Trang

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

ĐỨC GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN HỒ (Matthêu 14,22-33 – CN XIX - A)

ĐỨC GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN HỒ (Matthêu 14,22-33 – CN XIX - A)



Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố giúp hiểu rằng các tín hữu phải dựa vào Đức Giêsu để sống niềm tin của mình.

 Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Xin xem CN XVIII TN – A.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn “hiển linh” (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật một cuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được một số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải một phẩm tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của thể “hiển linh” là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên Chúa nhằm cứu độ dân Người .

Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp mộtlời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa.


2- Bố cục

Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A - Hoàn cảnh của các môn đệ trên biển (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b’) (23b)
a’) (24)
B - Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):     
a) (25)
b) (26)
a’) (27)
B’- Đức Giêsu cứu Phêrô (14,28-31):
            a) (28-29a)
b) (29b)
b’) (30)
a’) (31)
A’- Lời tuyên xưng của các môn đệ (14,32-33):
            a) (32)
            b) (33)  


3.- Vài điểm chú giải

- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong TM Mt, “con thuyền” là biểu tượng của Họi Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị “tra tấn (hành hạ)” (basanizô) bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: “các ông phải vất vả chèo chống”). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có “động đất” (seismos) trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ đến các đau khổ Họi Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.

Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “biển” là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7…). Nói rằng “đang ở trên mặt biển” có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy “biển” ở đây là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.


- Chính Thầy đây
 (27): Trước tiên, đây là một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối giữa Đức Giêsu và Yhwh.    

4.- Ý nghĩa của bản văn

Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt “biển” (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật một phương diện mới và có một không hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Họi Thánh Người trên “tảng đá” là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).

Tuy nhiên, phương diện cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.


Phương diện giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Họi Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.


Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Họi Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.    


+ Kết luận
Mt trình bày một cuộc thần hiển cho “những người đang ở trong thuyền”, nghĩa là Họi Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của các tín hữu.   

5.- Gợi ý suy niệm

1. Khác với LcMt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là một đòi hỏi thông thường của tinh thần Người, một nhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở một mình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.

2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Họi Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn giông trên biển. Lúc này là “đêm tối” (c. 25), là giờ của thử thách, của “quyền lực bóng tối” (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.


3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26). Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.


4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Họi Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một đòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Họi Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy đây” (= Ta là), “Cứ đến!” (cc. 27-29).  

5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận một chiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận “hỏng chân”. Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa  của con!” (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.

http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=8961

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét