Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2014

GL PÂ CHÚA NHẬT XX QUANH NĂM A

17/08/2014
CHÚA NHẬT XX MÙA THƯỜNG NIÊN năm A
(phần II)

GL PÂ CHÚA NHẬT XX QUANH NĂM A
Sách Ngôn sứ Isaia 56,1.6-7;  Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 11, 13-15.29-32
và Phúc Âm Thánh Matthêô 15,21-28

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại.
Ai cũng được nhìn nhận là con cái Chúa và được đón nhận ơn cứu độ.
Lòng tin luôn bị thử thách. Thử thách giúp mạnh tin.
Người có đức tin mạnh “muốn sao thì sẽ được vậy!”

II.               Vấn nạn P.Â.    
Rõ rệt là Chúa kỳ thị và xúc phạm người đàn bà ngoại giáo khi nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!”
            Chúng ta đọc Phúc Âm và hiểu Phúc Âm theo ngôn ngữ và các h suy nghĩ của thời nay. Chúng ta nói Chúa kì thị khi nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó!”  Theo lịch sử ngôn ngữ học, từ discrimination hay kì thị mới được xử dụng vào năm 1648 tức khi người ta bắt đầu ý thức về quyền làm người. Trước đó, coi như không có kỳ thị hay kỳ thị không là vấn đề xấu.  Cũng như từ xúc phạm, tức abuse, có thể xúc phạm người khác cách thể lý như đánh đập hay hành hạ hoặc có thể xúc phạm bằng lời nói hay tâm lý khi làm người khác sợ sệt. Xúc phạm trong nghĩa abuse nầy xuất hiện và được xử dụng vào thế kỷ thứ 15 thôi.

            Chắc chắn trước đó có xúc phạm nhưng không là vấn để luật pháp hay tội phạm. Chúng ta có tghể hiểu được điều nầy khi thấy ở Việt Nam ngày trước chồng đánh vợ hay cha mẹ đánh con cái. Người ta cho đó là chuyện phải làm, vì thương con cho roi cho vọt hay dạy vợ dạy thuở ban sơ… Không ai đem chuyện nầy ra pháp luật cả. Nên khi Chúa Giêsu nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!”, Chúa không có ý khinh thị hay kỳ thị gì với người đàn bà dân ngoại nầy cả. Nhưng Chúa chỉ có ý thử thách lòng tin của bà ta thôi. Bằng chứng là bà ta đã vượt sự thử thách và Chúa đã cho bà toại nguyện “này bà! ,òng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy!”

            Miền Tia và Sidon: (Viết theo Bách Khoa Tự Điển)
            Sidon or Saïda là thành phộ lớn thứ ba ở Lebanon. Sidon toạ lạc ở phía Nam Lebanon, bên bờ biển Địa Trung Hải, cách Tia chừng 40 cây số và cách thủ đô Beirut chừng 40 cây số. Trong sách Sáng Thế Ký, Sidon là tên con trai của Canaan, con Ông Noe. Ngày nay Sidon có chừng 200 ngàn dân cư, phần lớn là người Sunni theo Hồi Giáo. Sidon được coi như pháo đài của người Sunni ngày nay. Những sắc dân còn lại như Công Giáo Hy Lạp hay Tin Lành Maronites hay người Hồi Shiite chỉ chiếm thiểu số.

            Sidon đã có từ lâu đời phải đến hơn 4000 năm trước Chua Giáng Sinh. Nó là một trong những hải cảng quan trọng của người Phênicia. Nó là điểm thương mại lớn của Địa Trung Hải. Đàn Ông chuyên nghể thủ công. Đàn bà có năng khiếu thêu đan. Thành phố Tia gần đó cũng dần dà được phát triển nhờ sự phồn thịnh của Sidon. Sidon lần lược bị chiếm cứ bởi các vua người Assyria, người Babylon, người Ai Cập và người Hy Lạp và sau cùng là Roma. Kinh Thánh cho thấy là cả Chúa Giêsu và Thánh Phaolô đã từng thi hành việc truyền giáo ở Sidon. Thời Chúa Giêsu, Sidon và Tia được liệt kê vào vùng đất dân ngoại giáo. Người Do Thái không có qua lại với người ngoại giáo nầy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu thỉnh thoảng tiêu pha một thời gian ngắn với dân ngoại nhất là khi ngài bị người Do Thái ngược đãi. Chúng ta có thể thấy sự liên hệ của Chúa với dân ngoại được diễn tả trong Matthêô 15, 21-28; Gioan 6:15; Luca 13:31 và Marcô 7:31

            “Lạy Ngài là Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” Sao một người đàn bà ngoại giáo chưa từng một lần gặp Chúa mà lại biết tuyên xưng Chúa là Con Vua Đavít?
            Phần nhiều người ta cho rằng: Vì danh tiếng Chúa Giêsu đồn đải rất xa, nên gần như cả đất nước Do Thái và vùng phụ cận đều biết Chúa Giêsu là người của Thiên chúa, chuyên môn làm phép lạ chữa bệnh tật.Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, Phúc Âm Matthêô thành hình 50 năm sau khi Chúa về trời. Phúc Âm là giáo lý của các tông đồ. Các Ngài không ghi Phúc Âm theo kiểu phóng sự hay ký sự nhưng chỉ là chuyện ghi lại để dạy giáo lý. Giáo lý các tông đồ là Chúa Giêsu làm người là Con Thiên và là Thiên Chúa thật. Nên câu tuyên xưng đức tin nầy phát xuất từ miệng người phụ nữ ngoại giáo để nói rằng: Người ngoại giáo mà còn nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít là Đấng Cứu Thế thì huống chi là người Do Thái chính gốc, những người đã từng được biết Đấng Cứu Thế đến từ dòng vua Đavít.

III.      Thực Hành P.Â.      
Chúa giàu lòng thương xót: Thấy dân chúng theo Chúa đói khát, Chúa chạnh lòng thương xót hoá bánh ra nhiều nuôi dân. Thấy người đàn bà kiên trì cầu xin cho con cái mình, Chúa cho bà được toại nguyện.
            Chúa giàu lòng thương xót. Xin chạy đến với Ngài như di chúc của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.  "Từ Balan, sẽ trổi lên một tia sáng, để chuẩn bị thế giới cho lần trở lại thứ hai của Ta". Đó là lời Chúa hứa qua thánh nữ Faustina. Tia sáng đó chính là Đức Giáo hoàng GP II, đấng thiết lập cho toàn thế giới Lễ Kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mừng kính vào Chúa Nhật liền sau Lễ Phục Sinh. Ngài đã được phong Chân Phước vào chính ngày Lễ Kính Lòng Thuơng Xót của Chúa, tức ngày 01-05-2011.

 Trích Di chúc của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (qua đời ngày 02.04.2005 áp lễ kính Lòng Chúa Thương Xót)

"Các con thân mến!

            Hiện nay các con đang sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng kiên tâm vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra nói với cha, nhờ cha thông báo lại cho các con những sứ điệp này: “Các con hãy cầu khẩn Thiên Chúa các con, giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này”.
            Các con thân mến, khi cha ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc đại nạn lớn lao sẽ xảy ra, tại các nước lớn như Nhật bản, Trung quốc, Philippin.

            Các con là những người cha tin yêu nhất, là những người con thuộc dòng dõi Đavít[1], các con hãy kêu xin cùng Thiên Chúa, bằng cách các con đọc kinh cầu nguyện:

Với những lời kinh tha thiết sau đây:
            Xướng    :  Xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót chúng con!
            Đáp        :   Vì Chúa đã sinh ra chúng con, và đặt chúng con trên trái đất này.
            Xướng    :  Xin an ủi nâng đỡ chúng con trong lúc gian nguy.
            Đáp        :  Vì Chúa là nguồn an ủi của chúng con.
            Xướng    :  Xin xua đuổi những giặc thù xa chân chúng con.
            Đáp        :  Vì Chúa là Đấng đã bảo vệ chúng con.

           Kết         :  Xin phù hộ chúng con trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày kia, sẽ được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen. Sau những lời nguyện trên, các con hãy đọc:

-   Một kinh Tin kính  -   Một Kinh Chúa Thánh Thần -   Một Kinh ăn năn tội
-   Và lời nguyện tắt: “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn nước”.

            Khi các con phổ biến một bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một ơn tiểu xá, cứ 100 người thì được một ơn đại xá. Và khi các con rời thế gian này, sẽ được các Thiên Thần đưa về Trời, hưởng hạnh phúc muôn đời.    Cha ban phép lành và chúc phúc cho những ai phổ biến bản kinh này.

 (Trích dịch “Di chúc của ĐTC GP II”, theo bản tiếng Anh của cha Lorenso thuoc Bộ Giáo Lý Đức tin, Rôma.)

            Gương chạnh lòng thương xót:
            Linh Mục Sống Nghèo Để Có Tiền Giúp Người Nghèo: ... Tại số 13 đường Daubenton quận V của Paris, thủ đô nước Pháp, có một ngôi nhà 7 tầng được chỉnh trang lại. Ngôi nhà chia thành nhiều căn hộ, trong đó 8 căn hộ được giao cho 8 gia đình nghèo, không có tiền thuê nhà nơi chung cư ..Bởi đâu có phép lạ xảy ra giữa lòng thủ đô hoa lệ, ngay nơi khu phố diễm lệ nhất Paris: có những thành phần bị coi là “ngoài lề xã hội” lại được ở trong một tòa nhà sang trọng như thế? Thưa tất cả là nhờ công lao của Cha Bernard Devert, vị Linh Mục của những người nghèo vô gia cư.

            Cha Bernard Devert sinh trưởng trong một gia đình Công Giáo ở Lyon, miền Nam nước Pháp. Bernard là anh cả của 4 người em. Năm lên 13 tuổi, một ngày từ trường học trở về, Bernard bắt gặp khuôn mặt thân mẫu dàn dụa nước mắt. Khi cậu hỏi, mẹ cậu trả lời:

- Mẹ không còn một đồng xu để mua bánh mì cho các con ăn!

            Khám phá bất ngờ về sự nghèo túng của gia đình đã gieo vào lòng cậu bé một suy tư sâu thẳm. Bỗng chốc cậu ý thức được cái dòn mỏng của thân phận con người trước cái sung túc giàu sang. Tự thâm tâm, Bernard thề quyết:  Nhất định phải thành công trong cuộc đời!

            Biến cố thứ hai cũng ghi đậm nét trong ký ức của Bernard và là yếu tố chính đưa đến chọn lựa con đường Linh Mục. Trong thời đệ nhị thế chiến 1939-1945, thân phụ của Bernard bị quân đức quốc xã đày sang trại tù lao động khổ sai ở Gross-Rosen bên Ba Lan. Bernard kể: Sở dĩ Ba tôi sống sót và trở về gia đình được là nhờ Đức Tin sâu xa của người. Thời gian tù đày đã dạy thân phụ tôi bài học tha thứ. Người thật lòng tha thứ cho những kẻ thù hành hạ ngược đãi người.

            Năm 20 tuổi, Bernard ghi tên theo học ngành luật. Nhưng rồi chàng bỏ dở việc học và xin vào làm việc nơi hãng thầu xây cất nhà cửa của thành phố Lyon. Chàng hăng say làm việc và thành công trong nghề nghiệp. Chàng kiếm được khá nhiều tiền. Nhưng rồi một biến cố bất ngờ xảy ra làm đảo lộn cuộc đời chàng. Vào một buổi sáng năm 1980, có người gọi điện thoại báo cho chàng biết là một cụ bà toan tính tự tử trong căn hộ nơi một chung cư của quận VI thành phố Lyon. Đây là chung cư mà hãng chàng định đập phá, hủy bỏ.

            Chàng tức tốc chạy đến nhà thương. Chàng nhẹ nhàng trách cụ bà: Cụ biết rõ là thế nào người ta cũng đưa cụ sang một căn hộ khác mà! Cụ bà chống chế: Có, lão có nghe! Nhưng rời xa một nơi mà lão đã sống suốt đời, quả thật rất khó. Hơn nữa, lão quá nghèo. Còn mấy ông, mấy ông có quyền đưa lão đi chỗ khác, bởi vì mấy ông sắp sửa xây cất nhà cho người giàu!

            Câu nói hờn-tủi của bà cụ gieo vào lòng chàng Bernard một ý thức sâu xa về các bất công xã hội. Chàng cảm thấy hổ thẹn về hành động bẩn-thỉu của mình! Tự nơi đáy lòng chàng thề quyết: Từ đây mình sẽ là người điều hợp phân phối nhà cửa không giống ai hết!

Sau khi suy nghĩ, chàng đến gặp Đức Hồng Y Albert Décourtray (1923-1994), lúc bấy giờ là Tổng Giám Mục Lyon. Chàng nói: Thưa Đức Hồng Y, con muốn vừa phục vụ Chúa vừa hành nghề. Nếu có các Linh Mục thợ thì tại sao tại không có các Linh Mục trong số các ông chủ thầu?

Đức Hồng Y Décourtray chấp thuận cho chàng vừa theo học thần học tại phân khoa Công Giáo của đại học Lyon vừa làm việc nơi hãng thầu xây cất nhà cửa, với điều kiện: Chàng không được lãnh lương! Anh Bernard Devert vui vẻ chấp nhận. Năm ấy chàng 35 tuổi.

            Dĩ nhiên con đường theo đuổi ơn gọi Linh Mục không mấy dễ dàng. Nhưng thầy Bernard thắng vượt tất cả. Thầy quy tụ một số nhân vật có đủ khả năng tài chánh để thành lập Hội ”Habitat et Humanisme - Gia Cư và Nhân Bản”. Hội quyên góp tiền bạc rồi xây nhà để bán. Với số tiền lời thu được, Hội sẽ mua một số căn hộ trong cùng chung cư đó và cho những người không nhà cửa đến ở. Như vậy, trong các chung cư của Hội, luôn luôn lẫn lộn, pha trộn giữa hai hạng người giàu và nghèo: Người giàu mua nhà để ở và người nghèo được cho nhà để ở mà không phải trả tiền.

            Năm 1987, thầy Bernard Devert được thụ phong Linh Mục. Từ đó Cha Bernard vừa thi hành chức vụ Linh Mục vừa giữ nhiệm vụ điều hợp việc phân phối nhà cửa cho những người nghèo vô gia cư, nơi thành phố Lyon ..Cha Bernard sống nghèo để có tiền giúp đỡ người nghèo. Chưa hết, từ năm 1997, Cha còn giữ nhiệm vụ Tuyên Úy cho trung tâm chống ung thư Léon-Bérard. Cha thường dành thời giờ ban đêm để thăm viếng ủi an và giúp đỡ các bệnh nhân hấp hối.

... Đức Chúa GIÊSU phán: ”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ. Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Matthêu 10,40-42). (”Reader's Digest SÉLECTION”, Novembre/1997, trang 90-92 -  Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)

Lm Phêrô Trần Thế Tuyên


Sống niềm tin
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét