Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 2

MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 2


 
MƯỜI ĐỀ TÀI LUÂN LÝ KITÔ GIÁO : ĐỀ TÀI 2

Đề tài hai : Có thể có xung đột giữa luật lệ (quyền bính) và lương tâm không? Nếu có, phải giải quyết thế nào? Phân biệt các mức độ hướng dẫn và ràng buộc của lương tâm.

Khi kết thúc đề tài thứ nhất, chúng ta đã thấy ba nguồn mà người kitô hữu phải dựa vào để tổ chức đời sống luân lí của mình: giao ước với Chúa, luật lệ và lương tâm. Trong đó, giao ước với Chúa là điểm tham chiếu quan trọng hơn cả, vì người kitô hữu giữ luật hay lắng nghe lương tâm nhằm để mỗi ngày mỗi tiến sâu hơn vào giao ước với Chúa, hay người kitô hữu chỉ giữ luật và lắng nghe lương tâm trong mức độ chúng phục vụ cho quan hệ của chúng ta với Chúa. Giao ước với Chúa hay quan hệ mật thiết với Chúa – cứu cánh của luân lí Kitô Giáo – cũng chính là chìa khóa để giải quyết các xung đột có thể có giữa lề luật và lương tâm.

1. Khi nào có xung đột giữa lề luật và lương tâm?

Lẽ ra không có sự xung đột giữa lề luật và lương tâm vì cả hai đều nhắm phục vụ giao ước giữa con người với Thiên Chúa và chỉ có giá trị trong mức độ chúng phục vụ giao ước ấy. Rất tiếc là trong thực tế không phải lề luật lúc nào cũng phục vụ mục tiêu ấy, và không phải lương tâm lúc nào cũng phát biểu theo chiều hướng có lợi cho mục tiêu ấy. Vì thế, xung đột sẽ xảy ra khi cả hai hay một trong hai bên (lề luật và lương tâm) không hoàn toàn phục vụ cho mục tiêu của luân lí, tức là giao ước giữa con người với Thiên Chúa hay sự kết hợp của con người với Thiên Chúa.

Lề luật xung đột với lương tâm khi lề luật hoặc không hoàn toàn phù hợp với ý muốn của Chúa hay không phục vụ cho mối quan hệ của con người với Chúa, thậm chí còn đi ngược ý muốn của Chúa hay kéo chúng ta ra xa quan hệ của mình với Chúa. Trong trường hợp này, chẳng những chúng ta không được nghe theo lu?t, mà đôi khi còn phải ra sức đấu tranh để tránh gây hại cho mình và cho người khác.

Lương tâm xung đột với lề luật khi lương tâm vô tình hay hữu ý chống lại yêu cầu của lề luật, có lúc vì yêu cầu của lề luật không phù hợp với ý Chúa, có lúc vì lương tâm muốn quyết định theo chiều hướng có lợi cho mình hay tập thể của mình, bất kể quyết định ấy đang đi ngược yêu cầu của lề luật.

Sự xung đột giữa lề luật và lương tâm thường được khái quát hoá thành sự xung đột giữa quyền hành và lương tâm, giữa người trên và người dưới. Giới lãnh đạo luôn muốn sự trật tự và ổn định, và coi lề luật là phương cách hữu hiệu nhất đem lại những điều ấy. Đang khi đó, người dưới luôn muốn tự do và độc lập, và coi lương tâm cá nhân là phương cách tốt nhất mang lại những điều này. Nếu hai bên chỉ nghĩ đến những kết quả mình ưa chuộng mà quên nhìn đến giao ước với Chúa hay quên nhìn đến mục tiêu chung sau cùng hay ích lợi lớn nhất của cá nhân lẫn tập thể thì thật khó giải quyết các xung đột. Lịch sử đã từng chứng kiến những đấu tranh giữa hai bên, đôi khi dẫn tới những cuộc đổ máu kinh khủng. Người ta quên mất lề luật hay quyền bính, lương tâm hay cá nhân chỉ là những “tôi tớ” phục vụ cho quyền bính và tự do lớn nhất là quyền bính của Thiên Chúa và được tự do làm con Chúa.
Và phải giải quyết thế nào?

Xưa nay thường có hai cách giải quyết sai lầm, xuất phát từ hai quan điểm khá cực đoan về lương tâm và nguồn gốc của lương tâm.

- Một là quan niệm lương tâm chỉ là sản phẩm của con người, cá nhân hay xã hội. Ý thức phân biệt phải trái, khả năng phê phán tốt xấu và thúc đẩy hành động, kèm theo những tình cảm thỏa mãn hay bất mãn, chỉ là kết quả của các nền giáo dục nhận được, kết quả của các nền văn minh và văn hoá xã hội như chủ trương của Durkheim, Spencer, hay kết quả của cả một quá trình thích nghi và làm việc như chủ trương của Carl Gustav Jung, hoặc chỉ là tàn tích của những cấm đoán từ gia đình và xã hội đối với các đòi hỏi mãnh liệt của các bản năng tự nhiên nơi con người như chủ trương của Sigmund Freud. Trong trường hợp này, lương tâm không thể là cơ sở đáng tin cậy khi quyết định các giá trị, thậm chí nhiều khi phải gạt bỏ lương tâm để con người được sống tự do và độc lập. Giới lãnh đạo thường dựa vào những chủ trương này để cho phép mình độc quyền quyết định và dập tắt mọi sáng kiến cá nhân.

- Hai là quan niệm lương tâm là tiếng nói bộc phát của Thiên Chuá và là khả năng thiên phú Thiên Chúa ban cho con người, giúp con người phê phán và quyết định. Cũng chính vì lương tâm là tiếng nói và khả năng có tầm mức siêu nhiên như thế, nên người ta phải tuyệt đối nghe theo lương tâm. Các cá nhân sẽ viện dẫn lí do này để bênh vực sự tự do của mình, thậm chí đôi khi còn để chống lại quyền bính. Không lạ gì các cá nhân thường thích nói tới lương tâm hơn.

- Người ta quên rằng dù phẩm chất của lương tâm giữa người này với người kia có khác nhau do tâm tính, hoàn cảnh và môi trường, lương tâm trước tiên vẫn là một khả năng đã có sẵn nơi con người khi con người được sinh ra. Vì làm sao con người có thể hoàn thành vai trò của mình theo như Chúa yêu cầu, nếu con người không có khả năng đọc ra ý Chúa, tức là lương tâm ? Ngược lại, dù có xuất phát từ Thiên Chúa cách sâu đậm cỡ nào, nhưng đã là của con người, lương tâm không thể không chịu các ảnh hưởng của con người và xã hội. Lương tâm cũng cần được đào tạo như bao nhiêu khả năng khác. Và chính trong quá trình đào tạo ấy, lương tâm thật khó tránh khỏi bị ảnh hưởng tốt hay xấu từ bên ngoài. Quyền hành hay luật lệ không là chuẩn mực duy nhất để tự cho phép mình gạt bỏ lương tâm của các cá nhân. Lương tâm cũng không phải là chuẩn mực tối thượng cho phép ta bỏ qua luật lệ hay quyền bính.
Trên nguyên tắc, cùng do một Thiên Chúa tạo thành và ban cho con người để hỗ trợ con người sống phù hợp với ý Chúa, lề luật và lương tâm không thể xung đột với nhau. Nhưng trong thực tế, luôn luôn có khả năng ấy vì những lí do đã nói trên đây. Lúc ấy, chúng ta sẽ ra sức dung hoà lề luật và lương tâm theo hướng phục vụ cho giao ước giữa con người với Chúa. Nếu đã cố gắng hết sức mà không được, bao lâu chưa thấy lí lẽ do lương tâm đưa ra chưa đủ mạnh và chưa được nhiều ý kiến khôn ngoan hậu thuẫn, thì bấy lâu cứ tuân theo lề luật, dù chỉ một cách hình thức. Vì dù sao ý kiến của cả một tập thể chuyên môn và trách nhiệm vẫn có khả năng đúng hơn ý kiến của một cá nhân không chuyên môn và trách nhiệm bằng. Chỉ khi nào không thể làm theo lề luật hay lề luật sai lầm quá rõ, chúng ta mới được phép bất tuân lề luật và nghe theo lương tâm, nhưng luôn sẵn sàng xét lại và nếu cần, thay đổi ý kiến. Luân lí Kitô Giáo coi đây là sự vâng phục theo đức hiếu thảo, chứ không theo đức tin đối thần, nghĩa là có thể chỉ “bằng mặt chứ không bằng lòng” hay vâng phục chỉ vì trật tự chung, chứ không phải từ sự xác tín và ưng thuận hoàn toàn của bản thân mình. Vì thế, lương tâm ở đây bất tuân không phải để chống lại đức tin đối thần hay chống lại Chúa (dẫn tới tội rất nặng), mà chỉ là hành động nhưng không thấy thỏa mãn với những sự giải thích và áp dụng của giới cầm quyền.

Nên nhớ rằng sự xung đột lương tâm rất cần được giải quyết, nếu không hoàn toàn thì ít là cơ bản, không phải chỉ vì để cho cuộc sống được yên ổn mà đó còn là điều kiện để tạo sự phát triển con người và thăng tiến xã hội toàn diện. Vì chưng, lương tâm không theo chuẩn mực hay lề luật do quyền bính nào đưa ra sẽ là lương tâm độc tôn dẫn tới tình trạng cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ và phi chuẩn mực. Ngược lại, lề luật hay quyền bính mà không được các lương tâm đón nhận sẽ trở thành chuyên chế, dẫn tới tình trạng ấu trĩ, thiếu trưởng thành và mất tính nhân linh trong đời sống con người và xã hội.

3. Những tình trạng lương tâm khác nhau dẫn đến những mức ràng buộc khác nhau

Lương tâm là khả năng giúp mỗi người phê phán các giá trị trong từng trường hợp cụ thể, để dẫn con người tới hành động. Chỉ tiếc là không phải lúc nào lương tâm cũng phê phán giúp con người và thúc đẩy con người hành động cách đúng đắn và xác tín. Vì thế mới có vấn đề lương tâm có thể lên tiếng với những cung giọng khác nhau và bởi đó ràng buộc cách khác nhau.

3.1. Lương tâm chắc chắn và đúng đắn là tình trạng lí tưởng nhất của lương tâm : không những lương tâm đưa ra một phán đoán cách xác tín (ý chí) mà còn tin chắc phán đoán ấy đúng đắn hay phù hợp với lề luật hoặc phù hợp với ý muốn của Chúa (lí trí). Trong trường hợp này, con người không những phải hành động theo lương tâm mà còn sẽ mắc tội chống lại Chúa khi không tuân theo : đã tin chắc phán đoán ấy là đúng với ý của Chúa mà không tuân theo thì chẳng phải là đã chống lại Chúa hay sao ? Ở đây, có khi lương tâm rất chắc chắc với phán đoán của mình nhưng không ngờ đó lại là phán đoán sai so với lề luật hay so với ý muốn của Chúa. Lúc ấy, cần phân biệt việc sai lầm này có được mình dự đoán hay tiên liệu hay hoàn toàn nằm ngoài hiểu biết của mình, có thể khắc phục được hay hoàn toàn nằm ngoài khả năng của mình, ít là lúc này. Nếu hoàn toàn nằm ngoài hiểu biết hay hoàn toàn không thể khắc phục được thì có thể coi sai lầm này nằm ngoài ý muốn và khả năng của mình, và vì thế có thể nghe theo toàn tâm toàn ý vì không biết (không biết thực sự và không có khả năng sửa chữa ngay) thì không thể kết tội.

3.2. Ngoài tình trạng trên đây, lương tâm có thể sai lầm và có thể không chắc chắn trong phán đoán của mình. Lương tâm có thể sai lầm như phóng khoáng quá (coi là không tội cái có tội, coi chỉ là tội nhẹ cái vốn là tội nặng) hay nghiêm nhặt quá (coi là có tội cả cái không tội, coi là tội nặng cả những cái chỉ là tội nhẹ). Lương tâm có thể không chắc chắn như bối rối (chẳng bao giờ yên tâm về phê phán của mình, kể cả khi phê phán ấy được người khác cho là đúng đắn) hay hồ nghi (không yên tâm về sự kiện ấy đúng hay sai, hoặc không yên tâm có luật ấy không và luật ấy có ràng buộc không, ràng buộc nặng hay nhẹ). Trừ trường hợp đã trở thành thói quen hay trở thành tật bệnh cần được sửa chữa một cách lâu dài và chuyên môn hơn, tất cả tình trạng lương tâm này đều có thể chữa trị : nếu do hiểu sai mà phóng khoáng hay nghiêm nhặt quá thì cần học hỏi, hay nếu do bạc nhược, ích kỉ hoặc lười biếng thì cần tổ chức lại đời sống và tăng cường đạo đức. Trong tất cả các trường hợp trên đây, chúng ta không được nghe theo lương tâm một cách vô điều kiện, mà luôn luôn phải bắt đầu bằng cách đình hoãn phê phán, kế đó là tham khảo và suy nghĩ thêm. Ở đây, nếu biết vận dụng các qui luật ưu tiên, ta sẽ có thể tìm ra câu trả lời thích đáng. Còn nếu đã vận dụng mọi phương cách mà không vẫn không tìm ra câu trả lời, đang khi đó tình huống lại không cho phép ta đình hoãn, ta có thể quyết định theo các nguyên tắc phản xạ hay theo phán đoán riêng của mình.

Kết luận :

Xung đột giữa lề luật và lương tâm là xung đột muôn thuở, song song với xung đột giữa quyền hành và tự do, giữa xã hội và cá nhân. Khôn ngoan nhất vẫn là nhìn ra giá trị và giới hạn của mỗi bên để lấy bên này bổ sung bên kia, nhất là tập trung cả hai vào một tổng hợp lấy giao ước với Chúa là đích điểm và trọng tâm. Bên cạnh việc ghi nhớ mục tiêu chung của lề luật và lương tâm, cá nhân mỗi người còn cần đào tạo lương tâm bằng cách không những cập nhật hoá các hiểu biết luân lí của mình, mà còn không ngừng thanh lọc tâm hồn mình. Phía người làm luật cũng cần thực hành các điều vừa kể và luôn nâng cao hiểu biết của mình về con người và xã hội hiện tại.

Lm. Pr. Đặng Xuân Thành

(Đại Chủng viện Hà Nội)

NGUỒN : UBMVGIADINH
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét