Trang

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN (TT): VẤN ĐỀ LY DỊ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN (TT): VẤN ĐỀ LY DỊ




Năm 1982, HĐGM New Zealand ra thư luân lưu chính thức lên tiếng về Mục Vụ Dành Cho Người Công Giáo Ly Thân và Ly Dị, tựa đề là Khi Mộng Tan Đi (When Dreams Die). HĐGM Úc cũng dùng cùng một thư luân lưu này gửi các tín hữu của mình. Thư luân lưu này chỉ dẫn rằng ý niệm cho ly dị có tội là một ý niệm không chính xác, và rằng phải làm sao để những người ly thân và ly dị không cảm thấy bị loại trừ, trái lại nên khích lệ họ tham dự vào sinh hoạt bí tích của cộng đoàn Công Giáo. Giáo huấn mới mẻ này bắt nguồn từ Tông Huấn Familiaris Consortio. Đức Cha David Cremin, giám mục phụ tá tại Sydney, tuyên bố trong một thánh lễ dành cho Hội Các Cha Mẹ Đơn Lẻ (Single Parents) mà phần lớn hội viên là những người Công Giáo đã ly dị: "Nói cho cùng, ly dị không có tội" (Tập San Inform, số 39, Tháng 7 Năm 1994, Sydney).
1/ Ly dị dân sự nhưng không tái kết hôn:  Đức Gioan Phaolo II nói rõ, không bị trở ngại trong việc chịu các bí tích.
“…Sự cô đơn và nhiều khó khăn khác nữa thường là số phận dành cho người phối ngẫu bị phân ly, nhất là nếu người ấy vô tội. Trong trường hợp đó, cộng đồng Hội Thánh phải nâng đỡ người ấy hơn bao giờ, phải đem lại cho người ấy sự quí mến, liên đới cảm thông và giúp đỡ cụ thể để người ấy có thể trung thành ngay cả trong tình cảnh khó khăn của mình; phải giúp người ấy biết vun trồng sự tha thứ mà tình yêu thương Ki-tô giáo đòi hỏi và biết luôn luôn sẵn sàng nối lại cuộc sống vợ chồng trước kia.

Trường hợp một người phối ngẫu bị bó buộc phải chịu ly dị cũng tương tự như thế khi, vì ý thức rõ tính cách bất khả phân ly của dây hôn phối thành sự, người ấy không để mình bị lôi cuốn vào một sự kết hợp mới, nhưng chỉ ra sức chu toàn các bổn phận gia đình và các trách nhiệm Ki-tô hữu của mình. Lúc đó, chứng tích của họ về sự trung thành và về sự ăn khớp của mình với đời sống Ki-tô hữu có một giá trị thật đặc thù đối với thế giới và Hội Thánh hơn bao giờ hết, Hội Thánh phải đem lại cho họ một sự giúp đỡ đầy khích lệ ưu ái, và cho họ tham dự các bí tích, không một cản trở nào.’ (Familiaris Consortio FC s.83).

Với cách trình bày cùa HĐGM Úc, New Zealand, và của Gioan Phao lô II, thì dù khi cả hai người đồng ý và chủ động ly dị, mà không tái hôn, họ vẫn có thể được xưng tội và được rước lễ. Những người này cũng được kêu mời tha thứ và hàn gắn hôn nhân bao lâu có thể

2/ Ly dị dân sự rồi sau đó tái kết hôn: ĐTC Gioan Phao lô II nói rõ, là một sự xấu, và dù dưới bất cứ nguyên cớ nào, cũng không được chịu Thánh Thể vì hai lý do sau đây: bậc sống của họ mâu thuẫn với sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội vốn được biểu hiện qua Phép Thánh Thể và mặt khác cho phép họ Rước Lễ sẽ làm các tín hữu khác lầm lẫn và hiểu sai giáo huấn của Giáo Hội về đặc tính bất khả tiêu của hôn nhân (FC, s. 83-84).
Thực ra giáo huấn này không hẳn mới mẻ gì. Chính Đức Kitô đã phân biệt như thế khi Người nói: "Ai ruồng rẫy vợ mình và cưới lấy người đàn bà khác thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ thứ nhất; nếu một phụ nữ bỏ chồng để đi cưới người khác, thì cũng phạm tội ngoại tình." (Mc 10:9; x. Mt 19:9, Lc 16:18). Chỉ bỏ vợ hoặc chồng mà thôi chưa thành tội (ngoại tình). Thánh Phaolo đã hiểu như thế khi viết: "Vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân." (1 Cr 7:10-11). Thành ra khi nói rằng ly dị không có tội, các thẩm quyền Giáo Hội muốn nói đến việc ly dị dân sự: nguyên việc chấm dứt hôn ước trước toà án dân sự mà thôi chưa có tội. Nhưng nếu sau đó, người ly dị dân sự tự ý tái hôn, họ chính thức phá đổ giao ước hôn nhân, đi ngược lại ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, như Chúa Kitô đã nói trong các Phúc âm. Dù vậy, Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II cho hay, họ vẫn không bị loại trừ khỏi Giáo Hội: "Cùng với Thượng Hội Đồng, Tôi khẩn thiết kêu gọi các chủ chăn và toàn thể cộng đoàn tín hữu giúp đỡ những người ly dị, và với sự săn sóc đầy nhiệt tâm hãy làm sao bảo đảm rằng họ không tự coi họ như những người bị tách biệt ra ngoài Giáo Hội, vì là những người đã chịu phép Rửa, họ có thể, và thực ra phải, chia sẻ đời sống của Giáo Hội. Nên khích lệ họ lắng nghe Lời Chúa, tham dự Thánh Lễ, kiên tâm cầu nguyện, đóng góp vào các công việc bác ái cũng như các cố gắng của cộng đòan phục vụ công lý, nuôi dạy con cái trong đức tin Kitô Giáo, trau dồi tinh thần và thực hành thống hối và ngày đêm khẩn cầu ơn Chúa." (FC, s. 84).Nói tóm lại, dù hiểu theo nghĩa nào, ly dị tái hôn vẫn không đồng nghĩa với rút phép thông công.

Vừa mới đây, Đức Cha Demetrio Fernandez, Tây Ban Nha cho báo chí biết rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trực tiếp với các Giám Mục Tây Ban Nha rằng ngài không thể thay đổi giáo huấn của Giáo Hội để cho phép những người Công Giáo đã ly dị và tái hôn được rước lễ.

Ý kiến của một số thần học gia trong vài trường hợp hạn hữu, ly dị tái kết hôn mà vẫn có thể, đôi khi, rước lễ

Trong thực tế, mỗi mục tử phải xử lý vấn đề của một số người, vì họ đi vào quan hệ hôn nhân ổn định mới trong khi cuộc hôn nhân phép đạo trước đó vẫn còn tồn tại. Thường hôn nhân thứ hai kéo dài lâu hơn hôn nhân thứ nhất và có con cái. Đối với nhiều tín hữu, việc không được rước lễ là nỗi đau của họ.

Các tình huống khó khăn như vậy khiến một số Giám mục và thần học gia đề nghị giải pháp "tòa trong" hoặc "lương tâm tốt" cho một số trường hợp đặc biệt của các các cặp vợ chồng ly dị tái hôn.

Đó có thể là trường hợp những người thành thực tin hôn nhân trước của mình thiếu yếu tố thành nhận, nhưng không có hy vọng được tuyên bố vô hiệu, không phải vì trường hợp của họ không đủ mạnh, nhưng chỉ vì các nhân chứng không liên lạc được hoặc liên lạc được nhưng từ chối không chịu để toà hôn phối phỏng vấn, cũng có thể vì nhân chứng chủ yếu nay đã mệnh một. Trường hợp tương tự là khi người Công Giáo kết hôn với người đã ly dị không Công Giáo và họ có đủ lý do để tin rằng hôn nhân trước của người phối ngẫu mình có thể đã không thành, nhưng người phối ngẫu này không chịu nạp đơn lên tòa hôn phối vì sự phức tạp phải yêu cầu thân nhân, bạn hữu và cả người phối ngẫu đầu tiên ra làm chứng trước tòa. Trong những trường hợp như vậy, người Công Giáo có thể căn cứ vào tòa trong (internal forum) để quyết định theo lương tâm và tiếp tục rước lễ. Theo vài thần học gia, đây là một nguyên tắc luân lý hoàn toàn đúng đắn và chính thống. Vì ngày 4 tháng 11 năm 1973, Đức Hồng Y Seper, lúc ấy là Tổng Trưởng Bộ Tín Lý của Tòa Thánh, ra một thư luân lưu khuyên các chủ chăn linh hồn phải quan tâm săn sóc những người đang sống trong những cuộc hôn nhân bất thường, bằng cách khi phải giải quyết những trường hợp như thế, thì, ngoài các phương thế đúng đắn khác, nên áp dụng tập tục toà trong vốn đã được giáo hội nhìn nhận. (Canon Law Digest, 9:503f). Nói theo ngôn ngữ bình dân, điều ấy có nghĩa: đối với những cuộc hôn nhân không được giáo hội nhìn nhận, thì ngoài những phương thế đúng đắn khác (như nhắc họ nạp đơn xin tuyên bố vô hiệu hôn nhân trước), các linh mục nên áp dụng tập tục từng được giáo hội nhìn nhận cho phép người ta quyết định theo lương tâm. Điều ấy sẽ cho phép họ được rước lễ.
Một điểm cần nhấn mạnh nữa là chính người tái hôn phải quyết định theo lương tâm, chứ không phải ai khác, và quyết định ấy không bao giờ là chính thức cả, nó áp dụng cho lương tâm họ mà thôi. Quyết định theo lương tâm không thuần chỉ vì ý muốn được rước lễ, đúng hơn phải dựa vào niềm xác tín rằng hôn nhân thứ nhất của mình không phải là một hôn nhân thành nhận, dù thẩm quyền Giáo Hội không nhìn nhận như vậy.

Tuy nhiên, hai năm sau thư luân lưu của Đức Hồng Y Seper, người kế vị ngài là Đức Tổng Giám Mục Hamer đã đưa ra một số nguyên tắc hướng dẫn những quyết định lương tâm trên. Thứ nhất, cần phải sống một cuộc sống Kitô hữu xứng đáng. Thứ hai, phải tránh gương mù bằng cách chỉ nên rước lễ ở những nơi không ai biết trường hợp của họ (Canon Law Digest9:504f).
 

Tác giả: Nữ tu Elizabeth Trần Như ý Lan, CND
Nguồn: giaolyductin.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét