Trang

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2018

Mầu nhiệm Nhập thể: Giáo lý sơ lược

Mầu nhiệm Nhập thể: Giáo lý sơ lược



Khi suy tư về Mầu nhiệm Nhập Thể, Karl Rahner đã khởi đi từ yếu tính của con người là sự mở ra đón lấy vô biên, để nhận ra rằng trong Mầu nhiệm Nhập Thể yếu tính của con người đã được thể hiện một lần, và là lần duy nhất ở cấp độ trọn vẹn nhất.
Tính mở ra nơi con người là một đà vươn  lên hướng về Tuyệt Đối. Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa  đã đến và đổ đầy lòng khao khát này của  con người. Biến cố ấy đã diễn ra một lần và  kéo dài trong vĩnh cửu: Ngôi Lời đã mặc lấy  xác phàm, trở nên Đức Giêsu Nazareth. Chính ở nơi  Đức Giêsu, bản tính Thiên Chúa và bản tính loài  người đã gặp gỡ nhau và liên kết chặt chẽ  trong một ngôi vị duy nhất. Mầu Nhiệm Nhập Thể chính là  chân lý căn bản của Kitô học "hữu thể”: Thiên  Chúa đã trở nên con người. Ngôi Lời bắt đầu  hiện hữu trong thân phận con con người. Biến cố nhập  thể là giây phút quyết liệt trong lịch sử cứu độ.
 
 1. Ngôi Lời Đã Trở Nên Xác Phàm  (Ga 1,14)
 
 Trong lời tựa mở đầu Tin Mừng, thánh Gioan khẳng  định thật rõ ràng về Mầu nhiệm Nhập Thể:  Ngôi  Lời đã trở nên xác phàm (1,14). Theo Karl  Rahner, lời khẳng định này gồm ba yếu tố: Ngôi Lời  (Thiên Chúa), trở nên, và xác phạm. "Ngôi Lời"  là khởi điểm (terminus a quo); "xác phàm"  là đích điểm (terminus ad quem ); "trở nên"  là một tiến trình và đây chính là nơi diễn  ra mầu nhiệm.
 
 a. Ngôi Lời Vĩnh Cửu Là Thiên Chúa
 
 Là một Kitô học "từ trên cao," Tin Mừng  Gioan đã khởi từ mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi  Lời để đi ngược lên về tình trạng của Đức Giêsu trước  lúc làm người. Đó chính là sự tiền hữu của  Ngôi Lời vĩnh cửu: Lúc khởi nguyên đã có  Lời, và Lời ở nơi Thiên Chúa, và Lời  là Thiên Chúa (1,1). Ngài là Đấng có từ  ban đầu. Ngài không có một khởi điểm đầu nhưng đã  hiện hữu từ đời đời, từ vĩnh cửu. Bản  ngã của Đức Giêsu chính là Một trong Ba Ngôi Thiên  Chúa, hằng hữu ở nơi chính mình và hoàn toàn  tách biệt với các điều kiện không gian-thời gian của  con người.
 
Quan niệm tiền hữu thường dễ đưa đến nhiều  giải thích sai lạc. Tiền hữu không giống như luân hồi trong giáo lý nhà Phật, cũng không là  sự "tái nhập thể" (re-incarnation )  như trong quan  niệm Ấn giáo. Người Do thái nói về Sự Khôn Ngoan  tạo dựng có mặt với Thiên Chúa từ trước lúc tạo dựng.  Sự Khôn Ngoan ấy không phải là một ý định nơi Thiên  Chúa (divine entelechy) nhưng như một nhân vật ở bên  cạnh Thiên Chúa.
 
Đối với Gioan, Đức Giêsu-Ngôi Lời hiện hữu trước  khi vũ trụ được tạo dựng. Từ muôn đời, Ngài  là Đấng tự hữu (ego eimi ). Đây là cách nói  của người Do thái để chỉ Chúa Giavê (xem Xh 3,14). Ga  17,5 còn nói về vinh quang Con đã có nơi Cha trước  khi có thế gian . Chính Đức Giêsu khẳng định: Trước khi  có Abraham, Ta đã có (Ga 8,58).
 
Ngày nay, thần học ít nói đến ý niệm "tiền hữu"  nhưng giáo huấn Tân Ước dạy rõ ràng về sự tiền hữu  của Đức Kitô (Pl 2,6t; Ga 1,1t; Dt 1,2-3), về cách thức  hiện hữu của Ngài "trước khi" đảm nhận  bản tính nhân loại của chúng ta và trở nên  con người. Tiền hữu là cách suy nghĩ của con  người sống trong thời gian và trong lịch sử.
 
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa. Trước khi nhập thể, Ngài  tiền hữu như một ngôi vị chứ không như một ý niệm hoặc  một nguyên mẫu. Nói cách khác, mối tương quang giữa  Đức Giêsu với Thiên Chúa, như Con với Cha, không thể tách  khỏi cuộc sống trần thế của Ngài, vì đó là  mối tương quan vĩnh cửu. Chính sự tiền hữu này giải  thích phổ quát tính đích thực của Đức Giêsu: ơn cứu độ  Ngài đem đến là cho tất cả mọi người. Trong  Kitô học, không thể có sự tách rời giữa "chức  năng" và”hữu thể." Tiền hữu còn có  nghĩa là ơn cứu độ con người nhất thiết phải từ  bên ngoài mà đến. Đấng Cứu Độ do chính Thiên Chúa  sai đến (Gl 4,4; Rm 8,5) từ trên cao (Ga 8,23), từ chính  Chúa Cha (Ga 8,42).
 
 b. "Trở Nên" (egéneto)
 
 Làm sao Ngôi Lời lại có thể "trở nên"  được? Theo triết học, Thiên Chúa không thể trở nên được.  Bởi lẽ chỉ có thể trở nên một điều mà trước  đây chưa có, hoặc một điều chưa đầy đủ hoàn tất.  Mà Chúa đã có đầy đủ rồi vì Người là  Đấng toàn vẹn! Tuy nhiên, Karl Rahner cho rằng Ngôi Lời  không thể trở nên trong chính mình nhưng có thể trở  nên trong một điều gì khác  (Le Verbe est inchangeable en soi  mais il change dans l'autre). Điều gì khác ấy chính là  một thụ tạo. Thiên Chúa có khả năng trở nên một  điều gì khác không phải là Thiên Chúa, nếu Người  muốn. Chủ thể của "trở nên" ở đây  chính là Ngôi Lời, là Con Một đã hiện hữu  từ muôn đời với Chúa Cha. Trong phụng vụ, khi đọc  Kinh Tin Kính đến đây thì các Kitô hữu quỳ gối đề  thờ lạy và cảm tạ vì mầu nhiệm tuyệt vời  mà Thiên Chúa đã thực hiện. Đó chính là lời  tuyêm xưng đức tin về mầu nhiệm "Một trong Ba Ngôi Thiên  Chúa đã trở nên một trong chúng ta."


Các Giáo phụ nói "Một trong Thiên Chúa đã trở  nên con người" chứ không nên nói "Thiên Chúa đã  trở nên con người," vì Thiên Chúa là Ba Ngôi.  Trong Thiên Chúa chỉ có một bản tính nhưng ba ngôi vị! Và  một trong ba ngôi vị ấy đã trở nên người. Như thế  Nhập Thể không chỉ là một sự kiện trở nên một điều  không phải là Thiên Chúa, nhưng là trở nên  người. Sự trở nên ấy sẽ còn được tiếp tục  tiến triển: Đức Giêsu càng trở nên người bao nhiêu  thì nhập thể càng hoàn hảo bấy nhiêu. Vì thế,  Phục Sinh chính là đỉnh cao của Nhập Thể. Giờ đây,  mầu nhiệm Nhập Thể đã thành vĩnh cửu: Con Thiên  Chúa sẽ mãi mãi là một con người.
 
 c. Xác Phàm
 
 Trong Gioan, "xác thịt" (sarx) chỉ về toàn thể  con người, vốn yếu hèn và hay chết (xem 3,6; 17,2;  so với St 6,3; Tv 56,5; Is 40,6). Con người chính là điểm  tới của mầu nhiệm Nhập Thể. Điều này có nghĩa là  con người chính là điều mà Thiên Chúa trở nên  khi Ngài trở nên một điều không phải là Thiên  Chúa. "Trở nên" ở đây không phải là  mặc lấy hình dáng giống con người, như kiểu avatara  bên Ấn độ (một kiểu thần linh đội lốt người phàm,  chỉ có dáng vẻ con người bề ngoài mà không  phải là con người thực sự), cũng không phải  một thứ thân xác trá hình như ảo thân thuyết (docétisme)  quan niệm. Ngôi Lời đã làm người với tất cả  các hậu quả hàm chứa trong đó. Làm người là  đi vào một lịch sử cụ thể, thuộc về một dân tộc  với một nền văn hóa riêng biệt. Làm người nghĩa là  Ngôi Lời đã trở thành một trong chúng ta, chia  sẻ trọn vẹn thân phận và cuộc sống con người: Ngài đã trở nên giống một kẻ phàm nhân,  cuộc đời chẳng khác chi người thế (Pl 2,7). Nhập  thể là một quyết định căn bản của Thiên Chúa:  Ngài đã trở nên con người hoàn toàn  như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Dt 2,17; 4,15). Ngôi  Lời đã trở nên một con người thật: đây cũng  chính là một cớ vấp phạm của Kitô giáo đối với nhiều  người. Khuynh hướng nhất-tính-thuyết (monophysitisme)  vẫn còn tồn tại trong lối suy nghĩ của đa số các  Kitô hữu hôm nay: Đức Giêsu đã được "thần hóa"  đến độ Ngài chỉ là con người một phần thôi chứ  không hoàn toàn là một con người như chúng  ta.
 
 2. Ngôi Lời Đã Trở Nên Đức Giêsu Nazareth
 
 Có hai cách quan niệm về mầu nhiệm Nhập Thể:
• Thiên Chúa đã trở nên con người
• Ngôi Lời đã trở nên Đức Giêsu Nazareth
 
Thoạt nghe, cả hai cách nói có vẻ giống nhau và  đều đúng. Tuy nhiên, hai cách quan niệm tên sẽ đưa đến  nhiều hệ quả hết sức khác nhau. Kiểu nói thứ nhất không  chính xác và rất trừu tượng vì Thiên Chúa gồm cả  Ba Ngôi, và "con người" là một danh từ  trừu tượng không có trong thực tế. Kiểu nói thứ hai đúng  hơn và cụ thể hơn: Ngôi Lời (Một trong Ba Ngôi Thiên  Chúa) đã trở nên Đức Giêsu Nazareth (một con người  lịch sử thuộc về một thời gian, một không gian nhất  định). Cách quan niệm này sẽ có nhiều ảnh hưởng  trong Giáo hội học và Bí tích học.
 
Quả thật, Đức Giêsu là một con người cụ thể:  Ngài không những là một người-như-chúng-ta nhưng còn là một người-thuộc-dòng-giống-chúng-ta . Đức  Giêsu không phải là một người từ trời  rơi xuống nhưng Ngài xuất phát từ một dòng dõi  cụ thể: dòng dõi của Đavít, của Abraham (xem  Mt 1,1). Ngài là con của loài người thuộc  dòng giống Ađam (x. Lc 3,38).
 
Đức Giêsu là môt con người, một người Do thái  thuộc nam giới. Ngài được sinh ra bởi một người  mẹ đồng trinh là Đức Maria. Ngài nói tiếng Aram và  suy nghĩ theo não trạng Sêmít như những người Do  thái đương thời. Chúng ta có thể xác định rõ ràng  về sử tính của Đức Giêsu: Ngài sinh ra tại Bêlem,  xứ Giuđêa, thời vua Hêrôđê và hoàng đế Augustô.  Ngài đã chịu tử hình thập giá vào buổi chiều  ngày thứ sáu khoảng năm 30 trên ngọn đồi Golgotha  ở ngoài thành Giêrusalem, đã chết và được  mai táng thời Phonxiô Philatô làm toàn quyền xứ  Yuđa.
 
Là người như mọi người khác, Đức Giêsu đã  lớn lên theo quy luật phát triển chung của mọi hữu  thể nhân linh về mọi mặt tâm lý, sinh lý, thể lý. Ngài  đã tiến bộ theo thời gian và hướng dần đến sự  toàn thiện, kể cả sự toàn thiện về luân lý.  Ngài đã trải qua mọi cảm xúc vui buồn, hoan  lạc và hạnh phúc, đau khổ và ưu phiền, đã sống  những giờ phút đầy an ủi với các bạn hữu,  nhưng cũng đã cảm nghiệm tình trạng cô đơn khủng  khiếp trong tâm hồn, nhất là trong cuộc khổ nạn và  khi phải một mình đối diện với sự chết. Ngài đã  sống những phút giây đầy thử thách và cám dỗ:  cám dỗ về cách thức làm Con Thiên Chúa trong cuộc  sống loài người, về cách thức phải xây dựng Nước  Trời thế nào trong lịch sử nhân loại.
 
Là một người Do thái, Đức Giêsu đã sống đời  sống tôn giáo giống như cha mẹ và dân tộc của Ngài.  Niềm tin của Ngài vào Thiên Chúa cũng lớn  dần theo năm tháng. Ngài đã sống một niềm tín thác  vào Thiên Chúa, Đấng cũng chính là Cha Ngài.  Ngài tìm sự nâng đỡ của Cha trong những buổi  cầu nguyện lâu giờ và nhiều khi Ngài sống sự  thân mật ấy với Cha suốt cả đêm thâu. Ngài đã  học vâng phục thánh ý Cha ngang qua đêm tăm tối của đức  tin, đặc biệt trong vườn Giệtsêmani và trên thập giá.  Ngài đã sống niềm tin nhân loại ấy cho đến những  hậu quả cuối cùng.
 
Thánh Phaolô đã cắt nghĩa về mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người  trong thư gởi tín hữu Philíp: Đức Giêsu vốn dĩ là  Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa  vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn  trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống  phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại  còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng  chịu chết, và chết trên cây thập tự (Pl 2,6-8). Là  Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, Đức Giêsu  đã sống mầu nhiệm tự hủy (kenosis) trong thân  phận làm người. Ngài đã liên đới với nhân  loại tội lỗi để đem lại lợi ích cho chúng ta và cho  chúng ta tất cả những gì Ngài có. Đây vẫn  là một bài học cho mỗi Kitô hữu và cho  Giáo hội qua mọi thời đại, một bài học mà không  phải lúc nào cũng dễ hiểu và dễ dàng  đón nhận.
 
 3. Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp
 
 Ngôi Lời đã trở nên Đức Giêsu Nazareth. Ngài  vừa là Thiên Chúa vĩnh cửu, vừa là con  người bị giới hạn trong thời gian. Đức Giêsu đã  có hai cuộc sinh hạ: cuộc sinh hạ thứ nhất diễn ra trong  vĩnh cửu và bởi Thiên Chúa nên Ngài đồng bản  tính với Chúa Cha; cuộc sinh hạ thứ hai diễn ra trong thời  gian và bởi Đức Maria nên Ngài đồng bản tính  nhân loại với chúng ta. Hai bản tính ấy đã kết hiệp  với nhau trong một ngôi vị duy nhất: Đức Giêsu Nazareth. Đây  chính là mầu nhiện Ngôi Hiệp.
 
 a. Các Lạc Giáo
 
 Việc giải thích mầu nhiệm này đã làm phát  sinh nhiều lạc giáo nguy hiểm trong Giáo hội buổi đầu. Các  khuynh hướng lạc giáo này vẫn còn tồn tại ít nhiều  cho đến ngày nay dưới nhiều hình thức khác nhau. 


• Ảo thân thuyết (docétisme) là lạc giáo  rất nghiêm trọng, cho rằng Đức Giêsu chỉ có dáng vẻ bề  ngoài của một con người mà thôi. Thân xác  Ngài chẳng qua chỉ là tấm bình phong trá hình chứ không  hề có thật. Tân Ước đã chống lại lạc giáo này rồi  (x. 1Ga 4,2).
 
• Phái Ariô cho rằng Đức Giêsu chẳng phải  là Thiên Chúa, cũng chẳng phải là con người  nhưng là một hữu thể "thần thoại" (dêmiourgós) nằm lưng chừng ở giữa.
 
• Giám mục Apollinaris ((390) cho rằng Đức  Giêsu không có linh hồn lý tính. Nơi Ngài chỉ có xác kết  hợp với Ngôi Lời.
 
• Nestoriô (bị kết án trong c.đ. Ephêsô, năm  431) quá nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu đến độ  tách biệt nhân tính ra khỏi thiên tính và phân chia  Đức Giêsu làm hai: Đức Kitô và Ngôi Lời.
 
• Nhất tính thuyết (monophysitisme) cho rằng nhân  tính tan biến trong thiên tính "như một giọt mật tan biến  trong đại dương." Đức Giêsu được "thần hóa" đến  độ trong thực thế Ngài thi hành chức năng giống như  Thiên Chúa.
 
• Nhất ý thuyết (monothélétisme) cho rằng nơi  Đức Giêsu chỉ có một ý chí thuộc Thiên tính và loại bỏ  ý chí nhân loại của Đức Giêsu.
 
 b. Giáo Lý Của Công Đồng Calcêđônia (năm 451)
 
 Các lạc giáo trên đây hầu hết đều công kích nhân tính thực  sự của Đức Giêsu. Qua các công đồng ở các thế kỷ  đầu, Giáo hội đã lên tiếng bảo vệ tính đích thực  của nhân tính Đức Giêsu. Các Giáo Phụ đã dùng  nhiều kiểu nói rõ ràng để bảo vệ và diễn  tả giáo lý này. Năm 451, công đồng Calcêđônia đã  lên án lạc thuyết Nestôriô và nhất tính thuyết, đồng  thời định tín rằng: Đức Kitô vừa là Thiên  Chúa hoàn chỉnh, vừa là con người hoàn chỉnh  trong một chủ thể duy nhất. Haibản tính của  Ngài không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia,  không tách biệt.
 
Như thế, sự kết hợp giữa bản tính Thiên Chúa và  bản tính nhân loại đã diễn ra một cách mầu nhiệm  nơi Đức Giêsu. Ngài là người một cách trọn vẹn  và không hề có một ngoại lệ nào. Về điểm này  chúng ta có thể tóm tắt đức tin Công giáo như sau: "Đức  Kitô là một ngôi vị trong hai bản tính." Cho đến  nay không có cách diễn tả nào khác tốt hơn.
 
 4. Kết Luận
 
 Vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Ngôi Lời đã nhập  thể làm người. Ngài đã sống trọn vẹn kiếp  người như chúng ta với tất cả mọi yếu đuối nơi bản  tính nhân loại. Ngài đã trải qua mọi thử thách  bằng đau khổ để có thể cứu giúp những ai đang chịu thử  thách (x. Dt 2,18).
 
Trong Kinh Tin Kính, Giáo hội tuyên xưng rằng: "Vì loài  người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người  đã từ trời xuống thế." Quả thật, Đức Giêsu  không chỉ là Emmanuel, là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta ,  Ngài còn là Thiên-Chúa-vì-chúng-ta, là  Con Đức Chúa Yahvê, là Thiên Chúa cứu độ. Karl Rahner  đã gọi Ngài " vừa là ân huệ lịch sử,  vừa là ân huệ cánh chung của ơn cứu độ mà  Thiên Chúa dành cho chúng ta, là Đấng tuyệt đối đem  đến ơn cứu độ.” [1] Ngài chính là đỉnh cao của lịch sử cứu  độ và là sức năng động hướng dẫn thế giới.
 
Vừa là Thiên Chúa thật, vừa là con người  thật, cuộc đời trần thế của Đức Giêsu Nazareth là  biến cố cứu độ duy nhất đã diễn ra từ Nhập thể  đến Thập giá và Phục Sinh, nơi mà hành vi cứu  độ của Thiên Chúa đạt tới tột đỉnh. Ơn cứu độ ấy  chính là Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho nhân loại  trong Đức Kitô. Đức Kitô vừa là trung tâm của  ơn cứu độ, vừa như một biến cố cứu độ, vừa như một  thực tại cứu độ, vừa như một tác nhân, vừa như một  thụ nhân. Ơn cứu độ ấy chính là hiệu quả của  mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người, từ Nhập Thể  đến Phục Sinh.
 
Chiêm ngắm mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người và  trở nên Đấng Emmanuel, chúng ta vô cùng vui sướng cảm  tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho nhân loại Đức Kitô để  giải thoát loài người khỏi tội lỗi và  sự chết hầu dẫn đưa đến sự sống vô cùng của  Thiên Chúa và với Thiên Chúa.
 
[Vũ Quang Trung, HTTH SỐ 9, NĂM THỨ TƯ (1994)
-----------------------------------
[1] Sacramentum Mundi art. "Salvation",  IV,c.2

http://conggiao.info/mau-nhiem-nhap-the-giao-ly-so-luoc--d-29248

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét