Trang

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

3. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI GP.BMT


3. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI GP.BMT

GÒ THỊ

Lịch sử – Văn hóa – Địa lý




 1.    Địa lý

Gò Thị hiện thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, gần đầm Thị Nại và cửa biển Quy Nhơn.

Đây là vùng gò cao, nằm gần sông Côn và kề sát đồng bằng trù phú, thuận lợi cho nông nghiệp và liên lạc đường thủy.

Thời xưa, Gò Thị là một trong những trung tâm đông dân cư, gần kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa (thế kỷ XI–XV).

2.    Lịch sử

Thế kỷ XVII: Gò Thị đã có cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, do các giáo sĩ Dòng Tên truyền giáo. Đây được xem là một trong những cái nôi Công giáo miền Trung.

1839: Khi Đức cha Cuénot Thể (Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong) đến Bình Định, ngài đã chọn Gò Thị làm nơi đặt Tòa Giám mục đầu tiên, vì địa thế khá an toàn, cộng đoàn giáo dân đông đảo, dễ che chở trong cấm cách.

1841: Sau vài năm, vì tình hình bách hại gay gắt, ngài phải dời Tòa Giám mục từ Gò Thị về Nước Mặn, rồi sau đó đi Gia Hựu(Quãng Ngãi) và Làng Sông.

Gò Thị vẫn tiếp tục là một xứ đạo lớn và có vai trò lịch sử trong việc hình thành giáo phận.

3.    Văn hóa – Tôn giáo

Gò Thị vừa mang dấu ấn văn hóa Chăm (gần cố đô Đồ Bàn) vừa gắn liền với văn hóa Việt sau khi người Việt di cư vào Nam.

Người dân nơi đây sớm đón nhận Kitô giáo, trở thành một làng Công giáo tiêu biểu của Bình Định.

Ngày nay, nhà thờ Gò Thị vẫn còn, được xem là một di tích lịch sử – văn hóa quan trọng của giáo phận Qui Nhơn.

Tóm lại: Gò Thị là “chiếc nôi” đầu tiên của Tòa Giám mục Qui Nhơn (1839), nằm ở vùng đất giao thoa Việt – Chăm, thuận lợi về địa thế, giàu truyền thống văn hóa, và là nơi sớm tiếp nhận Tin Mừng.

 

CÔNG NGHỊ GÒ THỊ

 

Khi nhắc tới Gò Thị, chúng ta cũng nhớ đến Công nghị Gò Thị do Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể triệu tập. Đây có thể xem như một “cột mốc chiến lược” cho công cuộc truyền giáo ở Việt Nam giữa thế kỷ XIX.

1.    Hoàn cảnh

Năm 1841, Đức cha Cuénot Thể (Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong) triệu tập công nghị tại Gò Thị (Tuy Phước, Bình Định).

Lý do: tình hình truyền giáo gặp nhiều khó khăn do cấm đạo, thiếu linh mục, tổ chức rời rạc. Ngài nhận thấy cần có một định hướng thống nhất cho toàn giáo phận.

2.    Nội dung & Chủ trương chính của Công nghị

Công nghị Gò Thị bàn và đưa ra nhiều định hướng quan trọng:

- Củng cố tổ chức Giáo phận

Thiết lập cơ cấu tổ chức vững chắc từ giám mục → linh mục → thầy giảng → giáo dân. Chia địa hạt truyền giáo theo từng khu vực để việc chăm sóc mục vụ được đều khắp.

- Đào tạo nhân sự bản xứ

Đặt ưu tiên huấn luyện thầy giảng, chủng sinh và linh mục người Việt. Đây là chủ trương then chốt: không thể lệ thuộc hoàn toàn vào thừa sai ngoại quốc trong bối cảnh bách hại.

- Chú trọng giáo dục – dạy chữ Quốc ngữ

Khuyến khích sử dụng chữ Quốc ngữ (Latinh hóa) trong việc giảng dạy, học hỏi giáo lý. Điều này góp phần làm chữ Quốc ngữ phát triển mạnh tại Bình Định – Nước Mặn – Làng Sông.

- Đời sống đạo đức và kỷ luật Giáo hội

Nhấn mạnh kỷ luật nơi hàng giáo sĩ và thầy giảng: đời sống khiêm tốn, gương mẫu, gắn bó với dân nghèo. Đề cao các phương thế sống đạo trong cộng đoàn: kinh nguyện chung, việc đạo đức, các hội đoàn.

- Chiến lược truyền giáo giữa cấm cách

Chủ trương truyền giáo âm thầm nhưng kiên trì, không dừng lại dù bị bách hại. Xác định phương châm: “Không bỏ sót một cộng đoàn nào, dù nhỏ bé và khó khăn.”

Trong công nghị tại Gò Thị, một số Giám mục cũng được tấn phong như Đức cha Đôminicô Lefèbvre Ngãi (1841), Giám mục phó Đàng Trong rồi Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Trong, Đức cha Phanxicô Pellerin Phan (1846), Giám mục phó Đông Đàng Trong rồi Đại diện Tông Tòa Bắc Đàng Trong, Đức cha Luy Galibert Lợi (1879) Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong.

3. Ảnh hưởng đến việc truyền giáo tại Việt Nam

- Công nghị Gò Thị được coi như nền tảng tổ chức và định hướng cho Giáo phận Đông Đàng Trong (sau là Qui Nhơn, rồi tách ra thành Kontum, Nha Trang, Đà Nẵng).

- Góp phần tạo nên một hàng ngũ giáo sĩ Việt Nam đông đảo và kiên cường, có thể duy trì đời sống đức tin ngay cả khi thừa sai ngoại quốc bị trục xuất.

- Gắn liền với cái nôi chữ Quốc ngữ: việc phổ biến chữ Quốc ngữ để dạy giáo lý, từ đó ảnh hưởng đến văn hóa – giáo dục Việt Nam sau này.

- Truyền thống hiến thân và tử đạo nơi các linh mục, thầy giảng, giáo dân của miền Qui Nhơn – Bình Định cũng bắt nguồn từ tinh thần kiên vững do công nghị này khơi dậy.

Tóm lại: Công nghị Gò Thị (1841) là bước ngoặt lịch sử, đặt nền móng cho việc tổ chức Giáo phận Qui Nhơn và cho toàn bộ công cuộc truyền giáo tại Việt Nam thế kỷ XIX. Chủ trương đào tạo nhân sự bản xứ và phổ biến chữ Quốc ngữ đã có ảnh hưởng sâu xa đến cả Giáo hội lẫn văn hóa dân tộc.

 

++++++

Nói đến Gò Thị, chúng ta không thể không nhắc tới 2 vị thánh nổi bật đó là Đức Cha Cuénot Thể và Trùm họ Anrê Nguyễn Kim Thông, người luôn sát cánh cùng Đức Cha.

 












THÁNH STÊPHANÔ THÉODORE CUÉNOT THỂ

GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (1802-1861)



 

1.Tiểu sử Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể

Sinh ngày 8.2.1802 tại tại làng Bélieu, Besançon, miền Trung nước Pháp.

Gia nhập Hội Thừa sai Paris (MEP): thụ phong linh mục 1825. Sau đó tình nguyện đi truyền giáo tại Viễn Đông.

Ngày 06 tháng 01 năm 1833 vua Minh Mạng ra sắc dụ cấm đạo toàn quốc. Đức cha Taberd Từ quyết định di tản sang Xiêm, cha Cuénot và nhóm chủng sinh cũng theo chân ngài. Với đặc quyền Tòa Thánh ban cho, ngày 03 tháng 05 năm 1835 Đức cha Taberd tấn phong cha Cuénot làm Giám mục phó có quyền kế vị.

Đến Việt Nam năm 1835. Có mặt tại Bình Định năm 1839. Ngài thường xuyên di chuyển ở các điểm: Bồng Sơn, Bến Đá, Gò Xoài, Gia Hựu và Gò Thị. Năm 1840 vua Minh Mạng băng hà, vua Thiệu Trị lên ngôi kế vị, tình hình cấm đạo tương đối ít gay gắt, sự khó khăn tuỳ địa phương. Cùng năm nầy, ngày 31 tháng 07 năm 1840 Đức cha Taberd Từ qua đời tại Calcutta, Đức cha Cuénot Thể chính thức làm Đại diện Tông Tòa Giáo phận Đàng Trong, đặt Tòa Giám mục tại Gò Thị.

Năm 1841ngài triệu tập Công nghị Giáo phận Đàng Trong tại Gò Thị để thống nhất và định hướng việc mục vụ trong Giáo phận.

Tên Việt: thường gọi là Đức cha Thể.

Truyền giáo là ngọn lửa từng ngày đốt cháy tâm can Đức cha Cuénot. Trong 32 năm phục vụ Giáo Hội Việt Nam, trong đó 26 năm với chức vụ Giám mục, ngọn lửa ấy luôn cháy trong mọi tình cảnh, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Tây Nguyên là một trong những "nốt nhạc chính" trong bài "trường ca truyền giáo" của ngài.

2. Bách hại và Tử đạo

Thời vua Tự Đức, chính sách cấm đạo rất khắc nghiệt. Đức cha Thể phải nhiều lần lẩn trốn, dời Tòa Giám mục: Gò Thị → Nước Mặn → Gia Hựu → Làng Sông.

Tháng 5.1861, quân lính triều đình lùng bắt, ngài lánh ẩn tại Gò Thị nhưng bị phát giác.

Ngài bị bắt và giải về giam tại Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.

Do tuổi cao, sức yếu và giam giữ trong hầm chật hẹp, ẩm thấp, ngài qua đời ngày 14.11.1861 trong cảnh tù đày, trước khi kịp bị xử chém.

Cái chết của ngài được Giáo hội ghi nhận là tử đạo, vì chịu giam cầm và chết vì đức tin trong thời cấm đạo.

3.    Tôn phong Chân phước và Hiển thánh

Ngài được Đức Giáo hoàng Pi ô X phong Chân phước ngày 02 tháng 5 năm 1909.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong ngài và 116 vị tử đạo khác tại Việt Nam lên hàng Hiển thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988.

Lễ kính ngày 14 tháng 11.

4.    Ảnh hưởng

Đức cha Thể được coi là vị kiến trúc sư” của Giáo phận Qui Nhơn, vì ngài đặt nền tảng vững chắc cho đời sống đức tin tại miền Trung.

Gương sáng tử đạo của ngài đã khích lệ bao thế hệ giáo sĩ và giáo dân Việt Nam, đặc biệt tại Bình Định – Quảng Ngãi – Kontum.

Tóm lại: Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể (1802–1861), Giám mục Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong, đã hiến dâng trọn đời cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Ngài qua đời trong cảnh tù đày vì đức tin, được tôn phong hiển thánh năm 1988, và là một trong những vị thánh bảo trợ quan trọng của Giáo hội Việt Nam.

Hiện nay, Đền thánh Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể tọa lạc trên khuôn viên nhà Bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lưu, nơi Đức Cha Cuenot Thể bị bắt sau khi đã dâng thánh lễ vào sáng Chúa nhật 27 tháng 10 1861. Bà Lưu bị bắt. Bị tra tấn. Bị tù đày. Sau cùng bị chém đầu. Ngày 12 tháng 11 năm 1918, bà đã được Tòa Thánh ghi vào danh sách 20 Tôi tớ Chúa của Giáo phận Đông Đàng Trong, trong số những người đã chịu chết vì đạo cùng thời với Thánh Giám mục Stêphanô, từ  năm 1860 đến 1862.

Đền thánh Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể nay là nhà thờ Vĩnh Thạnh, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, cách Nước Mặn khoảng 3km về phía Đông và cách Đền Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông ở Gò Thị khoảng 3km về hướng Bắc.

 

++++++

 

THÁNH ANRÊ NGUYỄN KIM THÔNG

TRÙM CẢ TỬ ĐẠO (1790-1855)





Gương sáng đặc biệt của người giáo dân trưởng thành, sống trọn vẹn đức tin giữa cơn bách hại.

1. Tiểu sử

Tên thật Anrê Nguyễn Kim Thông (còn gọi là Trùm Cả, vì giữ chức Trùm Cả trong giáo xứ Bình Định rộng lớn).

Sinh khoảng năm 1790, tại Gò Thị, Tuy Phước, Bình Định.

Gia đình sống đạo hạnh, nêu gương sáng cho con cháu. Ngài có một người con làm linh mục là cha Giuse Nguyễn Kim Thủ tử đạo và nữ tu Anna Nguyễn Thị Nhường dòng Mến Thánh Giá.

2. Cuộc bách hại và Tử đạo

Thời vua Tự Đức, những năm 1850, phong trào bách hại Công giáo trở nên gay gắt. Trùm Cả Anrê bị bắt cùng với nhiều giáo dân, do cương quyết không bỏ đạo và vẫn bảo vệ cha xứ, các thừa sai. Ông bị điệu qua nhiều nơi giam giữ, bị ép bước qua Thánh giá và chối đạo, nhưng ông kiên quyết trung thành. Sau nhiều tháng tra tấn, ông bị giải về Mỹ Tho nơi ngài chịu lưu đày. Trên đường đến Mỹ Tho ngài mất ngày 15.7.1855, hưởng thọ khoảng 65 tuổi.

3. Tôn phong Hiển thánh

Ngài được Đức Giáo hoàng Piô X phong Chân phước ngày 02.5.1909.

Ngài được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Hiển thánh ngày 19.6.1988, cùng 116 vị tử đạo khác tại Việt Nam.

Ngài được kính nhớ ngày 15.7 hằng năm.

4. Ý nghĩa

Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông là hình ảnh người giáo dân trưởng thành, cha gia đình, trùm họ, trung thành với Chúa đến cùng.

Ngài để lại cho hậu thế một gia sản đức tin vững mạnh: chính con trai của ngài cũng nên thánh tử đạo.

Gương sống của ngài nhắc nhớ rằng ơn gọi nên thánh khởi đi từ đời sống gia đình, và sự trung tín trong bổn phận hằng ngày có thể dẫn đến anh hùng tử đạo.

Tóm lại: Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông (1790–1855), Trùm Cả, người quê Gò Thị (Bình Định), đã kiên vững trong đức tin và hiến dâng mạng sống tại Mỹ Tho. Ngài là mẫu gương cha gia đình và người giáo dân trung thành, được tôn phong hiển thánh năm 1988.

5. Lời thánh nhân

“Thạch tín là thuốc độc, uống vào thì chết, nhưng cũng có thuốc giải. Tuy nhiên, không ai liều lĩnh uống thạch tín bao giờ. Việc chối đạo cũng thế. Tôi nhất định dù có chết cũng không bỏ đạo”.

“Các con cứ để thánh ý Chúa được thể hiện”.

 

++++++


 

CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN

THẦY GIẢNG TỬ ĐẠO (1625-1644)

 

“Giới trẻ, người tín hữu tiên khởi tử đạo tại Việt Nam”. Ngài không chỉ gắn với đất Qui Nhơn mà còn là niềm tự hào của toàn Giáo hội Việt Nam.

 

1. Tiểu sử

Sinh khoảng năm 1625, tại làng Trà Kiệu hoặc Hội An (Quảng Nam). Từ nhỏ ngài đã theo gia đình vào vùng Qui Nhơn sinh sống, nên thường được gắn với địa danh Phú Yên – nơi ngài hoạt động.

Anrê được cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) Rửa tội.

Đời sống: Tuy còn trẻ, Anrê nổi bật nhờ đạo đức, thông minh và lòng nhiệt thành. Ngài được chọn làm thầy giảng (catechist) – phụ tá các nhà truyền giáo.

 

2. Cái chết anh hùng

Năm 1644, thời chúa Trịnh Tráng, phong trào cấm đạo bùng lên dữ dội.

Anrê bị bắt tại Hội An khi đang ở nhà chăm sóc các thầy đau ốm.

Trong tù, ngài vẫn vững vàng, khích lệ bạn hữu và tuyên xưng đức tin.

Ngày 26.7.1644, Anrê bị điệu ra pháp trường tại Gò Xoài (nay thuộc Phú Yên).

Trước khi chịu chém đầu, ngài nói: “Hỡi các bạn, hãy vững lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô. Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi.”

Anrê mới khoảng 19 tuổi, trở thành người tín hữu Việt Nam tiên khởi tử đạo.

 

3. Tôn phong

Cha Đắc Lộ gọi ngài là “protómartyr Anrê – tức “người tử đạo tiên khởi” của Giáo hội Việt Nam.

Năm 2000, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Chân phước cho Anrê Phú Yên, tại lễ phong Chân phước 44 vị tử đạo của nhiều quốc gia ở Rôma (ngày 5.3.2000).

Ngài được mệnh danh là Bổn mạng giới trẻ và giáo lý viên Công giáo Việt Nam.

Lễ kính ngày 26 tháng 7 hằng năm.

 

 

4. Ý nghĩa

Anrê Phú Yên là chứng tá người giáo dân trẻ trung, can đảm, yêu mến Đức Kitô đến hiến dâng mạng sống.

Gương tử đạo của ngài là ngọn lửa khởi đầu, mở đường cho hàng trăm chứng nhân khác sau này.

Ngài được coi là “hạt lúa gieo đầu tiên” tại mảnh đất miền Trung – Qui Nhơn, từ đó nảy sinh truyền thống anh hùng tử đạo.

Tóm lại, Chân phước Anrê Phú Yên (1625–1644), thầy giảng trẻ tuổi, đã hiến dâng đời mình vì đức tin, trở thành vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam và là bổn mạng giới trẻ Công giáo.

 


 


 

 

MẰNG LĂNG

Một địa danh rất đặc biệt, gắn liền với quê hương Chân phước Anrê Phú Yên và cũng là một trong những chiếc nôi Kitô giáo miền Trung.

1.    Địa lý

Mằng Lăng thuộc xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; cách thành phố Tuy Hòa khoảng 35 km về phía Bắc.

Nằm gần cửa sông Kỳ Lộ, đổ ra biển Đông, tạo nên vùng đồng bằng trù phú, thuận tiện giao thông cả thủy lẫn bộ.

Tên gọi “Mằng Lăng” có thể bắt nguồn từ rừng cây bằng lăng (một loại cây rừng ra hoa tím) vốn mọc nhiều trong khu vực.

2. Lịch sử

Ngay từ thế kỷ XVII, vùng đất Mằng Lăng đã có sự hiện diện của các thừa sai Dòng Tên. Đây là nơi Anrê Phú Yên sinh sống, học hỏi và trở thành thầy giảng trẻ.

Truyền thống Công giáo bén rễ từ đây, nên Mằng Lăng được coi là cái nôi đức tin của tỉnh Phú Yên.

Nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng năm 1892, theo kiến trúc Gothic cổ kính, là một trong những nhà thờ cổ nhất ở Việt Nam. Ngày nay, đây là điểm hành hương và di tích văn hóa nổi tiếng.

Đặc biệt, tại Mằng Lăng hiện lưu giữ bản in cuốn giáo lý bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên – “Phép Giảng Tám Ngày” (1651) của cha Alexandre de Rhodes.

3. Văn hóa – Tôn giáo

Văn hóa Mằng Lăng là sự hòa quyện giữa văn hóa Việt – Chăm (do gần vùng đất Champa cũ) và văn hóa Công giáo.

Lễ hội kính Chân phước Anrê Phú Yên (26.7) hằng năm trở thành ngày hội lớn, thu hút đông đảo tín hữu hành hương.

Người dân nơi đây nổi tiếng với tinh thần hiền hòa, chất phác, sống đức tin kiên trung.

Mằng Lăng ngày nay không chỉ là quê hương Anrê Phú Yên, mà còn là biểu tượng của sự khởi đầu Kitô giáo tại Phú Yên và miền Trung Việt Nam.

Có thể tóm lại, Mằng Lăng – miền quê bên dòng sông Kỳ Lộ, nơi lưu giữ truyền thống đức tin từ thế kỷ XVII, gắn liền với cuộc đời Chân phước Anrê Phú Yên và cuốn sách giáo lý chữ Quốc ngữ đầu tiên. Đây là mảnh đất vừa thấm đẫm văn hóa bản địa, vừa rạng ngời chứng tá Kitô giáo.
















 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét