Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

CHÚA NHẬT XVII MÙA THƯỜNG NIÊN năm A

CHÚA NHẬT XVII MÙA THƯỜNG NIÊN năm A
(phần II)

GIÁO LÝ PÂ CN 17 TN.A

CHÚA NHẬT XVII QUANH NĂM A
Sách các Vua quyển I 3,4-13; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma 8, 28-30
và Phúc Âm Thánh Matthêô 13, 44-52

I. Giáo Huấn P.Â.:  
Nước Trời được so sánh như:
Kho báu giấu trong ruộng. Nó quí giá đến nỗi người tìm thấy phải bán cả sản nghiệp để mua ruộng có kho báu.
Viên ngọc quí, người tìm thấy phải bán mọi thứ để chiếm hữu.
Chiếc lưới cá thả xuống biển bắt được nhiều thứ cá. Người thả lưới bắt cá, chọn cá tốt mang về nhà còn cá xấu thì vứt bỏ đi.
Người khôn ngoan là người biết bỏ đi những gì tạm bợ và mau qua ở trần gian để tìm kiếm và chọn lấy nước trời giống như Salomon, biết chọn lựa và chỉ xin cho được khôn ngoan, biết phân xử phải trái và hơn thua.

II. Vấn nạn P.Â.   
Ý nghĩa ba dụ ngôn so sánh nước trời:
Kho báu giấu trong ruộng, người tìm thấy phải bán hết gia sản để mua ruộngt có kho báu.
Viên ngọc quí, người tìm thấy phải bán mọi thứ khác để chiếm hữu viên ngọc quí giá.
Lưới đầy cá và sẵn sàng bỏ những cá xấu đi và chọn cá tốt.

            Có những giải thích cho rằng: Kho báu giấu trong ruộng chính là Kinh Thánh, là Mình Máu Thánh Chúa, là các Bí Tích Chúa lập và là chính anh chị em cùng tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế. Cũng có những suy diễn rằng: Thật là bất công khi đi lùng tìm kho báu trong đất đai ruộng lúa của người khác để tìm cách chiếm hữu. Cũng có những vấn nạn sao Phúc Âm lại có những thí dụ xem nghịch lý?

            Nhiều khi chúng ta suy luận quá xa và sai lạc khi tìm cách giải thích kho báu là thứ gì? Phúc Âm nói ngay từ đầu rằng “Đức Giêsu kể cho dân chúng dụ ngôn này: Nước Trời giống như…” Như vậy chuyện Chúa muốn nói không là kho báu có thứ gì mà Nước trời là kho báu quí giá, chúng ta phải tìm kiếm nước trời và hy sinh mọi thứ để có nước trời. Không thể vấn nạn về chuyện bất công của dụ ngôn kho báu trong ruộng. Chúa không có ý nói là tìm cách chiếm hữu ruộng nương của người khác, nhưng chiếm hữu nước trời và thoả đáp những gì nước trời đòi hỏi. Không ai bán cho mình kho báu thôi, nhưng người tìm thấy phải mua mọi thứ để trong đó có kho báu. Không là chuyện lừa đảo hay gạt gẫm. Nhưng là chuyện dụ ngôn: Làm mọi cách để có kho báu.

            Tại sao người tìm thấy kho báu trong ruộng lại ích kỷ chôn giấu đi rồi âm thầm mua để hưởng lợi cho riêng mình? Nước trời cho cả nhân loại kia mà? Đúng lý anh ta phải la lên để mọi người cùng chia sẻ kho báu là nước trời. Câu hỏi cho thấy là chúng ta đi hơi xa hơn là dụ ngôn so sánh “Nước trời như kho báu giấu trong ruộng” Nước trời quí giá hơn mọi thứ quí giá. Lỗi diễn tả “người kia gặp được thì liền chôn giấu lại” không là lời khuyên “khư khư cầm giữ nước trời đừng chia sẻ cho ai!” Ở đây không nhằm dạy phải giữ bí mật khi tìm nước trời, nhưng là điều kiện để chíếm hữu: Thấy đó, nhưng chưa có thể chiếm hữu ngay, phải hy sinh bán mọi thứ thì mới có được nước trời.

            Trong thực tế, có mấy ai cho rằng: Nước trời quí giá như kho tàng chôn trong ruộng? Bằng chứng: Có nhiều người sẵn sàng kết hôn và sống rối rắm trong tội chỉ vì sắc dục. Nước trời hay phần rỗi không là gì với chuyện dâm dục họ đang làm. Cũng có người biết phần rỗi là cao quí, nhưng cũng tiếc sót lắm khi phải hy sinh 10 đồng hay hai mươi đồng cho người nghèo và cần thiết.  Nước trời chưa thấy, nhưng thấy mất hai mười đồng trước mắt. Khó mà “về nhà bán mọi thứ để mua thữa ruộng có kho báu chôn giấu!”

            Tương tự như vậy, xin đừng đi vào chi tiết tìm xem Chúa muốn ám chỉ thứ gì là viên ngọc quí. Chúa không có ám chỉ gì cả, mà nói rõ: Nước trời giống như viên ngọc quí, quí giá hơn mọi thứ và người ta phải đành bỏ mọi thứ khác để có nước trời.  Tiện đây cũng xin chia sẻ: Thời Chúa Giêsu, các tông đồ theo Chúa, dân chúng theo nghe Chúa giảng phần nhiều là thành phần thất học, không biết chữ. Đầu óc họ rất cụ thể, không có thứ lý luật triết lý tam đoạn luận hay biện chứng pháp như chúng ta ngày nay. Nên Chúa dùng dụ ngôn, tức làm cho người nghe dễ hiểu. Chắc chắn Chúa không cố ý để người suy luận hay lý sự đâu. Nên đừng tạo nên những suy luận quá xa với dân trí thời Chúa Giêsu.

            Có lần linh mục giảng lễ đám cưới đã giải thích rằng: chiếc nhẫn là nhẫn nhịn, là nhẫn nhục là chịu đựng lẫn nhau… như ý Chúa muốn khi lập nên bí tích hôn phối. Như vậy hoá ra Chúa lập bí tích hôn phối và cả nghi thức trao nhẫn trong nghi lễ hôn phối sao? Thật là nhẫn cưới chỉ là bằng chứng tình yêu và sự trung thành như nghi thức Giáo Hội thiết lập. Không cần trao nhẫn cũng thành hôn nhân kia mà.

            Cũng có linh mục quan trọng hoá hay bịa đặt ra chuyện nghi lễ như lễ phát tang làm cho giáo dân hiểu có thánh lễ để làm phép những khăn tang và lúc đó mới được đeo khăn tang. Không hề có nghi lễ phát tang trong phụng vụ công giáo cũng như trong truyền thống Việt Nam. Khăn tang hay áo tang là dấu để tỏ lòng thương tiếc người thân qua đời. Không ai dám quả quyết rằng: đeo khăn tang là chí hiếu hay chí tình còn không đeo là bất hiếu là vô ân. Có nhiều khi ngược lại. Cha Mẹ đã chết cả tuần rồi mà phải đợi cha làm thánh lễ phát tang thì mới được đeo tang hay mặc đồ tang.

            Nên sau cùng khăn tang chỉ là dấu bên ngoài. Nó không cần một nghi lễ hay một qui định để thành sự trong nghĩa cử khóc thương người quá cố nầy. Xin hãy công tâm nhìn nhận: nhiều khi chúng ta lợi dụng hay gán ghép những chuyện không là lễ để biến thành “lễ” vì lý do vật chất phàm tục nào đó chăng? Xem chừng nhiều người đã lợi dụng chuyện nầy để có lợi chăng? Đây là tội mại thánh. Nước trời quí như kho báu. Nước trời quí như viên ngọc quí. Phải tìm mọi cách. Phải hy sinh mọi thứ để có nước trời. Đó là ý Chúa nói khi đưa ra dụ ngôn. Không cần suy luận xa thêm. Càng xa càng sai.

Nước trời giống như chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá… Đền ngày tận thế cũng vậy, các thiên thần xuất hiện, tách biệt kẻ xấu ra khỏi người tội lỗi…

Dụ ngôn so sánh Nước trời như lưới cá cho thấy:
Nước trời là nước thiên đàng mai sau
Có người như hạng cá tốt được vào thiên đàng.
Có người như hạng cá xấu bị cho vào lửa hoả ngục.

Hiện tại, nhiều người, bị ảnh hưởng vài giáo phái Tin lành đã chủ trương là không có hoả ngục. Chúa là Cha chúng ta, không lẽ Chúa đành phạt chúng ta trong hoả ngục? Chúa đã từng nói rằng: Không lẽ con các người sinh bánh mà các người lại cho đá. Con các người xin bánh mà lại cho bò cạp? Kỳ thực hoả ngục không là điều chúng ta xin mà cũng không là điều Chúa cho. Nhưng là đích mà chúng ta chọn dù hữu ý hay vô tình. Chúng ta có thể so sánh hoa ngục như bản dừng ở ngã tư đường. Ai cũng thấy và ai cũng biết là phải dừng hoàn toàn. Nhưng nếu chúng ta không chấp hành, có nghĩa là chúng ta chọn bị phạt và bị tai nạn. Nên khi chúng ta chết vì tai nạn hay bị phạt vì không dừng xe khi thấy bản dừng là vì chúng ta thôi.

Thí dụ khác: Có rất nhiều trường học và có rất nhiều người thông thái, học cao hiểu rộng. Nhưng cũng có người không biết đọc biết viết. Tại sao? Chúa phạt cho họ dốt chăng? Không! Vì họ không đi học thì làm sao biết đọc và biết viết. Chjúng ta chọn làm người mù chữ.

Việc có hoả ngục là chuyện tự nhiên và công bằng của Thiên Chúa. Chúng ta không chọn thiên đàng, không chọn bán mọi thứ để có nước trời, có nghĩa là chúng ta chọn hoả ngục. Cũng vậy không đi học thì có nghĩa là chọn dốt nát. Gặp bản dừng mà không dừng là chọn tai nạn chết chóc hay giấy phạt.

III. Thực Hành P.Â.   
            Nếu nước trời được hiểu đây là phần rỗi đời đời, là nước thiên đàng quí giá như kho báu giấu trong ruộng, như viên ngọc quí vô giá….thì tại sao có những người tự tử, có những người không muốn kéo dài cuộc sống đau khổ để sớm về thiên đàng bằng xử dụng hình thức an tử thì tại sao không được phép mà còn bị vạ tuyệt thông?

            Xin hạn chế vấn đề tìm hiểu ở đây trong phạm vi tự sát, giết chết chính mình hay an tử, tức muốn chấm dứt tình trạng đau khổ thể lý mà không còn hy vọng bình phục hay được cứu sống.  Sẽ không đi quá sâu vào giới răn thứ năm “Chớ giết người” và trong vấn để giết chết thai nhi được qui định trong Giáo Luật điều 1398 với vạ tuyệt thông tiền kết dành cho tội nhân.

            Điều răn thứ năm dịch sang tiếng việt “chớ giết người!” làm cho người ta hiểu “người!” là tha nhân là người khác hơn mình. Kỳ thực điều răn thứ năm cấm xúc phạm đến mạng sống, kể cả mạng sống của chúng ta. Tôi nói “xúc phạm” để bao gồm cả việc kết thúc sự sống như giết chết và cả việc làm hại sức khoẻ và thể lý của mình và người khác.

            Thí dụ: làm cho một phần cơ thể hư hoại để ăn xin, tạo thương cảm nơi người khác.

            Người tự tử tức giết chết mình lỗi điều răn thứ năm. Sự sống là do Chúa ban, vì Chúa thổi hơi vào mủi làm cho hình người bằng đất sét của Ađam thành sinh linh, tức có sự sống. Sự sống không thuộc con người hay không do con người tạo ra nhưng là quà tặng cao quí Chúa ban. Không ai muốn chết cả, nhưng cái chết cũng đến với từng người. Nếu không thuộc về chúng ta thì chúng ta không được tuỳ nghi xử dụng theo sở thích. Nên không nuôi sống chính mình là có tội trọng vì xúc phạm đến Chúa, Đấng ban cho con người sự sống.

            Ngày xưa và bây giờ vẫn còn duy trì nhiều nơi bên Việt Nam là không cử hành thánh lễ an táng cho người tự sát và không cho chốn đất thánh. Ngày nay, Giáo Hội dạy: xin hãy trao họ cho lòng thương xót Chúa, bổn phận của chúng ta là an ủi người sống và cho họ được nhìn thấy một thánh lễ an táng thân nhân họ như bao người khác là con cái Chúa.

            Vấn đề an tử xem chừng là chuyện chưa thoả đáp được vấn nạn:
            Kéo dài cuộc sống làm gì khi đã quá đau khổ và không còn hy vọng cứu sống?
            An tử có thể là trực tiếp như được tiêm thuốc để kết thúc cuộc sống sớm.
            An từ có thể gián tiếp như rút ống tiếp khí thở, đồ ăn hay thức uống…
            An từ có thể do chủ động, tự nguyện của đương sự. Chính đương sự muốn và yêu cầu thực hiện.
            An tử cũng có thể thụ động, đương sự bị cưỡng ép.

            Giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo trên vấn đế an tử:
            Chống lại mọi hình thức an tử dù chủ, thụ động, dủ gián tiếp hay trực tiếp, vì:
            Chính Chúa sinh dựng nên từng người. Sự sống là chính Chúa, là quà tặng của Chúa, không thuộc chúng ta, chúng ta không được quyền xử dụng những gì không thuộc vế mình.
            Sách Tiên Tri Giêrêmia 1:5 “Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết người!”
            Thánh Vịnh 139,13 “Chúa tạo dựng nên tôi trong lòng thân mẫu tôi!”
            Chúa Giêsu  cũng dạy trong Phúc Âm Matthêô 10, 29 “ Chúa chăm sóc chim sẻ, huống chi con người quí giá hơn chim sẻ mà Chúa bỏ mặc sao?”
            Thánh Phaolô trong thư gửi Rôma 14,18 dạy rằng “dù sống chết, chúng ta đều thuộc vế Chúa”

            Đức Giáo Hoàng Piô XII trong thông điệp Mystici Corporis năm 1943 đã viết “      Những ai thấm nhuần giáo lý Công Giáo đều phải biết: An tử không những xâm phạm luật tự nhiên và luật Chúa ghi khắc trong lòng mọi người, mà còn là một tai họa cho việc phát triển nhân loại!

            Công đồng Vatican II qua Hiến chế Giáo hội trong Thế giới Ngày nay dạy “Tất cả những gì đi ngược với chính sự sống, như giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm dịu, hoặc tự tử trực tiếp...Tất cả những điều nói trên và những điều tương tự, đều thực sự xấu, làm băng hoại nền văn minh nhân loại và xúc phạm nặng nề đến Đấng Tạo hóa..." (Hiến Chế Mục Vũ số 27)

            Ngày 8 tháng Chín 1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã lưu ý các nhân viên thuộc Hiệp hội Đánh Thuốc Mê (Anesthetist) Âu châu dự họp tại Rôma như sau: "Một số người đương thời chúng ta đang cổ võ chấm dứt mạng sống con người bằng an tử như là giải pháp thông cảm sự đau khổ nhân loại, nhưng an tử là một hành động sát nhân. Không được thự hiện dù khi bệnh nhân yêu cầu. Đôi khi lời kêu van của bệnh nhân xin được chết, phải được hiểu rằng, họ không có ý xin Chết êm cho bằng xin được GIÚP ĐỠ và YÊU THƯƠNG họ trong nỗi thống khổ! Không bác sĩ, không y tá, không chuyên viên thuốc, không bất cứ ai là trọng tài cuối cùng của sự sống con người, kể cả sự sống của mình và sự sống người khác. Thiên Chúa là Đấng Chăn Chiên nhân lành, trong chương trình của Ngài, khi bắt buộc phải gửi đau khổ để thanh luyện con cái, Ngài cho phép được chữa trị, Ngài cũng ban ơn để con cái chiu đựng, lập công, đền tội. Sống chết lúc nào là tùy quyền Ngài.

            Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thông điệp Tin mừng về Sự Sống ra ngày 25.3.1995 tuyên bố: " Sự sống con người, là quà tặng Chúa ban, là thiêng liêng và không thể xâm phạm. Vì vậy, không thể chấp nhận phá thai và làm cho an tử. Không những không được cất mạng sống, mà còn phải quan tâm cách yêu thương để bảo vệ nó. Xã hội phải tôn trọng, bảo vệ, và đề cao nhân phẩm của mọi người, mọi lúc, và mọi điều kiện của đời sống con người".

            Giáo Lý Công Giáo dạy về an tử:

            Số 2276: "Những người có sự sống bị suy giảm hoặc bị yếu đi, đòi hỏi một sự tôn trọng đặc biệt. Những bệnh nhân và những người bị khuyết tật cần phải được nâng đỡ để có thể sống một cuộc đời bình thường theo mức có thể".

            Số 2277 : "Dù với lý do nào và với phương tiện nào mặc lòng, sự trực tiếp làm cho chết êm ái cũng chỉ là chấm dứt cuộc đời của những người bị khuyết tật, đau yếu hoặc đang chết dần chết mòn. Về luân lý, cách làm này không thể chấp nhận được".

            "Bởi vậy, một hành động hoặc sự bỏ qua một hành động, tự nó hoặc do chủ ý của ta, mang lại cái chết cho một người hầu chấm dứt đau khổ, sẽ là một tội sát nhân, nghịch lại cách trầm trọng với phẩm giá con người và với sự tôn kính mà ta phải có đối với Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo thành con người. Sự người ta có thể phán đoán sai lầm vì lòng ngay, sẽ không thay đổi tính chất của hành vi sát nhân này, một hành vi cần phải luôn bài trừ và cấm chỉ".

            Số  2278 : "Còn như ngưng những phương thuốc y khoa quá tốn kém, nguy hiểm, dị thường hoặc không xứng với những kết quả mong muốn, thì là một việc làm hợp pháp. Đây là sự từ chối "những sự trị liệu kịch liệt": như vậy, đây không phải là muốn làm cho chết, nhưng chỉ là chấp nhận rằng không thể cản ngăn cái chết. Những quyết định phải do chính bệnh nhân làm lấy, nếu người đó có thẩm quyền và có khả năng, nếu không sẽ phải do những người hưởng quyền trước pháp luật, nhưng bao giờ cũng phải tôn trọng ý muốn hợp lý và những lợi ích hợp pháp của bệnh nhân".

            Số 2279:"Dù cái chết được coi là đã gần kề, những sự săn sóc thường dành cho một bệnh nhân, sẽ không được ngưng cách chính đáng. Việc sử dụng các thuốc tê để giảm đau cho bệnh nhân đã hấp hối, dù có nguy cơ giảm ngày sống của người đó, thì có thể được coi là phù hợp với phẩm giá con người về phương diện luân lý, nếu người ta không muốn cái chết, dù như là mục đích, dù như là phương tiện, nhưng cái chết chỉ được tiên liệu và được chấp nhận như là không thể tránh được. Những thứ giảm đau là một hình thức rất tốt của đức bác ái vô vị lợi: theo danh nghĩa này, chúng phải được khuyến khích".

 Lm Phêrô Trần Thế Tuyên 

Kho báu Nước Trời
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Aman là một làng chài lưới. Không có dấu hiệu vật chất bên ngoài chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không ngăn cản họ sống hạnh phúc thật sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá này đều sống trong an vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sô-Pốt và Sô-Pa lưới lên một thùng rất nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ tò mò mở nhanh thùng ra và rất đổi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quý. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn bàn nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết A-ki-an sống gần bên.
Sô-pốt hỏi:
- “Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này?”. Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hạt và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế nhà hiền triết liền trả lời cách khô khan:
- Hãy đem đổ lại xuống biển!
Anh chị em thân mến,
“Thưa ngài chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc quý này?”. Câu hỏi của hai anh em Sô-pốt và Sô-pa làm cho chúng ta nghĩ ngay đến câu hỏi của chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Giống như câu trả lời của nhà hiền triết trong câu chuyện, Chúa Giêsu không đề nghị với chàng thanh niên hãy lo tích chứa của cải thêm để được hạnh phúc, nhưng Ngài bảo phải về bán đi tất cả những gì anh có rồi đến theo Ngài. Ngài là tất cả. Có Ngài là có được tất cả. Ngài là hạnh phúc.
Chàng thanh niên giàu có không dám bán những gì anh sở hữu mà cho người nghèo, rồi theo Đức Giêsu. Anh chưa hiểu được rằng tình bạn với Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, chính Ngài là sự sống đời đời mà anh đang mong mỏi kiếm tìm (Mt 19,16-22). Bởi vậy, anh không dám bỏ sự an toàn hiện tại của mình để đi theo một Đấng không có chỗ ngả đầu (Mt 8,20). Anh sợ mình “thả mồi bắt bóng”.
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy người nông dân nghèo tình cờ tìm được kho báu trong ruộng cũng như người buôn ngọc bất ngờ tìm được một viên ngọc quý, cả hai lật đật hối hả trở về nhà, trong đầu chỉ mang một ý nghĩ duy nhất là phải mua ngay, nếu không sẽ lỡ cơ hội ngàn vàng. Và để mua ngay thì phải bán ngay lập tức những gì mình đang có. Như thế, kho báu thật có giá trị hơn gấp bội nhà cửa, tài sản của anh nông dân; viên ngọc quý làm át đi vẻ ngời sáng của những viên ngọc người thương gia hiện có. Kho báu và viên ngọc có một sức hấp dẫn kỳ diệu. Từ ngày gặp được, cả hai thấy mình phải hciêm1 lấy, dù phải đánh đổi bắng tất cả tài sản của mình.
Cả hai người bán tất cả những gì mình có, người buôn ngọc chắc chắn phải bán nhiều hơn anh nông dân nghèo, nhưng cả hai đều phải bán tất cả. Bán “cái tất cả cũ”để mua được kho báu và ngọc quý là “cái tất cả mới”. Chỉ cần được “cái tất cả mới”này là cả hai người được mãn nguyện, cuộc đời không còn như xưa nữa. Chính vì thế, việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc và dằn vặt, nhưng trong niềm vui chan chứa. Tuy nhiên, người ngoài có thể không hiểu nổi thái độ của hai người. Một thửa đất, một viên ngọc: có cần mất tất cả để mua được không? Cuối cùng, chỉ ai thấy mới hiểu được.
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu chuyện sau đây mà Ngài lấy làm tâm đắc: Có người đến gặp vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi: “Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người bỏ về, và có ít người bền đỗ?”. Khi ấy, vị ẩn tu trả lời: “Chuyện này giống như một con chó đuổi theo một con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao lâu, những con sau này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên, lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ, còn những con chó kia không thấy! Vị ẩn tu muốn nói rằng, chỉ có người nào thấy được Đấng mình theo đuổi, người ấy mới dám theo Đấng ấy tới cùng, dù phải chịu nhiều hy sinh từ bỏ”. Vậy vấn đề chủ yếu ở đây là: chúng ta có thấy Nước Trời, là kho báu hay có thấy Đức Kitô là viên ngọc quý không? Nếu chúng ta thực sự thấy và xác tín như vậy, thì việc từ bỏ mọi sự chúng ta có, sẽ dễ dàng hơn.
Nhưng, thưa anh chị em, làm sao chúng ta có thể thấy Nước Trời là kho báu khi chúng ta vẫn bị giam hãm trong cái thế giới khả giác này, khi thế gian hằng dạy cho chúng ta biết kho báu duy nhất là tiền của, quyền lực và khoái lạc? Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi lối đánh giá của người đời và cảm nếm được tính ưu việt của Nước Trời?
Có một người đã sẵn sàng bán tất cả của cải, vật chất cũng như tinh thần, để được Đức Kitô: Thánh Phaolô. Ngài đã nói: “Tôi coi tất cả thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đánh mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3,8-9). Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự vì đã cảm nghiệm được kho báu lớn lao và quý giá mà ngài lãnh nhận.
Thì ra Nước Trời mới thật là kho báu, là viên ngọc mà con người đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm cho bằng được. Đây mới là sự khôn ngoan đích thực đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (x. 1V 3,4-14) “Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích gì?”. Vấn đề đã rõ ràng. Công việc quyết định lựa chọn dứt khoát chỉ còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Hãy chọn cho đúng thứ thiệt. Hãy chọn cho kịp thời, kẻo trễ mà “mất cả chì lẫn chài”khi mẻ lưới đã được kéo lên bờ và số phận của những con cá đã được quyết định, không thể thay đổi được nữa, như trong dụ ngôn kết thúc Tin Mừng hôm nay.

Lectio Divina: Chúa Nhật XVII Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 27 Tháng 7, 2014
Ba dụ ngôn về Vương Quốc Thiên Chúa
Khám phá ra các dấu hiệu của Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày 
Mt 13:44-52


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh cùng với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.

Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc 

a)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 13:44:  Dụ ngôn về kho tàng chôn giấu
Mt 13:45-46:  Dụ ngôn về người lái buôn đi tìm viên ngọc quý
Mt 13:47-50:  Dụ ngôn về lưới thả dưới biển
Mt 13:51-52:  Dụ ngôn để kết thúc bài giảng bằng các dụ ngôn
b)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong ngày Chúa Nhật XVII Thường Niên tuần này chúng ta suy niệm về ba dụ ngôn tạo nên phần cuối cùng của Bài Giảng bằng các Dụ Ngôn:  kho tàng chôn giấu, người buôn ngọc quý và lưới thả dưới biển.  Các dụ ngôn của Chúa Giêsu giúp chúng ta điều chỉnh lại cách nhìn của chúng ta để thấy rõ hơn sự hiện diện của Thiên Chúa trong những điều bình thường nhất của cuộc sống.  Khi đọc, tốt nhất là chúng ta hãy giữ trong tâm trí những điều sau:  “Kho tàng chôn giấu, người buôn ngọc quý hay lưới thả dưới biển cho tôi những gì? Kinh nghiệm của tôi sẽ giúp tôi như thế nào để hiểu các dụ ngôn về kho tàng, về ngọc trai, về lưới cá?”

c)  Phúc Âm:  
44 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng:  “Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. 45 Nước Trời cũng giống như người buôn nọ, đi tìm ngọc quý.  46 Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.  47 Nước Trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá.  48Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn:  cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài.  49Trong ngày tận thế cũng như vậy:  các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, 50 rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa:  ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
51 Các ngươi có hiểu những điều đó không?”  Họ thưa:  “Có.”  52 Người liền bảo họ:  “Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Phần nào trong đoạn Tin Mừng đánh động tôi nhất?  Tại sao? 
b)  Theo kinh nghiệm sống của tôi, tôi hiểu gì về kho tàng chôn giấu, về người buôn ngọc quý, hay cái lưới thả ở dưới biển?           
c)  Kinh nghiệm này của tôi đã giúp tôi hiểu được các dụ ngôn về kho tàng, viên ngọc và cái lưới như thế nào?
d)  Điều khác biệt giữa dụ ngôn kho tàng và dụ ngôn viên ngọc là gì?
e)  Bài Tin Mừng nói gì về sứ vụ sẽ được thực hiện bởi các môn đệ của Chúa Kitô?

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề

a)  Bối cảnh của các dụ ngôn được kể bởi Chúa Giêsu:

Các sách Phúc Âm có nhiều dụ ngôn của Chúa Giêsu.  Thánh sử Mátthêu thậm chí còn nói:  “Tất cả những điều Chúa Giêsu nói với đám đông, Người dùng các dụ ngôn; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34).  Đây là phương thức phổ thông về giảng dạy được dùng vào thời ấy.  Theo cách này, Chúa Giêsu làm cho dân chúng hiểu được Người.  Trong các dụ ngôn, Người bắt đầu từ những điều rất bình thường của đời sống và Người xử dụng chúng ở thể tỷ để giúp người ta hiểu cặn kẽ hơn về những điều ít được biết đến về Nước Thiên Chúa.  Trong Tin Mừng Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu bắt đầu với ba điều ai cũng biết trong đời sống:  kho tàng được chôn giấu trong ruộng, người lái buôn đi tìm những viên ngọc và lưới cá mà các ngư phủ thả xuống biển.

b)  Lời bình giải về đoạn Tin Mừng: 

Mt 13:44:  Dụ ngôn về kho tàng chôn giấu
Ở đây chữ được xử dụng để so sánh hầu làm sáng tỏ những điều về Vương Quốc Thiên Chúa là kho tàng chôn giấu trong ruộng.  Không ai biết rằng có một kho tàng trong ruộng ấy.  Tình cờ, một người tìm được. Anh ta không biết rằng mình sẽ tìm thấy nó.  Anh tìm thấy, hớn hở và hân hoan đón nhận sự bất ngờ.  Kho tàng được tìm thấy chưa thuộc về quyền sở hữu của anh ta, nó sẽ là của anh nếu anh thành công trong việc tậu mãi được nó.  Lề luật vào thời ấy là như thế.  Vì vậy, anh ta trở về bán tất cả những gì anh có để mua thửa ruộng ấy.  Bằng vào việc mua thửa ruộng, anh ta cũng thu được kho tàng.
Chúa Giêsu không giải thích dụ ngôn.  Điều tương tự cũng áp dụng ở đây như đã nói trong những lần trước: “Ai có tai thì hãy nghe” (Mt 13:9, 43).  Hoặc:  “Vương Quốc Thiên Chúa là thế đấy.  Các ngươi đã nghe nói. Bây giờ hãy cố gắng mà hiểu!”  Nếu Chúa Giêsu không giải thích dụ ngôn, thì tôi cũng thế.  Đây là công việc của mỗi người chúng ta.  Nhưng tôi muốn đưa ra một lời đề nghị bắt đầu từ những gì tôi đã hiểu.  Thửa ruộng là đời sống của chúng ta.  Trong đời sống chúng ta có kho tàng ẩn chứa, không phải là kho tàng quý, nhưng mà qúy báu hơn tất cả những thứ khác.  Bất cứ ai gặp phải kho tàng ấy có sẽ đánh đổi mọi thứ người đó có để mua kho tàng này không?  Bạn đã tìm thấy nó chưa?

    
Mt 13:45-46:  Dụ ngôn về người buôn ngọc quý
Trong dụ ngôn đầu tiên, chữ được dùng để so sánh là “kho tàng chôn giấu trong ruộng”.  Trong dụ ngôn này, sự phân biệt lại khác.  Chữ được dùng so sánh không phải là viên ngọc quý, nhưng là hoạt động, nỗ lực của người lái buôn đi tìm những viên ngọc quý.  Tất cả chúng ta đều biết rằng các viên ngọc ấy hiện hữu.  Điều quan trọng không phải là biết rằng chúng hiện hữu, mà là đi tìm chúng không ngừng nghỉ cho đến khi ta tìm ra chúng.
Cả hai dụ ngôn có một số điểm tương đồng và một số điểm tương phản.  Trong cả hai trường hợp đều nói về một cái gì quý giá:  kho tàng và viên ngọc.  Cả hai đều nói về sự tìm kiếm điều mình ước ao, và trong cả hai trường hợp người ấy đi và đánh đổi tất cả những gì anh ta có để mua lấy cho được vật quý giá đã tìm thấy. Trong dụ ngôn đầu tiên, sự tìm được là do tình cờ.  Trong dụ ngôn thứ hai, sự tìm được là kết quả của nỗ lực kiếm tìm.  Ở đây chúng ta thấy hai khía cạnh căn bản của Vương Quốc Thiên Chúa.  Vương Quốc ấy hiện hữu, nó ẩn dấu trong đời sống, chờ đợi những ai tìm thấy nó.  Vương Quốc là kết quả của sự tìm kiếm (thu được).  Đây là hai khía cạnh căn bản của đời sống con người:  lòng biết ơn về tình yêu đã chào đón chúng ta và đến gặp chúng ta, và sự tuân giữ trung thành đưa chúng ta đến gặp điều kia.      

Mt 13:47-50:  Dụ ngôn về lưới thả dưới biển
Ở đây Nước Trời được ví như một lưới cá, không phải là bất cứ một loại lưới nào, mà là loại lưới thả chìm xuống dưới biển và bắt được mọi thứ cá.  Đó là một cái gì tiêu biểu trong đời sống của những người đang lắng nghe, đa số họ là những ngư phủ sống bằng nghề chài lưới.  Đây là một kinh nghiệm mà họ đã quá quen thuộc, thả lưới để bắt tất cả mọi thứ cá, một số là cá tốt và một số thì kém hơn.  Ngư dân không thể ngăn chặn các con cá kém hơn khỏi lọt vào lưới, bởi vì anh ta không thể kiểm soát được những gì xảy ra trong vùng nước biển sâu nơi thả lưới.  Anh ta sẽ chỉ biết khi lưới được kéo lên và ngồi cùng với những đồng nghiệp mà lựa ra.  Khi ấy họ sẽ phân loại những cá tốt với cá xấu.  Một lần nữa, Chúa Giêsu không giải thích ngụ ngôn.  Người chỉ đưa ra một gợi ý:  “Trong ngày tận thế cũng như vậy.”  Khi ấy kẻ dữ sẽ bị tách biệt ra khỏi người lành.  

Mt 13:51-52:  Lời kết luận của bài giảng các dụ ngôn
Trong sách Tin Mừng của thánh Mátthêu, bài giảng các dụ ngôn kết thúc bằng một cuộc đối thoại ngắn giữa Chúa Giêsu và các người nghe và các cử chỉ như một chìa khóa dẫn đến bài đọc tất cả các dụ ngôn.  Đức Giêsu hỏi:  “Các ngươi có hiểu những điều đó không?”  Họ thưa:  “Có!”  Sau đó Chúa Giêsu kết luận với những lời rất đẹp này:  “Bởi thế mỗi người kinh sư trở thành môn đệ của Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho của mình cả cái mới lẫn cái cũ”.  Lời kết là một dụ ngôn khác.  “Những vật mới cũng như cũ mà người chủ nhà mang ra từ kho của mình” là những vật trong đời sống mà Chúa Giêsu vừa mới đưa ra trong các dụ ngôn:  hạt giống gieo trong ruộng (Mt 13:4-8), hạt cải (Mt 13:31-32), men bột (Mt 13:33), kho tàng chôn giấu (Mt 13:44), người buôn ngọc quý (Mt 13:45-46), lưới thả dưới biển (Mt 13:47-48).  Kinh nghiệm của mỗi người về những việc này là kho tàng của người ấy.  Những kinh nghiệm mà mỗi người tìm thấy trong sự so sánh sẽ cho phép người đó hiểu rõ hơn về những việc của Nước Thiên Chúa!  Đôi khi những dụ ngôn không có ý nghĩa nhiều đối với chúng ta và không mang lại sứ điệp của chúng, nguyên nhân không hẳn là vì thiếu học hỏi, mà là thiếu kinh nghiệm trong đời sống hoặc thiếu chiều sâu trong đời sống của người ấy.  Những ai sống hời hợt bên ngoài mà không có chiều sâu về kinh nghiệm đời sống, sẽ không có kho để từ đó đem ra những điều mới cũng như cũ.   

c)  Đào sâu hơn:  Sự giảng dạy về các dụ ngôn

Các dụ ngôn của Chúa Giêsu là một dụng cụ sư phạm dùng đời sống hằng ngày để cho chúng ta thấy những việc trong đời sống thường nhật nói với chúng ta về Thiên Chúa như thế nào.  Những dụ ngôn làm sự hiện thực nên minh bạch và mặc khải sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.  Chúng biến đổi cái nhìn của một người thành một cái nhìn chiêm niệm.  Một dụ ngôn về những điều của đời sống và do đó là một sự giảng dạy mở ngỏ có liên quan cả đến chúng ta.   Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về những việc trong đời sống.  Sự giảng dạy bằng dụ ngôn bắt đầu với kinh nghiệm của một người về những việc thông thường để có thể hiểu về Nước Trời:  hạt giống, muối, ánh sáng, con chiên, hoa cỏ, phụ nữ, trẻ nhỏ, người cha, cái lưới, cá, kho tàng, ngọc trai, v.v.
Chúa Giêsu thường không giải thích các dụ ngôn của Người.  Thông thường, Người kết thúc với câu này:  “Ai có tai thì hãy nghe!” (Mt 11:15; 13:9-43) hay là “Chỉ có thế.  Các ngươi đã nghe!  Bây giờ hãy cố mà hiểu!” Chúa Giêsu chất dứt các dụ ngôn của mình với một câu nói mở, Người đã không kết thúc chúng.  Đây là một dấu hiệu cho thấy Chúa Giêsu tin tưởng vào khả năng của con người có thể khám phá ra ý nghĩa của dụ ngôn bắt đầu từ kinh nghiệm riêng của họ về đời sống.  Thỉnh thoảng, theo lời yêu cầu của các môn đệ, Người sẽ giải thích ý nghĩa (Mt 13:10-36).  Ví dụ, các câu 36-43 giải thích dụ ngôn về lúa mì và cỏ lùng.  Cũng có thể đây là những lời giải thích phản ảnh giáo huấn của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.  Các cộng đoàn đã gặp nhau và thảo luận về dụ ngôn của Chúa Giêsu, tìm hiểu về những gì Chúa Giêsu có ý muốn nói.  Do đó, dần dần, các giáo huấn của Chúa Giêsu bắt đầu được đồng hóa vào giáo lý của cộng đoàn và điều này sau đó trở thành lời giải thích của dụ ngôn.

6.  Thánh Vịnh 19:7-14                                                                                                             
Luật pháp Chúa thì hoàn mỹ
Luật pháp CHÚA quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý CHÚA thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.
Huấn lệnh CHÚA hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh CHÚA xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.
Lòng kính sợ CHÚA luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời.
Quyết định CHÚA phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh,
thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng,
ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất.

Nên tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi;
ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích.
Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình?
Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay.
Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo,
đừng để tính xấu này thống trị con.
Như thế con sẽ nên vẹn toàn
không còn vương trọng tội.

Lạy CHÚA là núi đá cho con trú ẩn,
là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận
bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa,
và bao tiếng lòng con thầm thĩ
mong được thấu đến Ngài.
7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét