4. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI GP.BMT
Đền
Thánh Anrê Phú Yên Phước Kiều
Phước
Kiều
là danh xưng của một họ đạo nhỏ bé, gắn liền với tên tuổi của vị Chứng nhân đức
tin tiên khởi của Hội Thánh Việt Nam là Chân Phước Thầy Giảng Anrê Phú Yên, đã
được phúc tử đạo trong khu vực nguyên là Dinh Trấn Thanh Chiêm nổi danh một thời.
Làng Phước Kiều
nổi tiếng về đúc đồng, tiếp giáp làng Thanh Chiêm. Làng có nhà thờ Công Giáo được
xây dựng vào thời các Chúa Nguyễn. Giáo sĩ Francisco de Pina chính thức trở
thành cha bề trên quản nhiệm trú sở này. Người có công đầu trong việc khai sinh
chữ Quốc Ngữ , ông mất vào ngày 16/12/1625.
Trong thời gian
xuôi ngược Đàng Trong – Đàng Ngoài, các vị Thừa Sai dòng Tên đã tạo lập một đội
ngũ trợ tá cho các ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng tại những nơi các
ngài có thể rao giảng. Năm 1630, Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) lập hội Thầy Giảng
tại Đàng Ngoài và nhận lời khấn của 3 Thầy giảng Phanxico, Inhaxio và Anrê. Đến
năm 1643, Cha Đắc Lộ trở lại và lập hội Thầy Giảng tại Đàng Trong.
Chúa Nguyễn Phước
Lan nghe lời Tống thị quyết loại trừ thầy giảng Inhaxio, một cánh tay đắc lực của
Cha Đắc Lộ. Người thừa hành án lệnh là ông cai bạ Quảng Nam có tên gọi là ông
nghè Bộ. Ý Chúa nhiệm mầu, người chứng thứ nhất không phải là thầy Inhaxio mà lại
là một Giáo lý viên trẻ tuổi được gọi là Thầy giảng Anrê.
Qua các bản tường
trình, chúng ta biết rõ ràng từng chi tiết cuộc hiến tế đầu mùa của thầy Anrê.
Tại Dinh Cham tức Dinh trấn Thanh Chiêm, thầy đã bị xét xử, bị kết án tử hình
và bị giết chết trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì cương quyết “giữ nghĩa cùng Chúa
Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”. Hôm đó là ngày 26 tháng 7 năm 1644,
khoảng 29 năm sau thời điểm các Thừa Sai dòng Tên đặt chân đến Cửa Hàn – Hội An
(18/01/1615) khai mở công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Và, kể từ cái chết của
Thầy giảng Anrê, vùng đất Thanh Chiêm – Phước Kiều đã trở thành nơi hành hình của
nhiều lớp sĩ phu Công giáo.
Ngày 26 tháng 7
năm 2007, Đức giám mục giáo phận Đà Nẵng nâng nhà nguyện Phước Kiều lên hàng Đền
Thánh. Từ đó, hằng năm vào ngày 26/7, cộng đoàn dân Chúa giáo phận Đà Nẵng hành
hương về đất thánh này để tôn vinh, cảm tạ và học hỏi gương sống chứng tá đức
tin của Đấng Chân phước trẻ tuổi tín trung.
Cũng để tạo cảnh
quan và những tiện ích cho việc hành hương, khuôn viên Đền thánh được chỉnh
trang, kể cả 3 ngôi mộ cổ phía sau nhà Nguyện (không rõ tông tích nhưng chắc chắn
là của giáo dân Công giáo) cũng được tu bổ, tôn tạo. Một bức tượng Chân phước
Thầy Giảng Anrê trong trang phục Việt Nam đã được thực hiện và đặt trước bàn thờ;
ngay chính diện, thánh tích của Chân Phước cũng được trang trọng trưng bày để cộng
đoàn dân Chúa tôn kính. Ngoài ra, giáo phận cũng đã thu xếp để có được một
khuôn viên sát tỉnh lộ, thuận tiện cho các đoàn hành hương dừng chân chuẩn bị
cho việc kính viếng Đền Thánh.
Đền Thánh Anrê
Phú Yên hiện nay cũng là ngôi nhà thờ chính của giáo họ Phước Kiều. thường
xuyên có 1 linh mục quản nhiệm lưu trú tại khuôn viên Đền thánh để coi sóc việc
mục vụ, phụng tự cho khoảng hơn 300 giáo dân tại chỗ và khách hành hương Đền
thánh; đồng thời cũng đảm trách việc chỉnh trang tu sửa Đền thánh và các cơ sở
liên quan.
Hiện nay, tiến trình tôn phong Hiển Thánh cho Chân
Phước Tử Đạo Anrê Phú Yên vẫn đang được tiến hành (đang chờ phép lạ thứ hai của
Chân Phước để hoàn tất tiến trình tôn phong hiển thánh). Ước mong sẽ đến ngày hoàn
thành một ngôi Đền Thánh rộng rãi khang trang dâng kính “Hiển Thánh” Anrê Phú
Yên tại nền đất thấm máu đào các vị anh hùng tử đạo thời sơ khai của công cuộc
loan báo Tin Mừng trên quê hương Việt Nam.
ĐỨC
MẸ SAO BIỂN
Đức
Mẹ Sao Biển từ lâu đã trở thành biểu tượng
thiêng liêng trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu Công giáo, đặc biệt là những
người gắn bó với biển cả.
Tượng Đức
Mẹ Sao Biển nằm ở bãi biển Mỹ Khê, đường Võ Nguyên Giáp
— Phan Tứ, phường Bắc Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng (địa chỉ cũ);
nằm trong khuôn viên của Dòng Thánh Phaolô thành Chartres. Khu đất đặt tượng rộng
khoảng 3.000 m² . Chưa có tài liệu ghi chép chính thức về thời điểm đặt tượng,
nhưng Đức Mẹ Sao Biển đã trở thành điểm đến quen thuộc của nhiều tín hữu từ nhiều
năm qua, mang lại cảm giác tĩnh lặng giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình.
Tước
hiệu Đức Mẹ Sao Biển bắt nguồn từ tiếng
Latin Stella Maris , Đức Maria được ví như ngôi sao dẫn đường
giữa biển cả, như ngọn hải đăng soi sáng, dẫn lối và che chở cho những ai đang
trên hành trình cuộc đời đầy thử thách đến bờ bến bình an. Tước hiệu này thể hiện
niềm tin rằng Đức Mẹ luôn đồng hành, nâng đỡ và bảo vệ những ai đặt trọn niềm
tin nơi Ngài, giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống.
Đầu tháng 10 năm
2006, siêu bão Xangsane với tâm bão là Đà Nẵng. Sức mạnh tập trung của cơn bão
là 120-130km/h đã không chừa lại bất cứ thứ gì con nguyên vẹn trên đường nó đi
qua. Đà Nẵng xơ xác và bàng hoàng… Nhưng có một nơi mà cơn bão dường như không
chạm tới, đó là tượng Đức Mẹ Sao Biển đặt trên kệ đá sơ sài trong khu
đất giữa tu viện và mặt biển. Thậm chí mấy miếng tôn cũ che chắn tạm bợ trên đầu
Đức Mẹ cũng không hề hấn gì từ cơn bão táp. Khi thành phố bừng dậy sau cơn “hấp
hối”, người ta nhận ra điều kì diệu này, và kẻ lương người giáo lũ lượt kéo đến
cầu khấn với Mẹ Sao Biển mỗi ngày một đông, với hương hoa đèn nến mỗi
lúc một nhiều.
Đối với người
Công giáo, Đức Mẹ Sao Biển trở thành một địa điểm hành hương quan trọng ở Đà Nẵng
— nơi tìm tới cầu nguyện, dâng hoa, đọc kinh, xin ơn.
Đối với cả người
không theo đạo, nơi này cũng mang lại cảm giác bình an tinh thần, là nơi để dừng
chân, tìm sự yên tĩnh giữa khung cảnh biển, cây cối và sự thanh tịnh.
Vào mỗi sáng thứ
bảy đầu tháng, Đức Giám Mục Giáo phận sau Thánh lễ tại nguyện đường Cộng đoàn
Dòng Phaolô, đã cùng các nữ tu và giáo dân hiện diện làm thành đoàn rước ra viếng Mẹ
Sao Biển, dâng hương hoa và những lời ca câu kinh gói ghém bao ý nguyện chân
thành lên Mẹ, để cầu nguyện cho Giáo Hội, cho Giáo phận và cho Tỉnh Dòng
Phaolô… Xin Mẹ Sao Biển nâng đỡ, cầu bầu và chúc phúc.
Mẹ Sao Biển
đã đi vào lòng của Giáo dân Đà Nẵng nói riêng và người Công Giáo nói chung. Những phép lạ, ơn lành mà Mẹ Sao Biển thực hiện không phân lương giáo, miễn sao những ai đến bên Mẹ cầu nguyện với một lòng thành kính, tin tưởng cậy trông.ĐỨC MẸ TRÀ KIỆU
một biến cố đặc biệt trong lịch sử Giáo hội Công giáo tại
miền Trung, gắn liền với phong trào Văn Thân và việc bách hại tín hữu
vào cuối thế kỷ XIX. Đây là một sự kiện vừa mang dấu ấn lịch sử, vừa có ý nghĩa
đức tin sâu sắc đối với cộng đồng Công giáo Việt Nam.
1. Bối cảnh lịch sử
Sau các sắc chỉ cấm đạo triều Tự Đức
(1861 – Lệnh phân sáp), nhiều cộng đoàn Công giáo bị tan rã.
Khi Phong trào Văn Thân (1885)
nổi dậy với khẩu hiệu “Bình Tây, sát tả” (chống Tây, giết đạo), nhiều
làng Công giáo ở miền Trung (Quảng Nam, Bình Định, Kontum…) bị bao vây, tàn
sát.
Giáo dân Trà Kiệu (một làng đạo
thuộc Quảng Nam, cách Hội An khoảng 18 km) rơi vào tình cảnh bị quân Văn Thân
vây hãm.
2. Sự kiện Trà Kiệu 1885
Tháng 9.1885, quân Văn Thân khoảng 5.000 người vây hãm làng đạo Trà
Kiệu, trong khi làng chỉ có khoảng 2.000 giáo dân, vũ khí rất thô sơ.
Trong tình thế tuyệt vọng, cộng đoàn
cầu nguyện tha thiết với Đức Mẹ.
Truyền thống đạo kể lại: trong những
ngày ác liệt, Đức Mẹ hiện ra trên nóc nhà thờ Trà Kiệu, tay bồng Chúa
Hài Đồng, tỏa hào quang che chở. Quân Văn Thân hoảng sợ, quân Công giáo giữ
vững thành, không bị tiêu diệt.
Sau nhiều ngày giao tranh, quân Văn
Thân rút lui, Trà Kiệu được giải vây.
3. Ý nghĩa tôn giáo
Sự kiện được xem như phép lạ Đức Mẹ
cứu giúp, khẳng định niềm tin mạnh mẽ của cộng đoàn trong cơn bách hại.
Trà Kiệu từ đó trở thành Trung tâm
Thánh Mẫu quan trọng của Giáo phận Đà Nẵng và Giáo hội Việt Nam.
Hằng năm, ngày 31 tháng 5 có đại
lễ hành hương Đức Mẹ Trà Kiệu, quy tụ đông đảo tín hữu miền Trung.
4. Ảnh hưởng văn hóa – dân tộc
Trong lịch sử dân tộc:
biến cố Trà Kiệu cho thấy sự phức tạp của bối cảnh cuối thế kỷ XIX: phong trào Văn Thân vừa mang tính yêu nước chống ngoại xâm, vừa mang tính cực đoan tôn giáo dẫn tới xung đột đẫm máu.Trong
văn hóa Công giáo Việt Nam: Đức Mẹ Trà Kiệu trở
thành biểu tượng Đức Maria đồng hành với dân tộc trong gian nan, được
sánh ngang với các trung tâm Thánh Mẫu khác như La Vang, Tàpao…
Trong tâm thức cộng
đồng: sự kiện đã nuôi dưỡng niềm tin phó
thác nơi Mẹ Maria, đồng thời khắc họa hình ảnh giáo dân kiên cường bảo
vệ đức tin và sự sống.
Tóm lại, Trà Kiệu,
một ngôi làng đạo nhỏ ở Quảng Nam, đã trở thành chứng tích của niềm tin. Năm
1885, khi quân Văn Thân bao vây, cộng đoàn kêu cầu Đức Mẹ. Truyền thống kể lại
Đức Mẹ hiện ra trên nóc nhà thờ, bảo vệ đoàn con. Từ đó, Trà Kiệu không chỉ là
ký ức của một biến cố lịch sử, mà còn là trung tâm hành hương, nơi Đức Mẹ gắn
bó với lịch sử dân tộc và nuôi dưỡng niềm tin của hàng triệu tín hữu Công giáo
Việt Nam.
So sánh Đức Mẹ La Vang và Đức Mẹ Trà
Kiệu
|
Tiêu
chí |
Đức
Mẹ La Vang |
Đức
Mẹ Trà Kiệu |
|
Thời gian |
Năm 1798, dưới thời vua Cảnh
Thịnh (Tây Sơn), lúc ban hành sắc chỉ cấm đạo khốc liệt. |
Năm 1885, dưới thời vua Hàm
Nghi, trong phong trào Văn Thân “Bình Tây, sát tả”. |
|
Bối cảnh |
Giáo dân phải chạy trốn vào rừng La
Vang (Quảng Trị) để tránh bách hại. |
Giáo dân Trà Kiệu (Quảng Nam) bị quân
Văn Thân bao vây, tấn công dữ dội. |
|
Hình thức hiện ra |
Đức Mẹ hiện ra giữa rừng, an ủi, nâng
đỡ, dạy hái lá thuốc chữa bệnh. |
Đức Mẹ hiện ra trên nóc nhà thờ,
bồng Chúa Hài Đồng, tỏa sáng, che chở cộng đoàn. |
|
|
|
|
|
Ý nghĩa tôn giáo |
Gợi lên hình ảnh Đức Mẹ Nữ Vương
các kẻ tử đạo, đồng hành với đoàn con trong cảnh lưu đày và đau khổ. |
Nhấn mạnh Đức Mẹ là Đấng Bảo Trợ
và Che Chở, bảo vệ cộng đoàn trong hiểm nguy trước mắt. |
|
Ảnh hưởng |
Trở thành Trung tâm Thánh Mẫu toàn
quốc (Đức Thánh Cha Gioan XXIII, 1961: La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu
toàn VN). |
Trở thành Trung tâm Thánh Mẫu miền
Trung, đặc biệt cho Giáo phận Đà Nẵng, hằng năm có hành hương lớn (31/5). |
|
Thông điệp |
Niềm tin, kiên nhẫn, phó thác trong
gian nan, giữ vững đức tin giữa bách hại. |
Sức mạnh đức tin, sự che chở kỳ diệu,
hiệp nhất cộng đoàn để vượt thắng nguy khốn. |
Tóm lại, trong lịch sử dân tộc, Đức Mẹ hiện ra ở La Vang
năm 1798 và ở Trà Kiệu năm 1885 – hai biến cố cách nhau gần một thế
kỷ, nhưng cùng diễn ra trong bối cảnh bách hại đạo. Nếu ở La Vang, Mẹ hiện ra
giữa rừng sâu để an ủi đoàn con lánh nạn, thì ở Trà Kiệu, Mẹ hiện ra trên nóc
nhà thờ để che chở giáo dân đang bị quân Văn Thân vây hãm. Hai biến cố ấy khắc
sâu niềm xác tín: Mẹ Maria luôn đồng hành với Hội Thánh tại Việt Nam, và
chính từ trong đau thương, Đức tin được tôi luyện và lớn mạnh.
CHỮ QUỐC NGỮ
Chữ Quốc ngữ (chữ Việt viết bằng
mẫu tự Latinh)
không phải công trình của một người, mà là kết quả của nhiều thế hệ thừa sai
và người bản xứ trong suốt hơn 200
năm.
HÌNH
THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ
(Thế kỷ XVII – XIX)
1.
Khởi đầu (đầu thế kỷ XVII)
Các thừa sai Dòng Tên đến Việt Nam (Hội
An, Nước Mặn – Bình Định, Thăng Long).
Cần một công cụ ghi âm tiếng Việt để
học nhanh, giảng đạo, soạn giáo lý.
Họ bắt đầu dùng chữ Latinh ghép
với dấu thanh để ghi lại tiếng Việt.
2.
Những người tiên phong
Francisco de
Pina (Bồ Đào Nha): học giỏi tiếng
Việt, đặt nền tảng ghi âm.
Gaspar do
Amaral và Antonio Barbosa (Bồ Đào Nha): soạn từ điển Việt – Bồ, Bồ – Việt
(nay thất lạc).
Alexandre de
Rhodes (Pháp): kế thừa công trình trước, biên soạn
và xuất bản tại Rôma (1651):
Từ
điển Việt – Bồ – La.
Phép
giảng tám ngày (sách giáo lý bằng
chữ Quốc ngữ).
Đây là dấu mốc quan trọng, giúp chữ Quốc ngữ trở nên có hệ thống.
3.
Phát triển âm thầm (thế kỷ XVIII – XIX)
Sau khi Dòng Tên bị trục xuất, chữ Quốc
ngữ vẫn được các giáo sĩ khác sử dụng trong nội bộ.
Tại chủng viện Làng Sông (Bình Định),
chữ Quốc ngữ được dùng trong giảng dạy, in ấn, đào tạo linh mục.
Người Việt (giáo dân, thầy giảng) dần
làm quen và đóng góp vào việc hoàn thiện.
4.
Phổ biến rộng rãi (cuối thế kỷ XIX – đầu XX)
Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa
dùng chữ Quốc ngữ để thay thế chữ Hán – Nôm (thuận tiện cai trị, phổ biến giáo
dục).
Các trí thức Việt Nam (Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi…) dùng chữ Quốc ngữ để viết báo,
dịch sách, mở trường học.
Đầu thế kỷ XX: Quốc ngữ trở thành chữ
viết chính thức của dân tộc Việt Nam.
Tóm lại,
“Chữ
Quốc ngữ không phải là công trình của một cá nhân, mà là hành trình tập thể:
Người đặt nền (Pina). Người hệ thống hóa (Rhodes). Người nuôi dưỡng và phát
triển trong lòng Giáo hội Việt Nam (các linh mục, giáo dân, chủng viện Làng
Sông). Và sau cùng, chính người Việt – các trí thức và toàn dân – đã biến Quốc
ngữ thành chữ viết của dân tộc.
Vì thế, Quốc ngữ là kết tinh của giao thoa văn hóa Đông – Tây, của công cuộc truyền giáo, và của lòng yêu
nước.
CÁC
CỘT MỐC CHÍNH
VỀ
VIỆC SỬ DỤNG
CHỮ
QUỐC NGỮ
1.
Thời kỳ Hán – Nôm (trước thế kỷ XVII)
Chính quyền phong kiến: dùng chữ Hán
(văn tự chính thức).
Văn học, sáng tác: chữ Nôm (dùng
cho Truyện Kiều, ca dao…).
Tiếng Việt nói trong dân gian,
nhưng không phải chữ viết chính thống.
2.
Khởi đầu chữ Quốc ngữ (thế kỷ XVII – XVIII)
Các thừa sai Dòng Tên (Pina, Đắc Lộ,
Amaral, Barbosa) sáng tạo cách ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latinh.
Chỉ dùng trong giáo hội và nội bộ Kitô
hữu (giảng dạy, giáo lý, chủng viện).
Chưa được xã hội và chính quyền thừa nhận.
3.
Thời Pháp thuộc (thế kỷ XIX – đầu XX)
1865: Báo Gia Định Báo ra đời (tờ báo đầu tiên bằng chữ
Quốc ngữ).
1878: Thống đốc Nam Kỳ Lafont ra nghị định: các công văn
hành chính ở Nam Kỳ phải viết bằng Quốc ngữ.
1910: Triều đình Huế ra chỉ dụ dùng chữ Quốc ngữ trong thi cử
(dần thay chữ Hán).
1918: Vua Khải Định chính thức bãi bỏ khoa cử Hán học →
Quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của quốc gia.
4.
Phong trào văn hóa – báo chí (đầu thế kỷ XX)
Các trí thức như Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi… phát triển báo chí, dịch thuật
bằng Quốc ngữ.
Báo Đông Dương Tạp chí (1913), Nam
Phong Tạp chí (1917) phổ biến rộng chữ Quốc ngữ.
Quốc ngữ dần trở thành ngôn ngữ của
văn học, báo chí, giáo dục.
5.
Thời hiện đại (từ 1945)
1945: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Chủ tịch Hồ Chí Minh)
quy định chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của nước Việt Nam mới.
Tổ chức phong trào “Bình dân học vụ” xoá mù chữ cho hàng triệu người.
Lần đầu tiên, tiếng Việt – chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ chung, gắn với độc
lập dân tộc.
Tóm lại, Chữ Quốc ngữ trải qua một hành trình dài: từ công
cụ giảng đạo của các giáo sĩ (thế kỷ XVII), sang công cụ hành chính của Pháp
(thế kỷ XIX), rồi trở thành ngôn ngữ báo chí – văn học (đầu thế kỷ XX), và cuối
cùng, sau Cách mạng Tháng Tám 1945, chính thức trở thành ngôn ngữ quốc gia,
được sử dụng trong chính quyền, trường học và toàn xã hội.
NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG
1.
FRANCISCO DE PINA (1585–1625)
Quốc tịch Bồ Đào Nha, tu sĩ Dòng Tên.
Đến Việt Nam khoảng năm 1617, hoạt động ở Hội An, Nước Mặn (Bình Định).
Là người châu Âu đầu tiên thông thạo tiếng Việt đến mức có thể giảng
đạo trực tiếp bằng tiếng Việt, không cần thông dịch.
Đặt nền móng cho việc ghi âm tiếng
Việt bằng mẫu tự Latinh.
Dạy tiếng Việt cho nhiều thừa sai khác,
trong đó có Alexandre de Rhodes.
Có thể gọi ông là “cha đẻ thầm lặng” của chữ Quốc ngữ.
2. GASPAR
DO AMARAL (1594–1646)
Linh
mục Dòng Tên, gốc Bồ Đào Nha.
Sang
Đàng Ngoài truyền giáo khoảng 1629.
Rất
giỏi tiếng Việt, từng giữ vai trò thông dịch cho giáo đoàn.
Ngài
đã biên soạn Từ điển Việt–Bồ (nghĩa là: tiếng Việt giải thích
bằng tiếng Bồ Đào Nha). Đây được coi là bộ từ điển đầu tiên về
tiếng Việt theo lối Latinh hóa.
Ngài
đã đặt nền tảng cho việc hệ thống hóa ngữ âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh.
3. ANTONIO BARBOSA (1594–1647)
Cũng
là linh mục Dòng Tên, người Bồ Đào Nha.
Truyền
giáo ở Đàng Ngoài, cùng thời với Gaspar do Amaral.
Ngài
đã biên soạn Từ điển Bồ–Việt (ngược lại với Amaral: tiếng Bồ
Đào Nha giải thích bằng tiếng Việt).
Antonio
Barbosa giúp người Việt tiếp cận hệ thống ngôn ngữ Latinh–Âu châu, đồng thời bổ
sung cho công trình của Amaral.
4. ALEXANDRE DE RHODES – ĐẮC LỘ (1591–1660)
Quốc tịch Pháp, tu sĩ Dòng Tên.
Đến Việt Nam năm 1624 (đầu tiên ở Hội An, rồi Nước Mặn, Thăng Long).
Học tiếng Việt từ Francisco de Pina. Viết
và xuất bản tại Rôma (1651):
“Từ
điển Việt – Bồ – La” (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum).
“Phép
giảng tám ngày” (Cathechismus)
– sách giáo lý đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ.
Đóng vai trò hệ thống hóa, hoàn
thiện và phổ biến chữ Quốc ngữ ra thế giới.
Bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1645. Trở
về châu Âu, tiếp tục vận động cho việc truyền giáo tại Việt Nam.
Ảnh hưởng của Đắc Lộ thường được xem là “người khai sinh chữ Quốc
ngữ”, nhưng thực ra ông chỉ tiếp nối và công bố công trình của nhiều
người (nhất là Pina, Amaral, Barbosa).
5.
Vai trò trong
tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ
- Francisco de Pina là người đầu tiên thực sự nắm vững tiếng Việt,
đặt ra những quy tắc ghi âm bằng chữ Latinh.
- Gaspar do Amaral & Antonio Barbosa tiếp tục hệ thống hóa, biên soạn từ điển song
ngữ (Việt–Bồ và Bồ–Việt), làm kho dữ liệu ngôn ngữ học đầu tiên.
- Alexandre de Rhodes đã thừa hưởng và tổng hợp các công trình này, biên
soạn “Từ điển Việt–Bồ–La” (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et
Latinum, 1651) và “Phép giảng tám ngày”, qua đó đưa
chữ Quốc ngữ vào diện phổ biến rộng hơn.
Tóm lại, khi nhắc
đến chữ Quốc ngữ, ngoài Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes, ta không thể
quên hai giáo sĩ Bồ Đào Nha: Gaspar do Amaral và Antonio
Barbosa. Amaral soạn từ điển Việt–Bồ, Barbosa soạn từ điển Bồ–Việt.
Hai công trình này là kho ngữ liệu nền tảng, giúp Alexandre de Rhodes hoàn
thành bộ từ điển ba thứ tiếng nổi tiếng năm 1651. Như vậy, chữ Quốc ngữ không
phải là công trình của một người, mà là kết quả tập thể của nhiều thế hệ thừa
sai Dòng Tên, trong đó người Bồ Đào Nha có vai trò đặc biệt quan trọng.
Sơ đồ tiến trình phát triển chữ Quốc ngữ:
Khởi
đầu với Francisco de Pina,
tiếp
nối bởi Amaral & Barbosa (hai từ điển song ngữ),
được
hệ thống hóa bởi Alexandre de Rhodes (1651),
rồi lan tỏa nhờ nhà in Công giáo,
mở
rộng qua báo chí Quốc ngữ (Gia Định Báo, 1865),
và
cuối cùng trở thành chữ viết chính thức ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX.
TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Tự Lực Văn Đoàn là một trong những
phong trào văn học – báo chí có ảnh hưởng mạnh nhất ở Việt Nam trước 1945, cả
về chữ Quốc ngữ lẫn đời sống văn hóa.
1. Thành viên chính của Tự Lực Văn Đoàn
(Thành lập năm 1932, do Nhất Linh –
Nguyễn Tường Tam khởi xướng, gắn với tờ Phong Hóa rồi Ngày Nay)
- Nguyễn Tường Tam
(Nhất Linh, 1906–1963) → lãnh tụ, nhà văn,
nhà chính trị, tiểu thuyết gia.
- Nguyễn Tường Long
(Hoàng Đạo, 1907–1946) → viết chính luận.
- Nguyễn Tường Lân
(Thạch Lam, 1910–1942) → nhà văn trữ tình
hiện thực.
- Nguyễn Gia Trí
(1908–1993) → họa sĩ, phụ trách
minh họa báo.
- Khái Hưng (Trần
Khánh Giư, 1896–1947) → tiểu thuyết gia
hiện thực.
- Tú Mỡ (Hồ Trọng
Hiếu, 1900–1976) → nhà thơ trào
phúng.
- Và một số cộng tác viên khác như Xuân
Diệu, Huy Cận, Thế Lữ… thời đầu cũng in tác phẩm trên báo của nhóm.
2. Chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn
- Canh tân xã hội qua văn chương: cổ vũ tự do cá nhân, chống lại lễ giáo phong kiến lỗi
thời.
- Cải cách ngôn ngữ:
khuyến khích viết văn bằng chữ Quốc ngữ giản dị, trong sáng, gần gũi đời
sống, thay cho lối văn biền ngẫu nặng Hán văn.
- Đề cao tinh thần cá nhân:
tự do yêu đương, hôn nhân tự nguyện, quyền phụ nữ.
- Hiện đại hóa văn học Việt Nam: tiếp thu tinh thần lãng mạn và hiện thực phương Tây.
3. Ảnh hưởng trên chữ Quốc ngữ và văn hóa Việt Nam
a.
Đối với chữ Quốc ngữ
Văn
đoàn viết văn hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, với lối văn xuôi giản dị, trong
sáng, gần gũi với quần chúng. Loại bỏ nhiều từ Hán-Việt khó hiểu, thay bằng
từ thuần Việt. Đưa chữ Quốc ngữ vào báo chí, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,
trở thành ngôn ngữ văn học chủ đạo. Góp phần chuẩn hóa và phổ biến chữ Quốc ngữ
như ngôn ngữ văn học, báo chí hiện đại. Các tác phẩm tiểu thuyết, phóng
sự, kịch… trở thành mẫu mực ngôn ngữ mới cho thế hệ thanh niên.
b.
Đối với văn hóa – xã hội
Văn học hiện thực phản ánh đời sống xã hội đương thời, phê phán hủ tục (trọng nam khinh nữ, cưới ép, đa thê…). Đề cao cá nhân, tự do hôn nhân, bình đẳng nam nữ để truyền bá tư tưởng canh tân.
Tự Lực Văn Đoàn tạo ra diễn đàn văn hóa
mới, định hướng dư luận xã hội qua báo chí – xuất bản như các tờ Phong
Hóa, Ngày Nay,
Tự Lực Văn Đoàn mang tinh thần lãng mạn
phương Tây vào văn học, nghệ thuật (tiểu thuyết lãng mạn, hội họa).
Tự Lực Văn
Đàn có ảnh hưởng lâu dài, đặt nền cho văn học
Việt Nam hiện đại, giúp xã hội quen với chữ Quốc ngữ trong các lĩnh vực tư
tưởng, nghệ thuật, đời sống hàng ngày.
4. Một số tác phẩm nổi bật
Đoạn tuyệt
(Nhất Linh, 1934) – về hôn nhân tự do, phản đối hôn nhân sắp đặt.
Nửa chừng xuân
(Khái Hưng, 1934) – phê phán lễ giáo, cổ vũ tự do tình yêu.
Đời mưa gió
(Nhất Linh & Khái Hưng, 1934) – tiểu thuyết xã hội.
Gánh hàng hoa
(Nhất Linh & Khái Hưng, 1934).
Hồn bướm mơ tiên
(Khái Hưng, 1933) – tiểu thuyết tình yêu, lãng mạn.
Gió đầu mùa
(Thạch Lam, 1937) – tập truyện ngắn tinh tế.
Một đêm trăng
(Thế Lữ, kịch).
Thơ Tú Mỡ – trào phúng, đả kích hủ tục xã hội…
Tóm lại, Tự Lực Văn Đoàn (1932) là nhóm
văn bút gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ... Họ chủ
trương dùng văn chương để cải cách xã hội, đề cao tự do cá nhân, phê phán lễ
giáo phong kiến. Về chữ Quốc ngữ, nhóm đã góp phần chuẩn hóa văn phong: trong
sáng, giản dị, dễ hiểu – một ảnh hưởng còn thấy rõ trong văn học và báo chí
Việt Nam hiện nay. Các tác phẩm như Đoạn
tuyệt, Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Gió đầu mùa là những dấu mốc
văn học hiện đại Việt Nam.
ĐẶNG ĐỨC TUẤN
Đặng Đức Tuấn (1806–1874) – đây là một
nhân vật trí thức, học giả lớn của đất Bình Định, gắn liền với lịch sử văn hóa
và tôn giáo Việt Nam TK XIX.
1. Tiểu sử
Sinh năm 1806 tại Bình Định, xuất thân trong một gia đình Công giáo có truyền thống
hiếu học.
Năm
1840, ông được giới thiệu đến Giám mục Cuénot Thể cho vị trí giáo sư Hán văn tại Chủng viên Penang
(thuộc Malaysia ngày
nay). Năm 1846, ông được đưa vào Gia Định, sau đó xuống tàu đi Penang. Tại Chủng viện Penang,
ngoài việc dạy Hán văn, ông còn nghiên cứu và học thêm tiếng
Pháp và tiếng
Latin, cũng như nhiều kiến thức văn
hóa Tây phương. Sau 7 năm dạy và học ở chủng viện, ông được thụ phong
chức Phó tế và
trở về quê hương. Sau một thời gian phục vụ tại Giáo phận Đông Đàng Trong, năm
1856, ông được Giám mục Cuénot Thể truyền chức linh mục tại Tòa
Giám mục Gò Thị và được bổ nhiệm
làm việc tại Tư Ngãi (Tư Nghĩa, Quảng
Ngãi ngày nay).
Năm 1862 vua Tự đức phát hiện tài năng của Đặng Đức Tuấn, cha
được cử làm tùy viên trong phái đoàn nghị hòa Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp
vào Gia Định thương nghị với Pháp ký Hòa ước Nhâm Tuất
Cha
nổi tiếng uyên bác, tinh thông cả Hán học, quốc ngữ và thần học. Cha xem là một
trong những linh mục trí thức hàng đầu của Giáo hội Việt Nam thế kỷ XIX.
Mất
năm 1874, nhà thờ Nước Nhỉ, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Địnhđể
lại nhiều tác phẩm Hán Nôm và quốc ngữ.
2. Sự nghiệp văn chương & tác phẩm
Lm.
Đặng Đức Tuấn được xem là người dùng Hán văn và quốc ngữ để viết sách
đạo rất sớm, cầu nối giữa
văn hóa truyền thống và Kitô giáo. Một số tác phẩm:
- Việt Nam giáo sử diễn ca (Lược sử truyền giáo của Kitô giáo từ thời hậu Lê cho đến chỉ dụ phân
sáp của vua Tự Đức).
- Lâm nạn phùng quốc hành (Thuật lại những
sự kiện từ khi bị bắt ở Nga Mân đến lúc vua Tự Đức ra chỉ dụ bãi bỏ lệnh phân
sáp).
- Hoành mao hiến bình Tây sách (Hiến kế sách dẹp giặc Tây của một kẻ sĩ ở
nhà tranh).
- Minh đạo bình Tây sách (Làm sáng rõ đạo để dẹp yên giặc Tây)
- Nguyên Đạo (Bản văn ngắn gửi
cho bộ Binh trình bày nguồn gốc Kitô giáo).
- Văn tế Đức cha Thể.
- Minh dân vệ Đạo khúc (Trình bày chân
lý Kitô giáo nhằm đáp lại bài “Hoán mê khúc” của quan Án sát Ngụy Khắc Đản đã hiểu sai về Kitô giáo).
- Kim thạch giải sầu ca (Bài thơ an ủi
giáo dân trung thành với đức tin Kitô giáo).
- Cách ngôn liên bích (Chỉ dẫn giáo
dân xử thế lập thân, sống đạo bằng những những câu cách ngôn).
- Văn tế các đẳng (Văn tế những
người quá cố).
- Minh tâm linh số (Bài thơ chữ Hán
thể thất ngôn, chữ đầu của câu thơ là một chữ số nói về một chân lý đức tin).
- Thống hối đề ngâm (Nói lên sự cần
thiết và lý do thống hối lỗi lầm).
- Cải quá tự tân luận (Khuyên giáo dân
chừa bỏ Bảy mối tội đầu).
3. Đóng góp cho Triều Nguyễn
2 tác phẩm Hoành mao hiến bình Tây sách (Kế sách
dùng râu tóc mà bình Tây) và Minh
đạo bình Tây sách (Kế sách sáng
tỏ đạo lý để dẹp giặc Tây) là hai bản dâng lên triều đình nhà Nguyễn, trình bày kế
sách chống Pháp nhưng đồng thời minh oan cho đạo Công giáo,
nhằm thuyết phục vua quan rằng: Người Công giáo không phải tay sai của Pháp.
Công giáo có thể đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc kháng chiến. và chống
Pháp phải bằng sức mạnh toàn dân, trong đó có tín hữu Công giáo.
Bởi
vì lúc đó Triều đình (nhất là dưới vua Tự Đức) vẫn mang định kiến rằng “theo đạo = theo Tây”. Do đó, các tác phẩm của Lm. Tuấn không được triều đình đón nhận rộng rãi. Đồng thời một số quan lại có tinh thần cởi mở đánh giá
cao lòng trung thành của Lm. Tuấn, nhưng chủ
trương chính thức vẫn là nghi kỵ, đàn áp Công giáo.
Nên các tác phẩm này không thay đổi được
chính sách cấm đạo của triều
đình, nhưng cho thấy người Công giáo có những
tiếng nói trung thành với đất nước.
Song chứng
minh có những trí thức Công giáo như Linh mục Đăng Đức Tuấn, một mặt yêu nước,
một mặt trung thành với Giáo hội và đặt nền cho lập luận rằng Công giáo không
đối lập với dân tộc, mà có thể hội nhập và đóng góp.
Các
tác phẩm này là bằng chứng hiếm hoi cho thấy tầng lớp trí thức Công giáo đã can đảm đối thoại trực tiếp với
triều đình, dù không
thành công. Tiếp theo có Nguyễn Trường Tộ, một người công giáo yêu nước khác.
4. Ảnh hưởng trong
văn hóa dân tộc và tôn giáo
Đặng
Đức Tuấn đã dùng thơ ca dân tộc (lục
bát, song thất lục bát, ca dao)
để diễn đạt nội dung Kitô giáo. Ông là một trong những người tiên phong sử dụng
thơ ca dân gian (lục bát) để truyền tải tri thức Kitô giáo. Góp phần sớm đưa chữ quốc ngữ và
cả Hán Nôm vào việc giảng dạy đạo lý. Mở đường cho sự hòa nhập giữa Kitô
giáo và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Trong tôn giáo các tác phẩm của Đặng Đức Tuấn giúp tín hữu dễ hiểu Kinh
Thánh, dễ nhớ giáo lý. Được xem như “nhà hộ giáo bằng văn chương”, và có ảnh
hưởng đến nhiều thế hệ giáo sĩ và giáo dân ở miền Trung, đặc biệt trong Giáo
phận Qui Nhơn.
Các
tác phẩm của Đặng Đức Tuấn trở thành tài liệu truyền giáo, giáo dục tín
lý nhưng đồng thời cũng là tác phẩm văn học, đóng góp
vào kho tàng văn hóa dân gian – bác học Việt Nam.
Tóm lại, Linh mục Đặng Đức Tuấn vừa là một tác giả văn học,
vừa là một nhà trí thức chính trị. Trong văn học, ngài tiên phong đưa giáo lý
và lịch sử Kitô giáo vào thể thơ lục bát, hội nhập sâu với văn hóa Việt. Trong
chính trị, ngài mạnh dạn đối thoại với triều đình, khẳng định người Công giáo
có thể cùng dân tộc chống ngoại xâm. Dù không được triều đình chấp nhận trọn vẹn,
tư tưởng của ngài đã mở ra một hướng đi mới, đặt nền móng cho sự hội nhập giữa
đạo và đời trong lịch sử Việt Nam.
THI SĨ HÀN MẶC TỬ
1. Tiểu sử Hàn Mặc Tử
Tên
thật là Nguyễn Trọng Trí.
Cha
là ông Phaolô Vinh Sơn Nguyễn Văn Toản và mẹ là bà Maria Nguyễn Thị Duy.
Sinh
này 22/9/1912 tại Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình.
Ông
được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phêrô, thêm sức là Phanxicô.
Lớn
lên tại Quy Nhơn, nơi có nhiều kỷ niệm đời thơ.
Từ
nhỏ đã ham học chữ Hán, quốc ngữ, Pháp văn, yêu thơ ca.
Bút
danh ban đầu là Minh Duệ Thị, Phong thần, Lệ Thanh, sau đổi thành Hàn Mặc Tử (nghĩa là “chàng trai họ
Hàn, làm thơ trong bóng tối”).
2. Sự Nghiệp Văn Chương
Khởi
đầu ông làm thơ Đường luật, thơ lãng mạn, trữ tình.
Giai
đoạn đỉnh cao (1936–1940): sáng tác nhiều tập thơ độc đáo, đầy màu sắc siêu
thực và tôn giáo.
Gái quê (1936) – tập thơ đầu tay.
Đau thương (1939, còn gọi là Thơ điên) – tập thơ quan trọng, đánh dấu
bước ngoặt thi ca.
Xuân như ý, Cẩm châu duyên, Quần tiên
hội.
Nhiều
bài thơ nổi tiếng: Đây thôn Vỹ Dạ, Trường tương tư, Lưu luyến, …Thơ ông có sự
kết hợp: lãng mạn – tượng trưng – siêu thực – tôn giáo.
3. Cuộc Đời Đau Thương & Cái
Chết
Năm
1937, ông phát hiện mắc bệnh phong (hủi).
Vào
điều trị và sống ẩn dật ở trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn).
Trong
hoàn cảnh đau đớn, thơ ông càng thấm đẫm khát vọng yêu thương, hướng về Chúa,
về Đức Mẹ.
Qua
đời ngày 11/11/1940 tại Quy Hòa, khi mới 28 tuổi.
4.
Ảnh Hưởng & Giá Trị
Trên
văn đàn, ông là thi sĩ tiêu biểu, độc đáo nhất của phong trào Thơ Mới
(1932–1945). Ông đã đưa vào thơ ca Việt Nam một thế giới tâm linh, huyền ảo,
siêu thực, vượt khỏi khuôn khổ lãng mạn thông thường. Thơ ông ảnh hưởng đến
nhiều nhà thơ thế hệ sau.
Trong
tôn giáo và xã hội ông là người Công giáo, thơ ông thể hiện tình yêu sâu nặng
với Đức Mẹ, Chúa Giêsu (Ave Maria, Lạy Mẹ Maria). Ông trở thành biểu tượng giao
thoa giữa nghệ thuật và đức tin, giữa nỗi đau và niềm hy vọng.
Nhiều
người xem ông như một “thi sĩ của ánh sáng” trong đau khổ.
Hoài
Thanh – Hoài Chân (Thi nhân Việt Nam, 1942) xem ông là “một nguồn thơ chưa từng
có trong lịch sử văn chương Việt Nam”. Cho rằng ông “lạ lùng, kỳ dị, đầy hồn
vía, vượt khỏi sự chừng mực của Thơ Mới”.
Dù
còn dang dở, thơ Hàn Mặc Tử đã mở ra những chân trời mới cho thi ca Việt.
“Hàn Mặc Tử
(1912–1940), quê Quảng Bình, gắn bó với Quy Nhơn, là một hiện tượng độc đáo của
phong trào Thơ Mới. Từ những vần thơ lãng mạn ban đầu, ông bước sang thế giới
thơ siêu thực và tôn giáo, kết tinh trong tập Đau thương (Thơ điên). Dù mang bệnh
phong, sống ngắn ngủi, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm cho văn học Việt Nam. Hoài
Thanh – Hoài Chân gọi ông là ‘một nguồn thơ chưa từng có’, còn người đời sau
xem ông như thi sĩ của niềm tin và hy vọng trong đau khổ.”
Trong những thi phẩm của
Hàn Mặc Tử, tôi thích nhất là bài Ave Maria. Khi đọc thi phẩm này, nhất là
trong đêm thanh vắng, với tâm hồn thanh tịnh, với sự yên tĩnh của vũ trụ, con
người như chạm vào sự linh thánh của trời cao, hay sự linh thánh từ thượng giới
đã chạm tới cái phàm trần của cõi đời tục lụy, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm
người!?
Ave Maria (Thánh Nữ Đồng Trinh Maria)
Như song lộc triều
nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.
Và Tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Hương xông lên lời ca ngợi sum hoà
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh.
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh!
Run như run thần tử thấy long nhan.
Run như run hơi thở chạm tơ vàng…
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi.
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
Giọng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị...
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí,
Và trong tay nắm một nạm hoà quang...
Tôi no rồi ơn võ lộ hoà chan.
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ
Ngọc như Ý vô tri còn biết cả
Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới...
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi
Thơm dường bao cho miệng lưỡi không khen
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng – bằng hương hoa sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân rất đỗi anh linh?
Đây rồi! Đây rồi! Chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý,
Trượng phu lời và tông đồ triết lý.
Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh.
Là nguồn đau chầu lụy nữ Đồng Trinh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyện ước...
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu!
Cho vỡ lở cả muôn nghìn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương.
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng.
Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ
Sẽ ngất ngây bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi.
Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng
Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.
Hàn Mặc Tử
Tập
thơ Đau Thương
ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ
Đây
phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực
huyền mơ!
Trăng sao đắm đuối trong
sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.
Ai
hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe dưới dáy nước hò
reo,
Để nghe tơ liễu rung trong
gió,
Và để xem người giải nghĩa
yêu.
Hành
thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm.
Hư thực làm sao phân biệt
được!
Sông Ngân hà nổi giữa màn
đêm.
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói
rằng.
Không một tiếng gì nghe động
chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao
băng…
(I. Hương Thơm) Hàn
Mặc Tử
NHỮNG GIỌT LỆ
Trời
hỡi, bao giờ tôi chết đi ?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành
máu
Và khối lòng tôi cứng tựa
si?
Họ
đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến
chưa bưa…
Người đi, một nửa hồn tôi
mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại
khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
?
Sao bông phượng nở trong màu
huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những
giọt châu ?
(II.
Mật Đắng) Hàn Mặc Tử
LƯU LUYẾN
Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì.
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong ánh gió băn khoăn.
Anh đã ngâm và đã thuộc làu
Cả ngàn rung động bởi thương đau
Bởi vì mê mẩn, vì khoan khoái
Anh cắn lời thơ để máu trào
Lời thơ ngậm cứng không rền rĩ
Mà máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội khắp nơi.
Em đã nghe qua em đã hay
Tình anh sao phải trúng mê say
Anh điên anh nói như người dại
Van lạy không gian xoá những ngày.
Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu
Những ngày mây lam cuốn dập dìu
Những mảnh nhạc vàng rơi lả tả
Những niềm run rẩy của đêm yêu
Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hồn em đã tới nơi.
(II. Mật Đắng) Hàn Mặc Tử
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ ?
Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy (*)
Của lời câm muôn vì sao áy náy
Hiểu gì không em hỡi! Hiểu gì không ?
Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng
Cho trăng xuân tràn trề say chới với
Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi
– Cho em buồn trời đất ứa sương khuya
Để em buồn, để em nghiệm cho ra
Cái gì kết lại mới thành tinh tú ?
Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ ?
Và tình yêu sao lại dở dang chi ?
Và vì đâu gió gọi giật lời đi ?
– Lời đi qua một chiều trong kẽ lá
Một mùi thơm mới nửa lừng sa ngã
Anh mến rồi ý vị của làn mơ ?
Lệ Kiều ơi! Em còn giữ ý thơ
Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo
Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo
Bên kia trời, hãy chụp cả lòng anh
Hãy van lơn ở dưới chân Bàn thành
Cho yêu ma muôn năm vùng trở dậy
Náo không gian cho lửa lòng bừng cháy
Và để cho kinh động đến người tiên
Đang say sưa ở thế giới hão huyền
Đang trững giỡn ở bên sông Ngân biếc…
Anh rõ trước: sẽ có ngày cách biệt
Ngó như gần song vẫn thiệt xa khơi!
Lau mắt đi đừng cho lệ đầy vơi
Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm lẻ loi trong dãy động
– Cũng hình như em hỡi, động Huyền Không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa…
Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru:
“Một mối tình nức nở giữa âm u
“Một hồn đau rã lần theo hương khói
“Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
“Một lời run hoi hóp giữa không trung
“Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng
“Hoá thành vũng máu đào trong ác lặng.”
Đấy là: tất cả người anh tiêu tán
Cùng Trăng Sao bàng bạc xứ say mơ
Cùng tình em tha thiết những văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế
(*) bảy: tiếng Huế có nghĩa là bay đi nhẹ nhàng.
(II. Mật Đắng) Hàn Mặc Tử
VỚT HỒN
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên
Trong thuyền mơ bỗng nghe ai đằng hắng
Thôi phải rồi đích thị tiếng ma điên
Hồn ta rú trong đêm sâu ảo não
Tiếng lung lay xao xuyến cả ngàn sao
Và bóng trăng trong âm thanh lảo đảo
Rã lần như hương khói giấc chiêm bao
Ta muốn hớp một hơi cho đã ngán
Khúc ly tao chìm nổi giữa lòng trăng
Ta cảm thấy hồn ta bay tản mạn
Nhập vào trong tia sáng của sao băng
Hồn ta hoá làm tơ trăng ẻo
lả
Để rung rinh lời nói của uyên ương
Để một khi trên xiêm đào vướng ngã
Để rình nghe hơi thở của tình nương
Và rượt theo đêm nay bao lượn sáng
Nhát ma le cho khiếp vía nàng ơi
Hãy theo ta ! Hãy theo ta chầm chậm
Xuống bờ sông mà vớt mảnh hồn trôi
(III. Máu cuồng
& Hồn điên)
Hàn Mặc Tử
CHẾ LAN VIÊN
Chế Lan
Viên một thi sĩ có giọng thơ u
uất, huyền bí, mang hồn Champa.
1. Tiểu sử
Tên thật
là Phan Ngọc Hoan.
Sinh ngày 23/10/1920 tại Cam Lộ (Quảng Trị), nhưng lớn lên và
trưởng thành ở Bình Định (quê mẹ).
Mất ngày 19/6/1989 tại TP. Hồ Chí Minh.
Sớm nổi tiếng từ
năm 17 tuổi với tập thơ Điêu tàn (1937), khi ấy vẫn là học sinh.
2. Văn nghiệp
Giai đoạn
Thơ Mới (1937–1945):
Với Điêu tàn, Chế Lan
Viên đem đến một tiếng thơ ma mị, ám ảnh, đầy
hoang phế và hồn ma Champa.
Thơ gợi cảnh tháp
Chàm đổ nát, vương quốc đã mất, linh hồn u uất của một dân tộc bị diệt vong.
Đây là một tiếng
nói hoàn toàn mới trong Thơ Mới: không lãng mạn êm ái, mà u huyền, siêu hình, khát khao bất tử.
3. Ảnh hưởng trong văn học & xã hội
Chế Lan Viên đem
đến cho văn đàn Thơ Mới một giọng điệu hoàn toàn khác lạ: đầy ám ảnh siêu hình, khơi dậy ký ức lịch sử – văn hóa Champa. Tạo bước ngoặt về cảm hứng siêu thực, tượng
trưng trong thơ Việt.
4. Nhận định của Hoài Thanh về Điêu tàn (trong Thi
nhân Việt Nam, 1942)
Hoài Thanh coi Điêu tàn là một
hiện tượng lạ lùng, chưa từng thấy trong Thơ Mới.
Ông nhận xét Chế
Lan Viên “đã mở ra một thế giới hồn ma, một vương quốc ma quái của
những linh hồn Chiêm Thành”. Tuy đôi khi ghê rợn, nhưng đó là cái đẹp rùng rợn, một
sự mở rộng biên độ của thơ ca. Nổi bật bởi nỗi ám ảnh về thời gian – sự
chết – sự tàn phai của vương quốc.
5. Một vài bài thơ tiêu biểu trong Điêu tàn
Tôi có
chờ đâu, có đợi đâu – tiếng lòng
u buồn, phủ định hy vọng.
Xuân – mùa xuân nhưng đầy ảo giác và rợn ngợp.
Những sợi
tơ lòng – buồn thương day dứt.
Bóng tối – gợi hồn ma u ám.
Điêu tàn – khúc ca bi tráng về sự hoang phế của Champa.
“Chế Lan Viên
(1920–1989) nổi tiếng từ 17 tuổi với tập thơ Điêu tàn – một hiện tượng lạ trong Thơ Mới, đưa vào thơ ca Việt
Nam cái đẹp ma quái, ám ảnh từ vương quốc Champa đã mất. Hoài Thanh nhận xét:
‘Chế Lan Viên đã mở ra một thế giới hồn ma, chưa từng có trong thơ Việt’. Sau
1945, ông trở thành nhà thơ – lý luận văn nghệ cách mạng. Chế Lan Viên vừa là
thi sĩ của hồn ma quá khứ, vừa là nhà thơ của công cuộc cách mạng hiện đại.”
Xuân
Tôi có chờ đâu,
có đợi đâu
Đem chi xuân lại
gợi thêm sầu?
- Với tôi, tất
cả như vô nghĩa
Tất cả không
ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại
mùa thu trước
Nhặt lấy cho
tôi những lá vàng?
Với của hoa
tươi, muôn cánh rã
Về đây, đem chắn
nẻo xuân sang!
Ai biết hồn tôi
say mộng ảo
Ý thu góp lại cản
tình xuân?
Có một người
nghèo không biết Tết
Mang lì chiếc
áo độ thu tàn!
Có đứa trẻ thơ
không biết khóc
Vô tình bỗng nổi
tiếng cười ran!
Chao ôi! Mong
nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim
thu lạc cuối ngàn.
Chế Lan Viên
Bóng Tối
Cả cảnh vật trần
gian cùng mờ xoá
Trong màn đen
huyền bí. Ta bảo lòng
"Ngày mai
đây muôn loài đều tan rã
Vũ trụ kia rồi
biến ra Hư Không!"
Nhưng ai bảo
đêm trần là cõi Chết?
Này, muôn cây
chắp nối điệu than dài
Này nghe chăng
trong trời sâu mờ mịt
Tiếng muôn
trùng rên rỉ giọng bi ai?
Trong làng xa,
tiếng trẻ thơ kêu khóc
Đàn chó già
nguyền rủa bóng đêm lan
Và mõ làng não
nùng reo lốc cốc
Tựa đầu lâu reo
dưới khớp xương tàn
Cũng như thế,
nơi xa xăm trong cõi Chết
Bao cô hồn vẫn
sống tháng ngày qua
Nước non Chàm
chẳng bao giờ tiêu diệt
Tháng ngày qua
vẫn sống với đêm mờ
Ta hãy nghe,
trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt người
nảy nở tiếng xương rên
Ta hãy nghe, mơ
màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng
thở khí trời đêm!
Ta hãy nghe,
trong lòng bao đỉnh Tháp
Tiếng thở than,
lời oán trách cơ trời
Ta hãy nghe,
trong gạnh Chàm rơi lác đác
Tiếng máu Chàm
ri rỉ chảy không thôi
Lòng hỡi lòng!
biết đâu là Âm giới?
Biết nơi đâu
Cõi Sống của muôn người?
Trong U Minh hồn
ta đương lạc lối
Trông tháng
ngày, yên để lệ sầu rơi!
Chế Lan Viên
Mộng
Ta vừa thấy
bóng Nàng trên cỏ biếc
Suối tóc dài êm
chảy giữa giòng trăng
Ta vừa nghe giọng
sầu bi tha thiết
Của Chiêm nương
gờn gợn sóng cung Hằng
Mộng tàn rồi!
Bóng người Chiêm nữ ấy
Biết tìm đâu,
lòng hỡi, dưới trăng ngà!
Trên trời cao
giòng Ngân kia lặng chảy
Thấy cùng chăng
tha thiết bóng xiêm qua?
Ta lặng lẽ nhìn
ra ngoài cửa Tháp
Cả đêm nay vì
sao buồn man mác!
Ngàn lau vàng
hoa trắng ngập bao la
Vẳng đâu đây,
rùng rợn dưới trăng mờ
Tiếng xương người
mạnh va sườn quách gỗ
Rùng rợn như...
tiếng vỡ sọ dừa ta!
Chế Lan Viên
Sông Linh
Dưới trời huyết,
tháp Chàm buồn tư lự
Khói lam chiều
nũng nịu lướt ngàn xanh
Bên đồi loáng
ánh tà dương rực rỡ
Quằn quại trôi
giòng máu thắm sông Linh
Trong gió rét,
tiếng huyết kêu rạo rực
Như cô hồn rạo
rực bãi tha ma
Khi ồ ạt như
muôn năm không dứt
Ồ ạt trôi nguồn
máu chiến trường xa
Khi hốt hoảng,
muôn cô hồn rảo bước
Khi lâm ly, Hời
khóc giữa đêm sâu
Khi nhẹ nhàng,
chiều thu kia tha thướt
Gió vàng êm ru
lá dưới mây sầu
Thi nhân sầu,
nhìn theo giòng huyết cuốn
Tâm hồn trôi
theo giải máu bơ vơ
Người vẳng
nghe, trong thành tim cuồn cuộn
Máu dân Chàm
lôi mạnh đống xương khô.
Chế Lan Viên
Đợi Người Chiêm Nữ
Tồi hôm nay chị
Hằng nghiêm nghị quá
Dãy cây vàng đợi
mộng, đứng im hơi
Không một mối
trăng ngà rung muôn lá
Không một làn
mây bạc vẩn chân trời
Thành Đồ Bàn
cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ
huyền ảo, lắng tai nghe
Từ một làng xa
xôi bao tiếng mõ
Tan dần trong
Im Lặng của đồng quê
Bên cửa Tháp
ngóng trông người Chiêm Nữ
Ta vẩn vơ nhìn
không khí bâng khuâng
Vài ngôi sao lẻ
loi hồi hộp thở
Một đôi cành tơ
liễu nhúng trong trăng!
Nàng không lại,
và nàng không lại nữa!
Cả thân ta dần
tan trong hơi thở
Ôi đêm nay,
lòng hỡi, biết bao sầu!
Kìa trời cao,
trên mãi chín từng cao
Hồn ta bay
trong một làn khói tỏa
Chẳng biết rồi
lưu lạc đàn nơi nao?
Chế Lan Viên
GIÁM
MỤC BÁ ĐA LỘC
Giám
mục Bá Đa Lộc (Pigneau de
Béhaine) là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, vừa
có ảnh hưởng chính trị sâu đậm đến Nguyễn
Ánh (vua Gia Long), vừa để lại dấu ấn trong lịch sử truyền giáo Công giáo tại Việt Nam.
1.
Tiểu sử ngắn
Tên đầy đủ là Pierre Joseph Georges Pigneau de
Béhaine.
Sinh năm 1741, tại Origny (Pháp).
Thuộc Hội thừa
sai Paris (MEP),
được sai sang truyền giáo ở Nam Á.
1765 đến Hà Tiên (Đàng Trong), bắt đầu sứ vụ truyền
giáo.
1771 được bổ nhiệm làm Giám mục hiệu tòa Adran.
Là
người thông thạo tiếng Việt, có uy tín trong cộng đồng tín hữu Công giáo Đàng
Trong.
2.
Quan hệ với Nguyễn Ánh
Khi Tây Sơn nổi dậy, triều Nguyễn lâm
nguy. Nguyễn Ánh (cháu nội
Nguyễn Phúc Khoát) chạy trốn nhiều nơi.
Bá Đa Lộc là người đã cưu mang, bảo vệ Nguyễn
Ánh, đặc biệt giúp đỡ trong lúc nguy khốn.
Năm 1787, Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh (con trai Nguyễn Ánh) sang Pháp để cầu viện.
Ký kết Hiệp ước Versailles (1787)
giữa đại diện Nguyễn Ánh và chính quyền Pháp: hứa Pháp sẽ viện trợ quân, tàu,
vũ khí; đổi lại Nguyễn Ánh nhượng cho Pháp một số quyền lợi ở cảng biển.
Do cách mạng Pháp nổ ra, hiệp ước không
được thi hành trọn vẹn, nhưng Bá Đa Lộc vẫn tự mình quyên góp, mua vũ khí, thuê
lính đánh thuê và kỹ sư Pháp sang giúp Nguyễn Ánh.
Chính nhờ sự hỗ trợ này, Nguyễn Ánh dần
củng cố lực lượng, có hạm đội tàu kiểu Tây phương, đại bác, kỹ thuật quân sự
hiện đại – giúp thắng lợi trong trận Thị Nại (1801) và tiến tới thống nhất đất
nước (1802).
3.
Vai trò trong lịch sử truyền giáo Việt Nam
- Bá Đa Lộc không chỉ là nhà chính trị, mà còn là nhà truyền giáo: Chăm lo cho
cộng đoàn tín hữu Công giáo ở Nam Bộ, đặc biệt ở vùng Hà Tiên, Đồng Nai, Gia
Định. Đào tạo hàng ngũ giáo sĩ bản xứ, tổ chức việc dạy học, giúp phát triển
chữ Quốc ngữ.
- Ngài được nhiều giáo dân kính trọng
như một vị mục tử tận tụy.
- Tuy nhiên, do can dự sâu vào chính
trị, hình ảnh của ngài trong lịch sử khá hai chiều:
Người Công giáo nhìn ngài như một vị
giám mục đã góp phần bảo vệ và phát triển đức tin.
Một số sử gia phê phán ngài vì gắn bó
quá mức với Nguyễn Ánh, đưa ngoại binh và vũ khí phương Tây vào Việt Nam.
4.
Kết thúc cuộc đời
1799, Bá Đa Lộc qua đời tại Quy Nhơn, đúng
lúc cùng Nguyễn Ánh đang vây hãm thành Quy Nhơn.
Ông được chôn cất tại Gò Thị (Tuy
Phước, Bình Định), sau đó di hài được cải táng về Sài Gòn.
Nguyễn Ánh rất thương tiếc, coi Bá Đa
Lộc như một ân nhân lớn.
5.
Ảnh hưởng lâu dài
Với chính trị
ông mở
đầu mối liên hệ Pháp – Việt, đặt nền cho những can thiệp của Pháp sau này.
Với Tôn giáo
ông góp phần duy trì và
phát triển Giáo hội Việt Nam trong giai đoạn loạn lạc; hình ảnh “một vị mục tử
trung thành giữa cơn bách hại”.
Với Văn hóa
ông thúc đẩy việc học
chữ Quốc ngữ, giáo dục, và truyền bá kiến thức Tây phương.
Tóm lại, Bá Đa Lộc là một giám mục thừa sai Pháp (1741–1799), người vừa đóng vai trò then chốt trong việc phò trợ Nguyễn Ánh phục quốc, vừa là vị mục tử kiên trung trong công cuộc truyền giáo. Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử chính trị, văn hóa và Giáo hội Việt Nam, với cả ánh sáng lẫn những tranh luận.







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét