Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

2. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI CỦA GP.BMT

 


2. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI CỦA GP.BMT

QUẦN THỂ LÀNG SÔNG

(Bình Định)

 

Nơi gắn liền với sự hình thành chữ Quốc ngữ và đời sống Giáo hội Công giáo VN.

 

I. TÒA GIÁM MỤC LÀNG SÔNG

 

 “Ngay từ năm 1848, Đức cha Stêphanô Cuénot Thể đã chú ý đến Làng Sông và chọn nơi đây làm cơ sở đào tạo, điều hành quan trọng của giáo phận. Do hoàn cảnh cấm đạo khắc nghiệt (đặc biệt là dưới vua Tự Đức), Tòa Giám mục nhiều lần phải di chuyển: Nước Mặn → Gia Hựu (Quảng Ngãi) → Làng Sông. Đến thời Đức cha Eugêniô Charbonnier Trí (1864–1878), Tòa Giám mục mới chính thức được đặt tại Làng Sông và dần trở thành trung tâm giáo phận. 

 

Năm 1885, dưới thời Đức cha Phanxicô Xaviê Van Camelbeke Hân (1884-1901) một cuộc tàn sát khủng khiếp do nhóm Văn Thân thực hiện đã giết chết 8 thừa sai Pháp, 7 linh mục Việt, 60 thầy giảng, 270 nữ tu và trên 24.000 giáo dân. Riêng trong ba tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, số giáo dân bị sát hại là 19.690 người. Quần thể Làng Sông bị phá hoại. Sau đó dần dần được xây dựng lại và ổn định.

 

Năm 1931, Đức cha Augustinô Tardieu Phú (1929-1942) chuyển Tòa giám mục từ Làng Sông về Qui Nhơn, xây dựng Đại chủng viện Qui Nhơn.

Thời gian

Vị trí Tòa

Giám mục

Giám mục

cai quản

Ghi chú

1835 – 1846

Nước Mặn (Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định)

Đc Cuénot Thể

Nước Mặn được chọn làm trung tâm truyền giáo, chiếc nôi chữ Quốc ngữ, nơi đào tạo các thầy giảng.

1846 – 1864

Gia Hựu (Quảng Ngãi)

Đc Cuénot Thể

Vì cấm đạo, Tòa Giám mục phải rời Nước Mặn, di chuyển ra Gia Hựu để tránh bách hại.

Từ 1864

Làng Sông (Phước Thuận, Tuy Phước, Bình Định)

Đc Cuénot Thể

Ngài thiết lập cơ sở đào tạo, chủng viện, in ấn tại đây, nhưng chưa đặt Tòa Giám mục chính thức.

1864 – 1878

Làng Sông

Đc Eugêniô Charbonnier Trí

Sau vài năm ở Gia Hựu, ngài chính thức dời Tòa Giám mục về Làng Sông, biến nơi đây thành trung tâm của giáo phận.

Từ 1936

Qui Nhơn (TP. Quy Nhơn, Bình Định)

Đức cha Marcel Piquet Lợi

Tòa Giám mục được chuyển về thành phố Qui Nhơn, nơi vẫn đặt cho đến nay.

 

Ngày 18 tháng 01 năm 1932 vùng Tây Nguyên được tách khỏi Giáo phận Qui Nhơn để thành lập Giáo phận Kontum.

 

Cùng năm 1932, Tòa giám mục Qui Nhơn được xây dựng hoàn thành năm 1936 và nhà thờ Chính tòa hoàn thành năm 1939.

 

Ngày nay, TGM Làng Sông trở thành nhà hưu dưỡng cho các linh mục.

 

 

II. CHỦNG VIỆN LÀNG SÔNG

 

CHỦNG VIỆN LÀNG SÔNG –

Hình thành, phát triển và nhân vật nổi bật

 

1. Sự hình thành & Phát triển

 

Sau khi trung tâm truyền giáo Nước Mặn được thiết lập (1618), các thừa sai Hội Thừa sai Paris (MEP) sớm nhận ra cần một nơi đào tạo linh mục bản xứ.

 

Sau công nghị Giáo phận Đàng Trong được Đức cha Cuénot Thể tổ chức tại Gò Thị (1841), Đức cha đã lập một chủng viện tại họ đạo Tùng Sơn tỉnh Quảng Nam, một tại họ đạo Mương Lỡ và một tại họ đạo Làng Sông tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, chủng viện Làng Sông được thành lập chính xác vào ngày tháng năm nào, hiện nay chưa tìm thấy tài liệu căn cứ, nhưng chắc chắn trong khoảng thời gian từ 1841 đến 1850.

 

Các chủng viện Tùng Sơn, Mương Lỡ và Làng Sông sinh hoạt tương đối ổn định cho đến năm 1859. Sau khi sắc dụ cấm đạo được thi hành gắt gao, Đức cha Cuénot cho giải thể chủng viện Tùng Sơn và Mương Lỡ, chỉ chủng viện Làng Sông còn sinh hoạt. Tháng 05 năm 1862, cha Phaolô Châu, giám đốc chủng viện Làng Sông, bị bắt và chịu xử trảm tại Gò Chàm, Bình Định, và do tình hình cấm đạo gắt gao, chủng viện không còn sinh hoạt.

 

Sau thời kỳ bách hại, Đức cha Eugêniô Charbonnier Trí (1864-1878) đã tái lập chủng viện Làng Sông. Tuy nhiên, vào năm 1885 toàn bộ cơ sở chủng viện bị Văn Thân thiêu hủy cùng với hài cốt các vị tử đạo được lưu giữ tại đây. Năm 1891 Đức cha Phanxicô Xaviê Van Camelbeke Hân (1884-1901) xây dựng lại chủng viện Làng Sông bằng những ngôi nhà mái tranh để kịp thời làm nơi sinh hoạt. Riêng nhà nguyện của chủng viện được xây dựng bằng gạch khá đẹp và kiên cố vào năm 1892 và trở thành như “nhà thờ chính tòa” của Giáo phận. Năm 1925, Đức cha Đamianô Grangeon Mẫn cho xây lại chủng viện Làng Sông. Công trình xây dựng hoàn thành vào ngày 21 tháng 09 năm 1927 và tồn tại cho đến ngày nay.

 

Chủng viện là nơi đào tạo linh mục, thầy giảng, giáo lý viên cho Giáo phận Qui Nhơn và cả các vùng lân cận (Kontum, Đà Nẵng, Nha Trang sau này).

 

Chương trình học gồm: Latinh, giáo lý, triết học, thần học, cùng chữ Hán và Quốc ngữ.

 

Nhà in Làng Sông ngay bên cạnh phục vụ việc in giáo trình, sách lễ, sách ngữ pháp, giúp việc học tập thuận lợi.

 

2. Hiện nay

 

Chủng viện Làng Sông vẫn còn hiện diện, với kiến trúc cổ kính (gạch đá, mái ngói) được xem là một di tích Công giáo độc đáo tại Bình Định.

 

Hiện nay, Làng Sông không còn là Đại Chủng viện chính thức, nhưng vẫn là Tiểu Chủng viện (đào tạo các ứng sinh giai đoạn đầu), đồng thời là nơi sinh hoạt mục vụ và là trung tâm hành hương.

 

Quần thể Làng Sông ngày nay nằm trong địa bàn giáo xứ Tân Dinh, thôn Quảng Vân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

 

Một điều lý thú là Chủng viện Làng Sông nguyên là Tiểu Chủng viện như được ghi trước cổng chính, nhưng cũng có giai đoạn vừa là Tiểu Chủng viện vừa là Đại Chủng viện… Có điểm thú vị đây là cái nôi ươm mầm ơn gọi của nhiều linh mục và 5 Giám mục là Đức cha FX. Nguyễn Quang Sách - nguyên Giám mục Đà Nẵng, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các - nguyên Giám mục Qui Nhơn, Đức cha Giuse Phan Văn Hoa - nguyên Giám mục Phó Qui Nhơn, Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn - nguyên Giám mục Qui Nhơn và Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi - chủ chăn đương nhiệm của giáo phận Qui Nhơn. Ngoài ra, Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản - Giám mục Hải Phòng - tuy khi đi tu thì Tiểu Chủng viện đã chuyển về Qui Nhơn, nhưng ngài cũng có một khoảng thời gian tu học ở Làng Sông sau năm 1975. Có thể nói, từ Làng Sông, bao thế hệ đã được đào tạo và dấn thân vào cánh đồng truyền giáo khắp nơi.

 

4. Các vị tử đạo và nhân vật nổi bật

 

- Thánh Anrê Phú Yên (1625–1644):

Dù không học trực tiếp tại Làng Sông (vì mất trước khi cơ sở này thành hình), nhưng là thầy giảng tiên khởi của giáo phận, tử đạo tại Gành Ráng – Qui Nhơn. Ngài được coi là hoa quả đầu của việc đào tạo thầy giảng, đặt nền móng cho các thế hệ chủng sinh sau này ở Nước Mặn – Làng Sông.

 

- Nhiều chủng sinh và linh mục tử đạo trong phong trào Văn Thân (1885), bị sát hại tại vùng Thị Nại – Qui Nhơn. Các ngôi mộ tập thể hiện còn tại Phước Thuận và Gò Bồi.

 

- Đức cha Marcel Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc): gắn bó với việc đào tạo giáo sĩ bản địa và chữ Quốc ngữ, để lại ảnh hưởng gián tiếp trong sự hình thành Làng Sông.

 

- Các giám mục tiên khởi Giáo phận Qui Nhơn (như Đức cha Stéphan Théodore Cuénot Thể, tử đạo 1861) → đã gửi gắm tâm huyết cho chủng viện Làng Sông như “vườn ươm ơn gọi”…

 

Tầm quan trọng

 

- Đối với Giáo hội: Làng Sông là cái nôi đào tạo giáo sĩ cho miền Trung và Tây Nguyên, góp phần tạo nên hàng ngàn linh mục phục vụ các thế kỷ XIX–XX.

 

- Đối với văn hóa dân tộc: gắn liền với nhà in Làng Sông, nơi chữ quốc ngữ được chuẩn hóa, lan tỏa ra cộng đồng.

 

- Đối với lịch sử truyền giáo: cùng với Nước Mặn và Thị Nại, Làng Sông trở thành một trung tâm đức tin – văn hóa – in ấn độc đáo của Việt Nam.

 

 

 

5. Những nhân vật nổi bật xuất thân từ Chủng viện Làng Sông

 

a. Các giám mục

 

- Đức cha Marcel Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc, 1741–1799)

Không trực tiếp học tại Làng Sông (ông là thừa sai MEP), nhưng đã đặt nền tảng đào tạo chủng sinh bản địa và gắn bó với vùng Qui Nhơn – Làng Sông. Là người đưa ra ý tưởng đào tạo giáo sĩ Việt Nam có hệ thống.

 

- Đức cha Jean Baptiste Grangeon (1821–1890) – Gm tiên khởi chính tòa Qui Nhơn. Rất gắn bó với Làng Sông, trực tiếp mở rộng chủng viện để đào tạo giáo sĩ bản địa.

 

- Đức cha Martial Jannin Phước (1857–1910) – Gm Qui Nhơn.

Xuất thân từ Làng Sông, được đào tạo tại đây trước khi sang chủng viện lớn. Rất quan tâm đào tạo ơn gọi bản địa, đã nâng cao vai trò của Làng Sông.

 

- Đức cha Martial Caspar (1859–1915) – Giám mục Qui Nhơn.

Cũng trưởng thành từ hệ thống đào tạo tại Làng Sông.

 

- Đức cha Marcel Piquet Lợi (1897–1973) – Giám mục Nha Trang.

Được đào tạo tại Làng Sông, sau này là vị giám mục tiên khởi của Giáo phận Nha Trang (tách ra từ Qui Nhơn năm 1957).

 

- Đức cha Paul Seitz Kim (1906–1984) – Giám mục Kontum.

Dù là người Pháp, nhưng ông đến và giảng dạy tại Làng Sông, đào tạo nhiều chủng sinh người Kinh và người Thượng.

 

b. Các linh mục & tu sĩ nổi bật

 

- Cha Alexandre de Rhodes (1591–1660) – nhà truyền giáo Dòng Tên, có thời gian hoạt động tại vùng Qui Nhơn, đặt nền cho việc đào tạo sau này (dù trước thời Làng Sông).

 

- Nhiều linh mục bản xứ thế kỷ XIX như: cha Phêrô Hoàng, cha Gioan Huỳnh, cha Phanxicô Lý… được đào tạo tại Làng Sông, sau này trở thành những nhà truyền giáo kiên cường, một số vị tử đạo trong thời Văn Thân.

 

- Các thầy giảng người Bình Định: nhiều người xuất thân từ Làng Sông, góp công giảng dạy chữ Quốc ngữ và bảo vệ đức tin cho các cộng đoàn chung quanh đầm Thị Nại, Phước Thuận, Gò Bồi.

III. NHÀ IN LÀNG SÔNG

 

Hình thành

 

Dưới thời Đức cha Eugêniô Charbonnier Trí (1864–1878), khi ổn định TGM ở Làng Sông, ngài đã thành lập một nhà in Làng Sông trong khuôn viên Tòa Giám mục.

 

Phát triển

 

Đây là nhà in đầu tiên của Giáo hội Công giáo Việt Nam, chuyên in sách chữ Quốc ngữ, tiếng Latinh và một số sách chữ Hán/Nôm phục vụ việc dạy giáo lý và phụng vụ.

 

Các sách in đầu tiên: Sách kinh bổn, sách nguyện, sách dạy học chữ Quốc ngữ, cùng các tài liệu mục vụ.

 

Những tác phẩm tiêu biểu đã in

 

Nhà in Làng Sông đã cho ra đời nhiều tác phẩm quan trọng, chủ yếu là:

- Sách Công giáo (Kinh bổn, sách lễ, sách giáo lý) bằng chữ quốc ngữchữ Latinh để phục vụ việc dạy giáo lý và phụng vụ.

- Sách chữ Nôm, chữ Hán cũng được in, phục vụ việc hội nhập văn hóa.

Một số tác phẩm cụ thể:

 

1.    Kinh Bổn Giáo Lý (khoảng 1870–1880) – sách dạy giáo lý căn bản, lưu hành rộng khắp trong giáo dân miền Trung.

2.    Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu – một bản in cổ còn lưu tại chủng viện.

3.    Sách kinh lễ hằng ngày (Breviarium – sách nguyện phụng vụ cho linh mục).

4.    Các tác phẩm thần học, triết học Latinh dùng trong đào tạo chủng sinh.

5.    Một số văn bản chữ Hán–Nôm, như các sách kinh dịch thuật, giúp giáo dân dễ tiếp nhận.

Các tài liệu học tập: giáo trình Latinh, sách ngữ pháp quốc ngữ, sách học chữ Nôm

Về sau, một số tác phẩm văn chương – giáo dục cũng được in ấn tại đây, giúp chữ Quốc ngữ lan rộng ra ngoài phạm vi Công giáo.

 

Riêng trong năm 1922, dưới sự điều hành của cha Maheu, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác; riêng tờ Lời Thăm (bán nguyệt san) in được 1.500 bản, phát hành cả Đông Dương; tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) trong năm này lên đến 63.185 bản với 3.407.000 trang in.

 

Tầm quan trọng:

 

Nhà in Làng Sông góp phần to lớn trong phổ biến chữ Quốc ngữ từ môi trường tôn giáo sang xã hội Việt Nam.

 

Đây là nhà in đầu tiên dùng chữ quốc ngữ tại miền Trung và là một trong những cái nôi nuôi dưỡng chữ quốc ngữ trở thành văn tự phổ biến

 

Nhà in Làng Sông tạo nên một kho tàng sách chữ quốc ngữ tôn giáo đầu tiên, đặt nền tảng cho sự phát triển chữ viết quốc ngữ thành chữ viết chung của dân tộc.

 

Góp phần hình thành nên truyền thống văn hóa Làng Sông, nơi song hành giữa việc đào tạo nhân sự Giáo hội (chủng viện) và phát triển chữ viết dân tộc

 

Đây là “cầu nối” giữa văn hóa bản địa và tri thức phương Tây, góp phần hình thành nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

 

Như vậy, tuy phần lớn ấn phẩm là sách Công giáo, nhưng vai trò của Nhà in Làng Sông vượt xa phạm vi tôn giáo: nó là cái nôi của văn hóa quốc ngữ, góp phần hình thành diện mạo chữ viết và văn học Việt Nam hiện đại.

 

Kết luận

 

- Đối với Giáo hội Việt Nam: cung cấp sách giáo lý, phụng vụ, thánh ca bằng chữ quốc ngữ → đào tạo chủng sinh, nuôi dưỡng đức tin giáo dân.

 

- Đối với văn hóa dân tộc: thúc đẩy chữ quốc ngữ phổ biến sớm ở miền Trung, vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo, ảnh hưởng đến văn hóa – giáo dục.

 

- Đối với lịch sử in ấn: Tân Định (khoảng 1864–1865 tại Sài Gòn sớm nhất Nam kỳ) Kẻ Sở (khoảng 1870 tại Hà Nội), Làng Sông (1867) là 1 trong 3 trung tâm in ấn lớn nhất của Công giáo thế kỷ XIX, góp phần định hình văn hóa viết Việt Nam hiện đại.

 

Nhà in Làng Sông hoạt động cho đến năm 1936 thì dời về và sáp nhập với nhà in Qui Nhơn.

 

Như thế, Chủng viện - Tòa Giám mục và Nhà in Làng Sông → hình thành một quần thể văn hóa – tôn giáo.

 

IV. Ý NGHĨA CHUNG CỦA QUẦN THỂ LÀNG SÔNG

 

- Trong lịch sử truyền giáo:

 

Làng Sông là một trung tâm chiến lược của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ thế kỷ XIX.

 

Từ đây, Tin Mừng lan tỏa khắp miền Trung và Tây Nguyên.

 

- Trong văn hóa dân tộc:

 

Nhà in Làng Sông góp phần quan trọng đưa chữ Quốc ngữ ra khỏi phạm vi tôn giáo, tiến vào giáo dục và xã hội.

 

Các linh mục, trí thức từ chủng viện đã đóng góp cho văn hóa – văn học Việt Nam hiện đại (ví dụ: sáng tác, dịch thuật, giáo dục).

 

- Di sản tinh thần:

 

Quần thể Làng Sông vừa là di tích Công giáo, vừa là “ký ức văn hóa” của quốc gia, được ví như “chiếc nôi chữ Quốc ngữ miền Trung”. Người ta vẫn thường ví von nếu Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ, thì nhà in Làng Sông là nơi làm cho chữ Quốc ngữ được lớn lên.

 

Gb. Nguyễn Thái Hùng

 












NƯỚC MẶN – KHỞI ĐIỂM TRUYỀN GIÁO

TẠI GIÁO PHẬN QUI NHƠN (1618)

Description: Nuoc Man

Chiếc nôi của chữ Quốc ngữ

và cội nguồn văn hóa Việt Nam Kitô giáo


 

1. Khung cảnh địa lý – lịch sử Nước Mặn

 

Vị trí: Nước Mặn thuộc Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nằm gần đầm Thị Nại – một thương cảng lớn từ thế kỷ XV đến XVII. Dưới thời các chúa Nguyễn, Nước Mặn là một cảng thị sầm uất ở phủ Qui Nhơn (tỉnh Bình Định ngày nay) của xứ Đàng Trong. Nước Mặn (Bình Định), Hội An (Quảng Nam) và Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế) là những cảng thị được các chúa Nguyễn dùng để giao thương với nước ngoài.

 

Thị Nại vốn là cảng thị quan trọng của vương quốc Champa trước khi trở thành vùng đất Việt. Tàu buôn Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Hà Lan… từng cập bến nơi đây. Cửa khẩu đi vào Nước Mặn được gọi là Kẻ Thử, ở phía Bắc đầm Thị Nại, phân biệt với cửa Thị Nại ở phía Nam (cửa Qui Nhơn ngày nay). Cách đây hơn 200 năm, cửa Kẻ Thử đã bị bồi lấp, nay thuộc thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

 

Chính vị trí địa lý này biến Nước Mặn thành cửa ngõ giao thương và giao lưu văn hóa Đông – Tây, nơi lý tưởng để các thừa sai Dòng Tên đặt nền móng truyền giáo.

 

2. Bối cảnh lịch sử Công giáo tại Việt Nam

 

1553: Cha Iñigo (người Bồ Đào Nha) đến truyền giáo tại Cửa Bạng (Thanh Hóa).

 

1615: Các cha Dòng Tên đến Hội An, lập cộng đoàn Công giáo đầu tiên ở Đàng Trong.

 

1618: Một nhóm thừa sai rời Hội An, tiến vào miền Trung, và chọn Nước Mặn làm cơ sở truyền giáo mới.

 

3. Những nhà truyền giáo tiên phong tại Nước Mặn

 

Francisco de Pina (1585–1625, Bồ Đào Nha): người đầu tiên hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh.

Gaspar do Amaral (1594–1646, Bồ Đào Nha) – cùng với cha Antonio Barbosa, khởi đầu việc giảng đạo tại Nước Mặn.

 

Cristoforo Borri (Ý, 1583–1632): nhà khoa học, nhà văn, để lại ký sự quý giá về đời sống, phong tục, và tín ngưỡng Việt Nam.

 

Alexandre de Rhodes (Pháp, 1624–1626): đến Nước Mặn, học tiếng Việt, giảng dạy, đào tạo thầy giảng.

 

Như thế, Nước Mặn trở thành trung tâm đào tạo thầy giảng, một trong những nơi đầu tiên có cộng đoàn Công giáo bản địa lớn mạnh.

 

4. Nước Mặn – Chiếc nôi của chữ Quốc ngữ

 

Các thừa sai Dòng Tên buộc phải tìm cách học tiếng Việt để rao giảng Tin mừng. Chữ Hán – Nôm quá khó, nên họ dùng chữ Latinh để ghi âm tiếng Việt.

 

Tại Nước Mặn, Francisco de Pina và sau đó Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes đã cùng nhau xây dựng hệ thống chữ viết.

 

Đây là giai đoạn hình thành chữ Quốc ngữ sơ khai.

 

Sau này (1651), tại Roma, cha Alexandre de Rhodes xuất bản cuốn “Từ điển Việt – Bồ – La” và sách giáo lý “Phép giảng tám ngày” – đặt nền móng cho chữ Quốc ngữ ngày nay.

 

5. Cộng đồng Kitô hữu quanh đầm Thị Nại

 

Từ Nước Mặn, Tin Mừng lan rộng đến các làng chài, thương nhân quanh đầm Thị Nại.

 

Các cộng đoàn giáo dân ban đầu sống xen lẫn với cư dân địa phương, gắn bó với nghề biển, buôn bán.

 

Nhiều họ đạo nhỏ hình thành, trở thành hạt nhân truyền giáo để sau này lan ra Qui Nhơn, Phú Yên, Khánh Hòa.

 

Khi phong trào Văn Thân (1885) nổ ra, chính các cộng đoàn quanh Thị Nại là nơi giáo dân chạy về lánh nạn, giữ vững đức tin dù bị bách hại.

 

 

6. Những biến cố lịch sử ảnh hưởng đến Nước Mặn

 

- Thế kỷ XVII–XVIII: Truyền giáo phát triển nhanh, nhưng gặp trở ngại khi triều đình lo ngại ảnh hưởng của đạo mới.

 

- Thế kỷ XIX: Phong trào Văn Thân với khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả” đã gây ra thảm sát nặng nề, phá hủy nhiều làng Công giáo quanh Thị Nại.

 

- Trận thủy chiến Thị Nại (1801): nơi đây còn là chiến trường lớn giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, ảnh hưởng mạnh mẽ đến dân cư trong vùng.

 

Tuy nhiên, sau mọi biến cố, cộng đoàn Công giáo vẫn tồn tại, chứng tỏ sức sống kiên cường.

 

7. Ý nghĩa văn hóa – tôn giáo

 

- Tôn giáo: Nước Mặn là nơi gieo hạt giống đức tin đầu tiên cho miền Trung.

 

- Ngôn ngữ: Đây là nơi thai nghén chữ Quốc ngữ, công cụ giúp truyền bá giáo lý và sau này trở thành chữ viết chung của dân tộc Việt Nam.

 

- Văn hóa: Đất Nước Mặn là điểm gặp gỡ giữa Đông – Tây, giữa Kitô giáo và văn hóa Việt – mở đầu quá trình hội nhập lâu dài.

 

8. Giá trị hôm nay

 

Khi tìm về Nước Mặn, ta trở về chiếc nôi của chữ Quốc ngữ – di sản không chỉ của Giáo hội, mà của cả dân tộc.

 

Đây cũng là nơi gợi nhắc niềm tin kiên trung của những Kitô hữu đầu tiên miền Trung, đã chấp nhận bách hại nhưng vẫn giữ đạo.

 

Nước Mặn nhắc nhở chúng ta: Tin Mừng không tách rời văn hóa, mà đi vào lòng văn hóa để làm cho văn hóa phong phú hơn.

 

Trong cuộc Hội thảo khoa học “Bình Định với chữ quốc ngữ” ngày 12-13 tháng 01 năm 2016, hội nghị kết luận: Cư sở Nước Mặn của các thừa sai Dòng Tên ở phủ Qui Nhơn là nguồn suối đầu tiên của dòng sông “quốc ngữ”.

 

9. Kết luận

 

Đứng tại Nước Mặn hôm nay, ta nghe vang vọng tiếng sóng Thị Nại, như chứng nhân cho lịch sử. Đây là nơi chữ viết dân tộc ta hình thành, nơi những người tín hữu đầu tiên đã đổ máu gieo hạt giống đức tin.

 

Nước Mặn không chỉ là một địa danh – mà là ký ức sống động, là chiếc nôi của chữ Quốc ngữ và cũng là cội nguồn văn hóa Kitô giáo tại Việt Nam.”

 

Trong chuyến viếng thăm mục vụ đầu tiên tại Đàng Trong vào cuối năm 1671 đến đầu năm 1672, Đức cha Phêrô Lambert de la Motte đã dừng chân tại Nước Mặn hơn 6 tuần. Khi kết thúc chuyến viếng thăm, trên đường trở về Xiêm, Đức cha cũng ghé lại Nước Mặn. Tại đây cha Giuse Trang, quê Quảng Ngãi, là vị linh mục người Việt đầu tiên được Đức cha đã bổ nhiệm làm "cha sở" Nước Mặn, có quyền cai quản tổng quát từ Quảng Ngãi đến Phú Yên.

 

Ngày nay cư sở truyền giáo Nước Mặn không còn, nhưng có thể được xác định vị trí tại thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, thuộc địa bàn giáo họ Nho Lâm, giáo xứ Nam Bình. Tại đây, một đài tưởng niệm đã được Tòa Giám mục Qui Nhơn xây dựng và khánh thành ngày 05 tháng 08 năm 2011.

 

Nguyễn Thái Hùng

Tài liệu tham khảo

Cẩm nang Năm Thánh Giáo phận Qui nhơn 2017-2018

và Internet

 

 


 


 

  

CRISTOFORO BORRI

Linh mục Dòng Tên người Ý, đồng thời là nhà khoa học và nhà văn nổi bật trong thế kỷ XVII.

Tiểu sử khái lược

Sinh năm 1583 tại Milano (Ý).

Gia nhập Dòng Tên khoảng đầu thế kỷ XVII.

Ngài không chỉ là thừa sai Công giáo, ông còn là một nhà toán học, thiên văn học, và đã giảng dạy khoa học tại châu Âu trước khi đi truyền giáo.

Đến Việt Nam năm 1618, Borri được sai đến Đàng Trong (xứ Cochinchina), cụ thể là tại vùng Quy Nhơn và Nước Mặn (nay thuộc Bình Định). Ông ở lại khoảng 4 năm (1618–1622) để truyền giáo, học tiếng Việt, tìm hiểu văn hóa bản địa. Đây cũng chính là thời kỳ đầu tiên của Dòng Tên tại vùng này, tiếp nối công việc của các thừa sai Buzomi, Pina, và de Fontes.

Tác phẩm và giá trị

Sau khi rời Việt Nam, Borri trở về châu Âu và vào năm 1631 cho xuất bản tác phẩm nổi tiếng bằng tiếng Ý:

“Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Gesù al Regno della Cocincina” (Tường thuật về sứ vụ mới của các cha Dòng Tên tại vương quốc Đàng Trong). Mô tả chi tiết Phong tục, đời sống xã hội, tín ngưỡng, chính trị và thiên nhiên tại Đàng Trong đầu thế kỷ XVII.

Đây là một trong những tư liệu quý giá nhất về lịch sử – văn hóa Việt Nam thời Chúa Nguyễn.

Ông là người châu Âu đầu tiên viết ký sự hệ thống về Việt Nam (Đàng Trong). Góp phần giới thiệu hình ảnh, phong tục, tín ngưỡng Việt Nam đến châu Âu. Ngoài lĩnh vực truyền giáo, Borri còn được biết đến trong khoa học: ông từng nghiên cứu thiên văn, toán học, và được một số học giả châu Âu trích dẫn.

Tóm lại, Cristoforo Borri (1583–1632) một linh mục Dòng Tên người Ý, đến Nước Mặn (Bình Định) năm 1618 để truyền giáo, ở lại 4 năm, rồi trở về châu Âu. Ông để lại tác phẩm nổi tiếng năm 1631, hiện được xem là nguồn tư liệu quý giá bậc nhất về xã hội và văn hóa Việt Nam thế kỷ XVII.