VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Almato
Bình, linh mục
Ngày 01 tháng 11
Tin Mừng thánh Gioan 12,24-26
24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác.25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình
ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy
theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha
của Thầy sẽ quý trọng người ấy."
25 Whoever loves his life loses it, and whoever hates his life in this
world will preserve it for eternal life.
26 Whoever serves me must follow me, and where I am, there also will my
servant be. The Father will honor whoever serves me.
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề của hình này là gì ?
………………………………………………….
* Bạn hãy viết câu Tin mừng thánh Gioan 12,24
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Hạt lúa thì được gieo vào đâu ? (Ga 12,24)
a. Bờ hồ
b. Vườn nho
c. Lòng đất
d. Cả a, b và c đúng
a2. Ai quý điều gì của mình thì sẽ mất ? (Ga 12,25)
a. Của cải
b. Con cái
c. Vinh hoa
d. Mạng sống
a3. Ai coi thường điều gì của mình ở đời này thì sẽ giữ
được nó cho sự sống đời đời ? (Ga 12,25)
a. Của cải
b. Con cái
c. Gia nghiệp
d. Mạng sống
a4. Ai phục vụ thầy thì làm gì ? (Ga 12,26)
a. Hãy theo thầy
b. Hãy tuân giữ các điều răn của thầy
c. Hãy vác thập giá mình theo thầy
d. Hãy vững tin, vì thầy đã thắng thế
gian
a5. Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi thì
nó thế nào ? (Ga 12, 24)
a. Sinh nhiều bông hạt
b. Trơ trọi một mình
c. Chờ đợi mùa mưa đến
d. Chờ mùa gặt tới
B.
Linh mục Phêrô Bình (Petrus Almato)
b1. Linh mục Phêrô Bình (Petrus Almato), Sinh năm 1830 tại San Feliz
Saserra, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông
Ðàng Ngoài, chịu tử đạo dưới triều vua nào ?
a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782)
c. Vua Minh Mạng (1820-1841)
d. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
b2. Linh mục Phêrô Bình (Petrus Almato) chịu tử đạo thế nào ?
a. Bị xử giảo
b. Bị xử trảm
c. Bị thiêu sống
d. Bị xử lăng trì
b3. Linh mục Phêrô Bình (Petrus Almato) chịu tử đạo tại Hải Dương vào năm nào ?
a. Năm 1773
b. Năm 1839
c. Năm 1857
d. Năm 1861
b4. Linh mục Phêrô Bình (Petrus Almato) được Đức Giáo Hoàng nào tôn
phong lên bậc chân phước (1906) ?
a. Đức Giáo hoàng Piô X
b. Đức Giáo hoàng Lêô XIII
c. Đức Giáo hoàng Piô XII
d. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
b5. Thánh Phêrô
Bình (Petrus Almato) được mừng kính vào ngày nào ?
a. Ngày 12 tháng 6
b. Ngày 01 tháng 11
c. Ngày 17 tháng 9
d. Ngày 26 tháng 5
III. Ô
CHỮ
Những gợi ý
01. Cái gì được gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ? (Ga 12,24)
02. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ có thái
độ nào với người ấy ? (Ga 12,26)
03. Hạt lúa được gieo vào đâu ? (Ga
12,24)
04. Ai yếu quý điều gì của mình thì sẽ
mất? (Ga 12,25)
05. Ai coi thường mạng sống mình ở đời
này, thì sẽ giữ lại được cho điều gì ở đời đời ? (Ga 12,25)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Tin Mừng thánh Gioan 12,24
++++++++++++++++
Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
Thánh Phêrô Almato
Bình, linh mục
I.
HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
Thánh Phêrô Almato
Bình
* Tin mừng thánh Gioan 12,24
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất
mà không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác.”
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. d. c.
Lòng đất (Ga 12,24)
a2. d. Mạng
sống (Ga 12,25)
a3. d. Mạng
sống (Ga 12,25)
a4. a. Hãy
theo thầy (Ga 12,26)
a5. b. Trơ
trọi một mình (Ga 12, 24)
B.
Lm Phêrô Bình (Petrus Almato)
b1. a. Vua Tự Đức (1847-1883)
b2. b. Bị xử trảm
b3. d. Năm 1861
b4. a. Đức Giáo hoàng Piô X
b5. b. Ngày 01 tháng 11
III. Ô CHỮ
01. Hạt
lúa (Ga 12,24)
02. Quý
trọng (Ga 12,26)
03. Lòng
đất (Ga 12,24)
04. Mạng
sống (Ga 12,25)
05. Sự
sống (Ga 12,25)
Hàng dọc : Tử Đạo
Gb. Nguyễn Thái Hùng
XIN XEM THÊM TẠI ĐÂY
+++++++++++++++++++++
Phêrô Almato Bình (1830-1861)
Phêrô Almato Bình, Linh Mục Ða Minh; sinh 1830 tại
Sassera (Vich), Tây Ban Nha; chết 1/11/1861, tại Hải Dương. Ngài được sai đi
Phi Luật Tân trước hết khi được khấn dòng Ða Minh. Sau đó được gửi Ximabara với
thánh Jerome Hermosilla, cùng với vị này, ngài đã bị xử trảm (chém đầu), phong
á thánh năm1906. Lễ kính vào ngày 1/11.
Đức Cha Alcazar tóm tắt cuộc sống thánh thiện và anh
hùng của Cha Phêrô Almato như sau: "Tôi theo dõi suốt cuộc đời của ngài và
có thể làm chứng rằng ngài không bao giờ phạm một tội trọng nào, lại hết lòng
gìn giữ đức trong sạch trinh khiết. Mặc dù sức khỏe yếu kém, người ta chỉ có thể
nói rằng Thiên Chúa định cho ngài sang truyền giáo ở Việt Nam là để thưởng công
triều thiên tử đạo cho ngài. Quả thật Đức Cha Hermosilla đã ra lệnh cho Cha
Almato và Cha Munoz di tản sang Trung Hoa để tránh cơn lùng bắt dữ tợn, nhưng
Chúa để cho Cha Almato nhỡ tầu, còn Cha Munoz đi được. Cha Munoz viết thư cho
ngài: "Này anh Almato, lẽ ra anh phải sang Macao chứ không phải là tôi.
Như đức cha già khả kính Hermosilla đã định, nhưng tôi không được phúc tử đạo,
còn Thiên Chúa thưởng nhân đức anh bằng phúc tử đạo".
Cha Almato sinh ngày 1-11-1830 tại Catalogna, Tây
Ban Nha, được cha mẹ đạo đức đem đi rửa tội ngay và đặt tên thánh là Phêrô
Giuse. Ngay từ bé cậu Almato đã tỏ ra lòng đạo đức, thích đồ chơi bằng nhà thờ
hay đóng kịch làm cha đứng giữa các bạn giảng đạo. Khi lên 11 tuổi đã đi học
Latinh và tháng 8-1847 vào dòng Đaminh ở Ocanha để sửa soạn đi giảng đạo ở
phương Đông. Cha mẹ không muốn cho con đi xa, nhưng ngài đã can đảm viết thư
cho cha mẹ như sau: "Cha mẹ đừng than khóc vì đứa con phải đi xa, nhưng
hãy vui mừng vì ở trên trời cha mẹ sẽ được phần thưởng vì những hy sinh. Hạnh
phúc cho chúng ta dường nào được gặp nhau ở trên đó, luôn luôn được hiệp nhất với
nhau trong vinh quang và không còn phải xa cách nhau nữa. Cha mẹ hãy nghĩ rằng
Chúa đã xếp đặt như thế không phải để chúng ta khổ nhưng là để chúng ta được sự
tốt lành, được thanh tẩy và thánh hóa trong cuộc sống đời này và được phần thưởng
trong cuộc sống mai sau".
Quả thật là những lời lẽ cao siêu của một tâm hồn đã
xác tín muốn yêu Chúa đến mức độ tuyệt hảo. Sau nhiều thử thách và gắng sức tu
luyện, Thầy Almato được khấn trọng thể ngày 26-9-1848. Trong dịp này thầy có viết
thư cho cha mẹ: "Cha mẹ quí mến, những việc lo dưới thế là mong làm cho
con đường thu ngắn lại và chắc chắn hơn, con cũng vậy, con phải làm cho việc cứu
rỗi linh hồn con chắc chắn. Con không những chắc chắn về cuộc sống hiện tại mà
con mong cho các anh em con sớm bỏ biển khổ đầy lo lắng quen gọi là thế
gian". Về đời sống trong viện tu, Thầy Almato viết: "Ở đây con được bề
trên lo lắng săn sóc mọi sự cần, mặc dù chúng con đông nhưng tình thương bao bọc
đồng đều mọi người dường như là một vậy. Con chẳng phải nghĩ gì khác". Viết
cho người em gái đi tu, thầy khuyên: "Không có gì xảy ra tình cờ, không có
biến cố nào mà không có báo trước. Những điều bất hạnh xem ra là sự dữ nhưng nếu
chúng ta biết suy nghĩ cho kỹ, chúng ta sẽ thấy sự dữ là một điều lành, trong
cái rủi ro là một may lành. Nếu anh cứ tiếp tục than trách, anh sẽ chẳng bao giờ
hết vì trong lòng chứa đầy sự cay đắng".
Tháng 9-1852, Thầy Almato được chỉ định sang Manila
và chịu chức bên đó trước khi được lệnh sang Bắc Việt. Cha viết về mong ước
sang Bắc Việt với người bạn: "Đã từ lâu tôi ước ao được sang truyền giáo ở
Bắc Việt. Tôi đã nhiều lần kêu xin với Chúa và Đức Mẹ và đã thưa với các bề
trên. Chúa đã nghe lời tôi. Tôi cảm tạ Chúa đã thương chọn tôi cùng với ba cha
khác đi truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại."
Ngày 11-1-1855 cha, lúc ấy mới 24 tuổi, lên đường đi
Hồng Kông. Bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu hy vọng trên chuyến hành trình, cha ngước
mắt lên trời cao như muốn cho hy vọng thêm bao la. Bẩy tháng sau, ngày 3-7-1855,
cha rời Macao để đến Bắc Việt và tới nơi ngày 11-7 tại Nam Chân. Cha được đưa đến
trình diện cha đại diện tỉnh dòng Salvatore Masso và sau đó được tới Bùi Chu
vào dịp lễ phong chức giám mục cho Cha Sampedro ngày 1-9. Cha Almato được đặt
tên Việt là Bình, diễn tả tâm hồn bình an của cha. Cha học tiếng Việt tại Kẻ Mốt
một năm và sau đó được sai giúp Cha Fernandez trước khi được chỉ định coi xứ
Thiết Nham.
Giáo dân xứ Thiết Nham nói về vị chủ chăn của mình
như sau: "Cha Bình (Almato) thường xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài. Như
thế tâm hồn sốt sắng của ngài thúc đẩy con chiên chúng tôi chạy đến với
ngài". Năm 1858 lệnh vua Tự Đức bắt đạo ngặt nghèo nên Đức Cha Hermosilla
truyền lệnh cho Cha Almato tạm thời sang Trung Hoa vì ngài kém sức khỏe, sợ
không chọi nổi cảnh trốn chạy mà chết uổng đi. Nhưng ý Chúa để cha bị nhỡ cơ hội,
cha đi về Kẻ Mốt thăm đức cha rồi trốn tránh ở Kẻ Nê, ở Thọ Ninh.
Năm 1861 với lệnh phân sáp và không còn trốn tránh
được nữa, Cha Bình xuống thuyền ở với Đức Cha Ochoa Vinh hẹn đến với Đức Cha
Hermosilla. Thế nhưng thuyền của Đức Cha Hermosilla và Thầy Khang đã bị bắt
ngày 20-10-1861. Đức Cha Ochoa và Cha Almato được ông trùm Trọng chèo thuyền về
Kim Phô nhờ một quan ở huyện là Hán Cáp giúp đỡ. Ông quan này nhận lời giúp đỡ
nhưng chính ông lại đi báo quan tỉnh Hải Dương về bắt. Ngày 25-10-1861 quan huyện
Thanh Hà đến bắt Đức Cha Ochoa và Cha Almato giải về Hải Dương.
Quan tổng đốc Hải Dương là Nguyễn Quốc Cẩm đặt thánh
giá ở cửa thành, nhưng đức cha yêu cầu có cất đi thì mới vào trong thành. Quan
hỏi Cha Almato về quê quán và thời gian ở Việt Nam bao lâu, Cha Almato đáp:
"Tôi là người Tây Ban Nha, sang Việt Nam được bẩy năm, tôi rao giảng đạo tại
nhiều nơi".
Quan lại hỏi có biết Cha Tuấn (tên thứ ba của Đức
Cha Hermosilla). Sau đó Đức Cha Ochoa, Đức Cha Hermosilla và Cha Almato, mỗi
người một cũi được giam chung với nhau ở Trang Thu. Quan tổng đốc là người hiền
lành muốn thong thả làm án tâu về kinh, nhưng tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình
Hưng (Tân) sợ triều đình khiển trách nên ra lệnh làm án trảm quyết ngày
1-11-1861.
Vào ngày lễ Các Thánh, Đức Cha Hermosilla, Đức Cha
Ochoa và Cha Almato được 300 người lính dẫn ra pháp trường Năm Mẫu ở ngoài
thành Hải Dương để chém đầu. Cha Almato vừa đúng 31 tuổi.
Khi xử ba đấng đã có nhiều dấu lạ như được kể trong
chuyện Đức Cha Hermosilla. Xác các ngài được chôn tại chỗ ba tháng rồi mới được
giáo dân lén lút đem về chôn ở ba nhà khác nhau tại Thọ Ninh ngày 2-2-1862. Sau
này khi bốc mộ, xác Cha Almato Bình được đưa về chôn ở nhà thờ Truyền Tin thuộc
địa phận Vich là quê quán của ngài ở Tây Ban Nha.
vncatholic.org
Trường
thi tử đạo
Phêrô Almatô Bình linh mục
Sinh Tân Mão (1831) quê thực (Tây) Ban Nha
Thủa nhỏ đã tỏ ý ra
Lớn lên cố học làm cha giúp đời
Mười lăm tuổi học thời Chủng viện
Học tập hay phương tiện cũng nhiều
Hằng ngày có biết bao nhiêu
Sách báo cậu đọc đến điều say mê
Bữa nọ đọc bản tin truyền giáo
Của hội dòng giảng đạo Ðaminh
Ðọc xong cậu thấy lòng mình
Tự nhiên thích thú thuận tình xin đi
Ðược Giám mục chỉ huy khuyến khích
Con nên đi chủ đích (cứu) tha nhân
Việt Nam đang lúc rất cần
Thừa sai giảng đạo để nhân tín đồ
Thầy mừng rỡ hoan hô từ giã
Với gia đình và cả bạn bè
Ðến Ðaminh tiện đường xe
Thời gian thực tập lắng nghe lời thầy
Năm Mậu Thân (1848) trong ngày tuyên khấn
Thầy cầu xin thanh vắng với cha
Năm năm thần triết đã qua
Thụ phong linh mục thật là Chúa ban
Cha được đến Việt Nam phục vụ
Năm Ất Mão (1855) bám trụ Ðàng Ðông
Tiếng Việt cha học mau thông
Có tên tiếng Việt phổ thông cha Bình
Về (xứ) Nam An thuận tình (xứ) Kẻ Mốt
Hơn một năm thêm một (xứ) Thiết Nhan
Công việc ngài rất là ham
Sức khoẻ quá kém hễ làm lại đau
Cuộc bách hại về sau ác liệt
Các vòng vây tiêu diệt bủa ra
Càng thêm khổ cực cho cha
Nay đây mai đó quả là khổ thân
Việc giảng đạo trăm phần khó nhọc
Ngày trong hầm đêm gặp giáo dân
Dâng lễ giải tội ân cần
Hễ thấy lính đến nhanh chân chạy liền
Cứ như vậy liên miên ngày tháng
Bệnh hoành hành cha ráng vẫn đi
Bằng thuyền ngài chẳng ngại chi
Có lần tới bến lính thì bao vây
Thấy bụi tre gai đầy xuống nấp
Nước bùn lầy ẩm thấp biết sao
Nhiều năm cha sống tự hào
Người thì gầy yếu bệnh nào bớt cho
Trong người cha là kho lẫm Chúa
Ðầy mến yêu chan chứa tình thương
Mục tiêu là nước thiên đường
Thế trần khổ cực nêu gương sáng ngời
Lệnh cấm đạo đến thời phân sáp
Các thừa sai bố ráp đêm ngày
Lệnh về cha phải đi ngay
Ngài xin bám trụ đến ngày quy thiên
Cuộc bố ráp ngày thêm gạn lọc
Không còn nơi đùm bọc giấu che
Ðức Cha Vinh (và) ngài xuống ghe
Trong đêm tăm tối hướng ra Thái Bình
Hai cha con Bình - Vinh đêm ấy
Thật may sao gặp thấy Ðức Liêm
Ba người tri kỷ một đêm
Ngày mai kẻ ngược người êm tay chèo
Ngay hôm ấy gieo neo rồi đấy
Chính cha Bình nhìn thấy Ðức (Cha) Liêm
Soát thuyền chúng bắt được liền
Cha con sợ quá bỏ thuyền đi lên
Ngay lúc đó gặp tên Cựu Trọng
Là giáo dân cổ đọng tại đây
Vui mừng anh giới thiệu ngay
Ðến ông thửa ở ông này thầy lang
Ông lang thửa sẵn sàng cho ở
Cùng hai ngài niềm nở thân thương
Ngờ đâu thằng cháu chủ trương
Bắt ngài đem nộp chẳng thương ham tiền
Quan Tổng trấn người hiền hiếm có
Thấy các ngài gặp khó thì thương
Hỏi cung lấy lệ thông thường
Tuy nhốt trong củi chủ trương nhân từ
Quan Tổng đốc khó ư Nam Ðịnh
Nghe tin đồn nổi thịnh nộ lên
Ỷ mình cao cả cấp trên
Ép quan Tổng trấn Hải Dương có tình
Phải lập án tử hình trảm quyết
Thôi thế là từ biệt trần gian
Tân Dậu (1861) tử đạo trao ban
Suy tôn Bính Ngọ (1906) hỷ hoan Nước Trời
Lời
bất hủ: Quan tổng đốc Hải Dương hỏi cung cha. Cha đáp:
"Tôi là linh mục, tên tôi là Bình, người Y Pha Nho, sang Annam giảng đạo
được 7 năm tại nhiều nơi".
Cha được phúc Tử đạo đúng ngày sinh nhật tròn 30 tuổi
của ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét