đất này, hành tinh đầy những khả năng khác nhau cần được khám phá. Chính các quy ước xã hội quyết định tôi phải là ai, trong khi tôi có thể trở thành một người khác, người không thích nghi với những cấu trúc không đến từ tôi.

 

Theo quan điểm này, việc tìm kiếm một Chân lý phổ quát gắn liền với việc hạn chế quyền tự do khám phá và tự quyết của bản ngã tôi. Và thật dễ hiểu tại sao: sự tham chiếu đến Chân lý khách quan được tìm thấy trong một thực tại bên ngoài bản thể tôi và độc lập với những gì tôi có thể mong muốn. Do đó, sự giải thoát xảy ra khi tôi trở thành điểm tham chiếu chính trong quá trình xây dựng chân lý của tôi – và chỉ của tôi. Cả xã hội loài người, nơi buộc tôi phải thích nghi với các quy ước xã hội và các nguyên tắc phổ quát và trừu tượng của nó, cũng như sinh học, nơi xác định những cá nhân là gì thông qua sự thích nghi của họ với môi trường hoặc với các đặc điểm vật lý của một cơ thể nhất định, không nên hạn chế chân trời khả năng của tôi với tư cách là chủ thể sáng tạo và tạo ra thực tại cá nhân của mình.

 

Theo cách này, tất cả Chân lý với chữ “T” (Truths) viết hoa đều bị phá hủy. Bất cứ điều gì được trình bày với tôi như là phổ quát và tuyệt đối sẽ được tôi coi là bạo lực chống lại ý chí cá nhân của tôi. Rốt cuộc, tại sao tôi phải thích nghi với một chân lý chỉ là một cấu trúc của con người và đã được kết tinh thông qua các quy ước xã hội? Hãy để tôi là chính mình hoặc là người tôi muốn trở thành!

 

  • Thuyết Duy Quan Điểm (Perspectivism)

Chúng ta vừa mô tả cái được xem là tư duy của cái gọi là “hậu hiện đại”. Bây giờ câu hỏi đặt ra là chủ nghĩa duy quan điểm cấp tiến của Nietzsche có thể dẫn chúng ta tới đâu. Chúng tôi sẽ chỉ ra rằng việc giải cấu trúc Chân Lý chứa một tuyên bố đáng tự hào. Bởi vì nếu chủ nghĩa hiện thực có thể dẫn đến sự kiêu ngạo của những người cho rằng mình biết hoàn toàn bản chất của mọi thứ trong chính chúng, thì chủ nghĩa duy quan điểm cũng có thể khiến các cá nhân có sự kiêu ngạo khi áp đặt chân lý hoàn toàn mang tính cá nhân của mình lên người khác.

 

Trước tiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng hậu-sự thật không bắt nguồn từ các phong trào bộ lạc của phe cực hữu hiện tại mà bắt nguồn từ quan điểm được giảng dạy trong nhiều thập kỷ tại các trường đại học danh tiếng nhất ở phương Tây. Ít nhất, đó là luận điểm mà Snyder gợi ý. Theo quan điểm như vậy, chính trong bối cảnh học thuật này mà sự thật đã được xem xét để xác định vai trò của lịch sử, các giá trị và lợi ích trong hành vi tạo ra và sự kết tinh xã hội của nó, theo một câu chuyện gần giống với câu chuyện của Nietzsche. Do đó, trong các phạm vi học thuật như vậy, việc trở thành một người theo chủ nghĩa hiện thực đã trở nên rất khó khăn, bởi vì hiện trạng hiện tại coi việc tuyên bố biết một thực tế khách quan độc lập với chúng ta là bất hợp pháp và thể hiện thái độ toàn trị. Hơn nữa, ngay cả sự tồn tại của thực tế bên ngoài này cũng đã trở thành một ảo tưởng trong những bối cảnh như thế.

 

Một mặt, chủ nghĩa duy quan điểm dẫn chúng ta đến việc quan niệm chân lý như một quy ước áp đặt lên chúng ta bởi sức mạnh của một quyền lực đã được thiết lập. Người ta tin rằng chân lý hiện hữu có liên hệ chặt chẽ với việc thực thi quyền lực. Vì không có sự tìm kiếm trung lập nào cho chân lý khách quan, nên cuối cùng mọi thứ đều quy về một hiện trạng phù hợp với một nhóm hoặc thể chế cụ thể. Khi đó, những người chiến thắng sẽ là người quyết định điều gì đúng và sai, điều gì tốt và xấu, nhằm mục đích củng cố quyền lực của họ. Từ quan niệm về chân lý này, việc lên án chủ nghĩa độc tài của các thể chế hiện đang nắm quyền lực trong xã hội và ngăn cản cá nhân trải nghiệm bản ngã độc nhất của riêng mình trở nên cấp thiết.

 

Mặt khác, chính quan điểm này cuối cùng lại hợp thức hóa việc áp đặt chân lý thông qua vũ lực. Điều này xảy ra bởi vì, theo lập luận của chủ nghĩa quan điểm, không có cách nào khác để thiết lập chân lý. Trên thực tế, vì thiếu một điểm tham chiếu bên ngoài trải nghiệm của con người để xây dựng một mệnh đề đúng, nên mọi thứ đều bị thu hẹp lại thành một cấu trúc đơn thuần của các khả năng xây dựng của chúng ta. Do đó, vì chúng hoàn toàn đơn lẻ và duy nhất, nên các cấu trúc của mỗi cá nhân chỉ có thể được hiện thực hóa trên thế giới thông qua vũ lực, sức mạnh mà một số người – những người “mạnh mẽ”, những người “cao quý”, như Nietzsche nói – có thể thực hiện được.

 

Điều này không phải là phủ nhận sự tồn tại của chân lý, mà đúng hơn là hạ thực tế khách quan xuống thấp hơn quan điểm ý thức hệ và cá nhân của chủ thể con người. Bị bao bọc trong một chân trời như vậy, chúng ta hiểu rằng khi một người tranh cãi về một sự thật khách quan, thì có một động cơ mạnh mẽ để làm như thế: chủ nghĩa duy quan điểm của Nietzsche cho rằng những người làm như vậy đang tìm cách đạt được lợi ích lớn nhất cho mình, để cho phép cuộc sống của họ phát triển. Theo nghĩa này, hậu-sự thật định hình một hình thức tối cao về ý thức hệ, áp đặt chính nó bằng vũ lực, coi thường bằng chứng của các sự thật khách quan.

 

Tới đây, chúng ta hãy quay lại luận đề của Snyder để phát triển nó: “Bây giờ chúng ta thấy mình rất quan tâm đến thứ mà chúng ta gọi là ‘hậu-sự thật’, và chúng ta có xu hướng nghĩ rằng sự khinh thường của nó đối với các sự kiện hàng ngày và việc xây dựng các thực tế thay thế là một cái gì đó mới mẻ hoặc hậu hiện đại […]. Trong triết lý của nó, hậu-sự thật khôi phục chính xác thái độ phát xít đối với sự thật.”[15]

 

Thật vậy, không có gì ngạc nhiên khi thấy một số điểm tương đồng giữa chủ nghĩa toàn trị của thế kỷ trước và những người ủng hộ các biểu hiện mới của chủ nghĩa dân tộc bài trừ và cánh hữu dân túy, bởi vì cả hai đều xây dựng một vũ trụ song song được chi phối bởi các chuẩn mực của riêng họ. Cả hai đều bác bỏ Chân lý như một nguyên tắc khách quan, thậm chí còn đi xa hơn khi phủ nhận dữ liệu mà khoa học cung cấp ngày nay. Rốt cuộc, nếu mọi chân lý đều bị thu hẹp thành sản phẩm của một bối cảnh lịch sử, xã hội và ý thức hệ nhất định, thì đó chỉ là vấn đề cố gắng áp đặt cấu trúc của nhóm mà chúng ta thuộc về, với mục đích chuyển từ kẻ thua cuộc sang người chiến thắng trong lịch sử. Trong mọi trường hợp, quan điểm kiến ​​tạo này về một chân lý nhân cách hóa đã nổi bật trong cả phe cực hữu và cực tả. Quả vậy, giống như những gì đã xảy ra trong quá khứ với Đức Quốc xã và với chủ nghĩa xét lại lịch sử của chế độ Xô Viết, không gì được miễn trừ khỏi sự áp đặt chân lý mang tính ý thức hệ của nhóm mình.

 

Từ chủ nghĩa duy quan điểm cấp tiến phát sinh một xung đột giữa các quan điểm khác nhau, cạnh tranh để giành quyền tối cao về việc “chân lý” nào sẽ chiếm ưu thế trong xã hội. Điều còn lại mà chúng ta phải làm là tham gia vào nhóm thúc đẩy chân lý của chúng ta nhiều nhất. Luận đề của Snyder dường như khẳng định rằng não trạng hậu-sự thật này không chỉ mang tính phát xít, vì nó đặc trưng cho bản chất của cánh tả hậu hiện đại. Thật vậy, ai là người theo chủ nghĩa Nietzsche hơn một nhà tư tưởng của chủ nghĩa Thức tỉnh đương đại? Do đó, chân lý không chỉ bị thu hẹp thành một cấu trúc của con người, một quy ước xã hội đơn thuần, mà mỗi cá nhân đều sở hữu chân lý của riêng mình, hoàn toàn độc đáo, đến mức ngay cả thực tế sinh học cũng không còn được phép xác định con người của mỗi chúng ta nữa.
Trong bối cảnh này, thật thích hợp khi tham khảo Tuyên ngôn “Dignitas Infinita”- về Phẩm giá Con người [của Bộ Giáo Lý Đức Tin], vì Tuyên ngôn chỉ trích cái gọi là “thuyết giới tính”, một thuyết trở thành ý thức hệ khi nó vô hiệu hóa hoàn toàn bất kỳ “sự khác biệt” nào giữa nam và nữ, coi sự phân biệt này hoàn toàn là văn hóa.[16] Quả vậy, cách tốt nhất để đảm bảo phẩm giá của con người là khẳng định rằng phẩm giá này vốn có trong chính bản chất của mọi vật, thay vì được quy định ngang qua sắc lệnh áp đặt bởi một xã hội hoặc một nhóm cá nhân nắm quyền trong một bối cảnh xã hội cụ thể.[17]

 

Tuy nhiên, chủ nghĩa duy quan điểm tương đối (relativist perspectivism) lại phủ nhận khả năng có một Chân lý chung cho tất cả mọi người, tức là mang tính phổ quát. Điều này ảnh hưởng đến cách chúng ta hiểu về quyền con người. Mặc dù chúng vẫn được dán nhãn là phổ quát, nhưng những quyền như vậy trở nên hoàn toàn bị hạn chế bởi vì khi khả năng nhận biết một chân lý chung cho tất cả mọi người bị đặt vấn đề, thì quyền của mỗi người sẽ bị giới hạn vào việc để ý xây dựng bản sắc độc đáo của riêng họ.

 

Trong bối cảnh này, cần xem xét những gì Đức Giáo hoàng Phanxicô tuyên bố trong thông điệp Fratelli Tutti, trích dẫn Laudato Si’ về “chủ nghĩa tương đối”: “Khi bản thân nền văn hóa bị tha hóa, và chân lý khách quan cùng các nguyên tắc có giá trị phổ quát không còn được duy trì, thì luật pháp chỉ có thể được coi là sự áp đặt tùy tiện hoặc là những trở ngại cần tránh.”[18]

 

Do đó, Đức Giáo hoàng nói về một loại khoan dung mà cuối cùng sẽ chia cắt chúng ta khỏi nhau. Thực vậy, tôi nhất thiết phải tách mình khỏi mọi người khi tôi phải chấp nhận ý chí cá nhân của họ. Khi giả định rằng các Chân lý phổ quát hạn chế cuộc sống của mỗi cá nhân, tôi sẽ có thể cho phép họ sống cuộc sống của họ theo mức họ tránh xa tôi để không làm xáo trộn sự thật của tôi. Cấu trúc xã hội sau đó trở nên ngày càng phân mảnh khi các cá nhân tìm cách áp đặt sự thật riêng tư của họ lên tất cả những người không xây dựng chúng hoặc không muốn chấp nhận chúng như của chính họ. Điều này cũng dẫn đến sự phân cực ngày càng tăng của cấu trúc xã hội của chúng ta.

 

Đây là lý do tại sao, sau cái chết của Chân lý, chúng ta lại thấy thiếu vắng nó vì khi chúng ta từ bỏ việc tìm kiếm Chân lý khách quan, các nguyên tắc của kẻ mạnh nhất sẽ dễ dàng được áp đặt lên chúng ta. Đây là quá trình giải thích mối liên hệ giữa chủ nghĩa tương đối do phe cánh tả hậu hiện đại thúc đẩy và nguyên tắc bạo lực của chủ nghĩa phát xít. Nếu không tham chiếu đến thực tế bên ngoài mà tất cả chúng ta nên thích nghi, thì không thể nói rằng ai đó sai khi bày tỏ ý kiến ​​không được củng cố bởi các sự kiện khách quan. Bằng cách từ bỏ thực tế khách quan, chủ nghĩa triển vọng không chỉ đơn giản tuyên bố rằng mọi chân lý đều tương ứng với quan điểm của một cá nhân hoặc một nhóm. Quan niệm tương đối về chân lý của nó ngụ ý một hình thức truyền tải rất cụ thể: thông qua bạo lực. Trong bối cảnh như vậy, hoặc là có một nhóm cuối cùng sẽ thắng thế hơn tất cả những nhóm khác, hoặc là sự tách biệt được thiết lập giữa mọi người, mỗi người sống trong một xã hội riêng song song với người khác. Trong cả hai trường hợp, khả năng xây dựng sự hiệp thông giữa những người khác nhau đều bị phủ nhận.

Tổng Trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, đã nói điều gì đó rất tương tự trong bài trình bày tài liệu Dignitas Infinita: “Tuyên ngôn này cố gắng chỉ ra rằng đây là một chân lý phổ quát mà tất cả chúng ta được kêu gọi thừa nhận như một điều kiện cơ bản để xã hội của chúng ta thực sự công bằng, hòa bình, lành mạnh và nhân văn.”[19]

 

Trong một thế giới ngày càng phân cực và chia cắt, chúng ta cảm thấy thiếu một Chân lý có thể gắn kết chúng ta. Về vấn đề này, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói, “Ngày nay […] chủ nghĩa cực đoan và sự phân cực đã trở thành công cụ chính trị […] kết quả là, đời sống xã hội trở nên nghèo nàn và chịu sự kiêu ngạo của những kẻ có quyền lực.”[20] Đây là cuộc chiến của tất cả chống lại tất cả. Do đó, những lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô coi những nguy hiểm của lập trường tương đối này là một điều xấu đe dọa tương lai của chúng ta. Trong bối cảnh này, chúng tôi trình bày dưới dạng bản thảo gồm ba dòng lập luận ủng hộ quan niệm hiện thực, tham chiếu đến giáo huấn hiện hành của Giáo hội.

 

  • Tại sao chúng ta cần phải là những người hiện thực

Đầu tiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng chính khái niệm hậu-sự thật, cũng như các phương tiện để giảm thiểu thiệt hại của nó, đã tiền giả định một quan điểm hiện thực. Ví dụ, hãy xem xét máy phát hiện nói dối và kiểm tra thực tế được triển khai rộng rãi trên các phương tiện truyền thông ngày nay. Một mặt, việc xác minh sự thật của một tin tức phụ thuộc vào kiến ​​thức đúng đắn về sự kiện khách quan đang được đề cập. Chỉ có thể nói rằng ai đó đã phát tán tin giả trong trường hợp chúng ta có thể chứng minh rằng người đó đã đưa ra tuyên bố không tương ứng với thực tế khách quan mà chúng ta có thể biết. Mặt khác, các tổ chức thực hiện dịch vụ kiểm tra thực tế này phải đảm bảo sự độc lập của họ khỏi các hệ tư tưởng đang hoạt động trong cấu trúc xã hội. Do đó, việc kiểm tra thực tế được sử dụng để chống lại các mối nguy hiểm của hậu-sự thật, do đó nhất thiết phải tiền giả định chủ nghĩa hiện thực, theo đó chúng ta phải tham chiếu đến một thực tế khách quan độc lập với ý chí và các cấu trúc hệ tư tưởng của chúng ta.

 

Về vấn đề này, khi đề cập đến vấn đề “bạo lực kỹ thuật số”, Đức Hồng Y Fernández đề cập đến nghịch lý của phương tiện truyền thông kỹ thuật số, trong khi làm cho thông tin dễ tiếp cận hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp giữa mọi người, thì lại có thể cô lập và làm nghèo nàn các mối quan hệ giữa các cá nhân: cần phải tránh bạo lực đối với người khác thông qua “việc theo đuổi toàn bộ sự thật một cách trung thực”.[21]

 

Thứ hai, người ta có thể bác bỏ sự giải cấu trúc của Nietzsche bằng cách cho thấy hoàn toàn có thể giả định rằng chúng ta biết điều gì đó về thực tại khách quan tồn tại độc lập với chúng ta. Quả vậy, một người theo chủ nghĩa hiện thực không nhất thiết rơi vào sự ngây thơ khi nghĩ rằng những gì chúng ta nhìn thấy tương ứng với bản chất đích thực của sự vật. Rõ ràng là chúng ta chỉ nhận thức được những gì đi qua bộ lọc ý thức của chúng ta và theo một cách nào đó được xây dựng bên trong nó. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là kiến ​​thức không phụ thuộc vào một thực tại độc lập với chúng ta và các cấu trúc của chúng ta, cũng không ngụ ý rằng thực tại này là hoàn toàn không thể biết được. Thật dễ dàng để thấy rằng luôn có điều gì đó chống lại các lỗi nhận thức và ý định của chúng ta. Ví dụ, khi tôi sắp mở cửa và chìa khóa bị trục trặc, tôi ngay lập tức xác minh một thực tại bên ngoài tôi mà tôi phải thích nghi, dù tôi có muốn hay không: nếu không, tôi vẫn cứ đứng ngoài nhà, trên đường.

 

Do đó, khả năng tiếp cận chân lý được xem là bị giới hạn bởi một thực tế được tiếp nhận. Chúng ta liên tục được kêu gọi chấp nhận những thực tế mà chúng ta chưa xây dựng và phải thích nghi với những hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Kiến thức về những thực tế như vậy đạt được thông qua sự khiêm tốn khi thừa nhận rằng người ta không thể biết hoặc xây dựng mọi thứ. Những người thích nghi với một thực tế đi trước và và cấu thành nên họ đều nhận thức rằng họ chỉ đạt được kiến ​​thức hạn chế. Sự kiêu ngạo ngự trị nhiều ở chủ thể tạo ra chân lý chủ quan của riêng mình hơn là ở người cố gắng thích nghi với một thực tế khách quan độc lập với những cấu trúc của riêng mình.

 

Thứ ba, Chân lý khách quan thể hiện như một điều kiện khả thi cho đối thoại và giao tiếp giữa những người khác nhau. Về vấn đề này, điều quan trọng là, một mặt phải hiểu cách mà quan niệm kiến ​​tạo về chân lý đã dẫn đến chủ nghĩa tương đối về đạo đức; và mặt khác, đã đưa đến việc quy giản việc học thành kiến ​​thức kỹ thuật, mà với kiến thức ấy chúng ta có thể sản xuất ra sản phẩm và kiếm lợi nhuận tài chính. Khi kiến ​​thức được công cụ hóa theo cách này, được biến thành một kỹ thuật cho phép chúng ta định hình thế giới theo ý thích của mình, thì tuy khoa học nhân văn và khoa học xã hội không biến mất hoàn toàn, nhưng chúng không còn là nơi gặp gỡ và tranh luận hài hòa nữa. Trên thực tế, bản thân khoa học mất đi tính khách quan của nó, và có thể nói trở thành một vũ khí tư tưởng và chính trị phủ nhận nền tảng chung và khả năng đối thoại.

 

Về vấn đề này, chúng ta nhớ lại những gì Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố trong thông điệp đầu tiên của ngài, Lumen Fidei, rõ ràng là tiếp nối giáo huấn của Đức Benedict XVI: “Ngày nay, chân lý thường bị thu hẹp lại thành tính xác thực chủ quan của cá nhân, chỉ có giá trị đối với cuộc sống của cá nhân. Một chân lý chung khiến chúng ta sợ hãi, vì chúng ta đồng nhất nó với những đòi hỏi không khoan nhượng của các hệ thống toàn trị. […]. Người tin có thể không tự phụ; ngược lại, chân lý dẫn đến sự khiêm nhường, vì những người tin biết rằng, thay vì bản thân chúng ta sở hữu chân lý, thì chính chân lý ôm lấy và sở hữu chúng ta. Sự an toàn của đức tin không làm cho chúng ta trở nên cứng nhắc, mà đặt chúng ta vào một hành trình; nó cho phép làm chứng và đối thoại với tất cả mọi người.”[22]

 

  • Kết luận

Chúng ta có thể kết thúc bằng cách tưởng tượng một chuyến viếng thăm ngắn ngủi đến Stanza della Segnatura (Phòng Ấn Ký) nằm trong Dinh Tông Toà của Vatican. Những ai bước vào sẽ có thể chiêm ngưỡng sự hòa hợp của một căn phòng hội tụ các triết gia Hy Lạp thời cổ đại với các nhà thần học Kitô giáo thời Trung cổ. Do đó, người ta thoáng thấy sự tiếp nối giữa hai thời đại lịch sử khác nhau. Người ta hít thở ở đó một Kitô giáo có khả năng quy tụ Parmenides, Heraclitus, Pythagoras, Socrates, tất nhiên là cả Plato và Aristotle nữa, chung với các nhà thần học như Ambrosiô, Giêrônimô, Augustinô và Tôma Aquinô. Khi chiêm ngưỡng sự hòa hợp của tất cả những nhân vật lịch sử đó tụ họp trong cùng một căn phòng, chúng ta có thể ngạc nhiên khi thấy rằng Kitô giáo Rôma đã đón nhận những ảnh hưởng từ truyền thống ngoại giáo thời cổ đại, và thậm chí cả Hồi giáo. Thật vậy, điều quan trọng là phải lưu ý đến sự hiện diện của Averroes trong Trường học Athens. Bên cạnh Zeno và Pythagoras, Raphael đã đặt nhà tư tưởng Hồi giáo này đối diện với Thánh Tôma Aquinô. Thánh nhân không chỉ chấp nhận tư tưởng của ông mà còn học hỏi từ những bình luận của ông về triết học của Aristotle.

 

Không từ bỏ truyền thống Kitô giáo, Raphael đã tiếp thu trí tuệ của các truyền thống khác ngoài truyền thống của mình. Tinh thần Phục hưng này dựa trên niềm tin rằng có thể đạt tới Chân lý phổ quát ở một mức độ nào đó. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể tin rằng việc thúc đẩy thảo luận hiệu quả và hài hòa với những người có suy nghĩ khác với chúng ta là điều đáng giá.

 

Não trạng Phục hưng hiện diện trong các tác phẩm của Raphael trái ngược với tinh thần hậu hiện đại của hậu-sự thật, đang mở ra khả năng quay trở lại của chủ nghĩa phát xít. Khi chiêm ngưỡng Trường học Athens ngày nay, chúng ta được mời gọi từ bỏ những quan điểm bị chi phối bởi cái nhìn ý thức hệ. Khi chúng ta giải thoát bản thân khỏi sự mù quáng về ý thức hệ, chúng ta sẽ có thể nhìn thế giới dưới ánh sáng của một Chân lý siêu vượt chúng ta. Chân lý này chỉ có thể giải phóng chúng ta khi chúng ta tách được mình khỏi hệ tư tưởng được cổ võ bởi nhóm chúng ta thuộc về. Để không còn bị cô lập ở rìa của nhóm mình, điều quan trọng là phải thừa nhận sự hiện diện của một Chân lý vượt qua mọi truyền thống, mọi ý thức hệ, mọi quan điểm. Chỉ có nó mới giúp chúng ta vượt qua được tinh thần thù hận và bạo lực đang chia rẽ chúng ta ngày nay khi nỗ lực áp đặt chân lý lên những người không chia sẻ chúng một cách cởi mở và hòa bình. Vì vậy, thay vì thừa nhận sự bất khả thi của việc đạt được chân lý, giống như khi Philatô đặt một câu hỏi oái oăm: “Chân lý là gì?” (Ga 18,38), chúng ta có thể cùng nhau nỗ lực tiếp cận chân lý. Chỉ khi có tình huynh nhân loại, việc đối thoại mang tính xây dựng và hòa bình mới có thể trở thành hiện thực.

 

Nguồn: https://www.laciviltacattolica.com/when-truth-dies-who-misses-it-a-reflection-in-the-age-of-post-truth/

Tác giả: Andreas Gonçalves Lind, SJ

Chuyển ngữ: Phêrô Đặng Đình Tùng, S.J.

 

DOI: https://doi.org/10.32009/22072446.0824.12
[1]. Cf. L. McIntyre, Post-Truth, Cambridge – London, The MIT Press, 2018, 1.
[2]. Cf. T. Snyder, On Tyranny. Twenty Lessons from the Twentieth Century, New York, Crown, 2017.
[3]. Ibid.
[4]. Aristotle, Metaphysics, 1011b, 26-27.
[5]. Id., Opere. I. Organon: Categorie, Dell’espressione, Primi Analitici, Secondi Analitici, Bari, Laterza, 1973, 45 (Cat. XII, 19-23).
[6]. Cf. Tommaso d’Aquino, Le questioni disputate. Vol. 1: La verità (Questioni 1-9), Bologna, Edizioni Studio Domenicano, 1992, 78.
[7]. Ibid., 79.
[8]. Cf. F. Nietzsche, Su verità e menzogna in senso extramorale, in Id., Scritti minori, Naples, Ricciardi, 1916, 49.
[9]. Cf. R. Cartesio, Meditazioni metafisiche, Milan, Bompiani, 2001, 183.
[10]. Cf. J. Habermas, Il discorso filosofico della modernità, Bari, Laterza, 1987, 100.
[11]. Cf. F. Nietzsche, Su verità e menzogna in senso extramorale, op. cit., 54.
[12]. Cf. ibid., 59.
[13]. Ibid., 57.
[14]. Cf. ibid. 56.
[15]. T. Snyder, On Tyranny…, op. cit.
[16]. Cf. Dicastery for the Doctrine of the Faith, Dignitas Infinita, Rome, April 2, 2024, nos. 58-60.
[17]. Cf. ibid. no. 15.
[18]. Francis, Fratelli Tutti, no. 206; Id., Laudato Si’, no. 123.
[19]. Dicastery for the Doctrine of the Faith, Dignitas Infinita, op. cit.
[20]. Francis, Fratelli Tutti, no. 15.
[21]. Cf. Dicastery for the Doctrine of the Faith, Dignitas Infinita, op. cit. nos. 61-62.
[22]. Francis, Lumen Fidei, no. 34.


https://dongten.net/khi-su-that-chet-di-ai-se-hoai-mong-no-mot-phan-tinh-trong-thoi-dai-hau-su-that/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét