1. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI CỦA GP.BMT
GIÁO PHẬN QUI NHƠN
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN
Giáo phận Qui
Nhơn ngày nay gồm: Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Phía Bắc giáp Quảng Nam,
Giáo phận Đà Nẵng; phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, Giáo phận Nha Trang; phía Đông
giáp biển Đông; phía Tây giáp Giáo phận Kontum và Giáo phận Ban Mê Thuột. Diện
tích: 16.251 km². Sắc tộc: 90% là người Kinh, còn lại là một số người dân tộc:
Chăm H’roi, Bahna, Cùa (Co), Hrê, Êđê, Raglai, Mnông, Tày, Nùng, Dao, Sán
Dìu... tập trung sinh sống tại các huyện miền núi của cả ba tỉnh.
Giáo phận Qui
Nhơn ngày nay là phần còn lại của Giáo phận Đàng Trong rộng lớn ngày xưa. Nhắc
lại nguồn gốc Giáo phận Qui Nhơn là nhắc lại những trang sử truyền giáo đầu
tiên trên mảnh đất miền Trung và miền Nam nước Việt.
1.
Thời Kỳ Bảo Trợ Truyền Giáo (1615-1659)
Ngày 18 tháng
01 năm 1615, ba thừa sai Dòng Tên đi từ Ma Cao (Áo Môn) là cha Phanxicô Buzomi
(Ý), cha Điôgô Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antôn Dias (Bồ Đào Nha) đã cập bến
Cửa Hàn (Đà Nẵng). Phái đoàn cha Buzomi đến Cửa Hàn nhưng sau đó đến ở tại Hội
An (Faifo). Lúc bấy giờ Hội An là một đặc khu thương mại được chúa Nguyễn dành
cho người Nhật và người Hoa. Trước khi phái đoàn các cha Dòng Tên đến, tại Hội
An đã có một ít Kitô hữu Nhật kiều.
Nhờ sự giúp đỡ
của quan tuần phủ Qui Nhơn Trần Đức Hòa, tháng 07 năm 1618, cha Phanxicô Buzomi cùng với cha Phanxicô de
Pina, cha Christôphôrô Borri, thầy Antôn Dias đến phủ Qui Nhơn (tỉnh Bình Định
ngày nay), thành lập cư sở tại Nước Mặn,
cách phủ lỵ Qui Nhơn thời ấy khoảng 12km đường bộ. Địa bàn truyền giáo của các
thừa sai thuộc cư sở Nước Mặn bao trùm cả phủ Quảng Ngãi, phủ Qui Nhơn và phủ
Phú Yên.
Lúc bấy giờ Nước
Mặn chẳng những là một trung tâm truyền giáo, mà còn là nơi các thừa sai bắt đầu
sáng tạo chữ quốc ngữ trong giai đoạn
đầu. Đáng chú ý là trong thời kỳ đầu truyền giáo, các thừa sai Dòng Tên đã có
chính sách bản xứ hóa việc truyền giáo. Do đó, ngoài việc sáng tạo chữ quốc ngữ
để làm phương tiện rao giảng Tin Mừng cho người Việt, các ngài còn thiết lập hội thầy giảng để có người Việt tham
gia vào sứ vụ rao giảng này. Trong số các thầy giảng có Anrê Phú Yên được cha Alexandre
de Rhodes (quen gọi là cha Đắc Lộ) rửa tội tại dinh trấn Phú Yên năm 1641,
chịu tử đạo ngày 26 tháng 07 năm 1644 và trở thành Người Chứng Thứ Nhất của Hội
Thánh Việt Nam.
2.
Thời Kỳ Các Vị Đại Diện
Tông Tòa (1659-1960)
Nhờ sự vận động
của cha Đắc Lộ, ngày 09 tháng 09 năm 1659,
Đức Thánh Cha Alexander III ban sắc lệnh thành lập 2 giáo phận truyền giáo đầu
tiên tại Việt Nam. Giáo phận Đàng Trong: Từ sông Gianh vào Nam, gồm Chiêm Thành
và Cao Miên, do Đức cha Pierre Lambert
de la Motte làm Đại diện tông tòa.
Giáo phận Đàng
Ngoài: Từ sông Gianh trở ra Miền Bắc và Miền Nam Trung Hoa, do Đức cha Francois Pallu cai quản.
Ngày 10/11/1659
Hội Thừa sai Hải Ngoại Paris được thành lập.
Trong thời kỳ
này Hội thừa sai Paris đóng vai trò chính, với sự cộng tác của các thừa
sai Dòng Tên, Dòng Phanxicô và một vài
dòng khác, các thừa sai của Thánh bộ Truyền bá Đức tin, các linh mục, tu sĩ, thầy
giảng và tông đồ giáo dân Việt Nam.
Gần cuối năm
1671, lần đầu tiên, Đức cha Lambert mới đến được nhiệm sở của mình. Trong chuyến
viếng thăm mục vụ nầy, vào tháng 12 năm 1671, Đức cha thiết lập Dòng Chị Em Mến
Thánh Giá tại An Chỉ, nay thuộc giáo xứ Châu Me. Đây cũng là quê quán của cha Giuse Trang, vị linh mục người Việt
tiên khởi, nguyên là thầy giảng, được Đức cha Lambert truyền chức linh mục vào
ngày 31 tháng 03 năm 1668 tại Thái Lan.
Sau Đức cha
Phêrô Lambert de La Motte, cánh đồng truyền giáo Đàng Trong mở rộng dần về phía
Nam dưới sự cai quản của các chủ chăn kế tiếp, trong đó có các Đức cha nổi bật
như Đức cha Phêrô Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc, 1771-1799) Đức cha Gioan
Taberd Từ (1827-1840) và Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể (1835-1840).
Đức cha Stêphanô Cuénot Thể (1840-1861), vị chủ
chăn thứ mười của Giáo phận Đàng Trong đặt Tòa giám mục tại Gò Thị. Tại đây,
ngày 05, 06 và 10 tháng 08 năm 1841, Đức cha triệu tập công nghị Giáo phận Đàng Trong để thống nhất công việc mục vụ và truyền
giáo trong toàn Giáo phận.
Ngày 17 tháng
05 năm 1844: Đức Thánh Cha chia Giáo phận Đàng Trong thành hai giáo
phận mới: Giáo phận Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) và Giáo phận Tây Đàng Trong (Sài
Gòn) gồm lục tỉnh Nam Kỳ và Cao Miên. Giáo phận Đông Đàng Trong do Đức cha
Stêphanô Cuénot cai quản.
Ngày 27 tháng
08 năm 1850: Tòa Thánh chia Giáo phận Đông Đàng Trong thành hai giáo phận: Giáo
phận Bắc Đàng Trong (một phần của tỉnh Quãng Bình, Quãng Trị và Thừa Thiên) và
Giáo phận Đông Đàng Trong (từ Đà Nẵng, Quy Nhơn đến Phan Thiết)
Sau nhiều lần,
nhiều cách, Đức cha Stêphanô Cuénot Thể tìm đường truyền giáo Tây Nguyên nhưng
không thành công. Năm 1848, thầy sáu Phanxicô Xaviê Nguyễn Do, nguyên quán Đồng
Hâu, Bình Định, đóng vai một người giúp việc cho chủ lái buôn, đã trở thành người
tiên phong thực hiện thành công ý định của Đức cha và miền truyền giáo Tây
Nguyên thành hình từ đó.
Trong cuộc bách
hại dưới triều Tự Đức, trùm cả Anrê Nguyễn Kim Thông đã chết vì đạo
ngày 15 tháng 07 năm 1855. Sáu năm sau, chính Đức cha Stêphanô Thể cũng chịu tử đạo ngày 14 tháng 11 năm 1861 và trong thời
gian từ năm 1860 đến 1862 còn có 41 vị khác cũng đã chịu chết vì đạo. Năm 1862 cuộc bách hại chấm dứt, Giáo phận
phục hồi dưới sự cai quản của Đức cha Eugêniô Charbonnier Trí (1864-1878). Sau
vài năm ở Gia Hựu, Đức cha về Làng Sông và đặt Tòa Giám mục ở đó. Giáo phận tiếp
tục phát triển dưới thời Đức cha Luy Galibert Lợi (1879-1883). Nhưng năm 1885,
dưới thời Đức cha Phanxicô Xaviê Van Camelbeke Hân (1884-1901) một cuộc tàn sát
khủng khiếp do nhóm Văn Thân thực hiện
đã giết chết 8 thừa sai Pháp, 7 linh mục Việt, 60 thầy giảng, 270 nữ tu và trên
24.000 giáo dân. Riêng trong ba tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, số giáo
dân bị sát hại là 19.690 người.
Ngày 03 tháng
12 năm 1924, Giáo phận Đông Đàng Trong được gọi là Giáo phận Qui Nhơn cho đến ngày nay. Đức cha Grangeon xây dựng Tiểu
chủng viện Làng Sông từ năm 1925 đến 1927, khởi đầu tiến trình thành lập Dòng Mến
Thánh Giá cải tổ và Dòng Thánh Giuse năm 1926, thành lập trại phong Qui Hòa năm
1929.
Năm 1931, Đức
cha Augustinô Tardieu Phú (1929-1942) chuyển Tòa giám mục từ Làng Sông về Qui
Nhơn, xây dựng Đại chủng viện Qui Nhơn, ban sắc chỉ thành lập Dòng Thánh Giuse.
Ngày 18 tháng
01 năm 1932 vùng Tây Nguyên được
tách khỏi Giáo phận Qui Nhơn để thành lập Giáo phận Kontum.
Năm 1932, Tòa giám mục Qui Nhơn được xây dựng và
hoàn thành năm 1936. Nhà thờ Chính tòa hoàn thành năm 1939.
Ngày 05 tháng
07 năm 1957, Toà Thánh tách hai tỉnh
Khánh Hoà và Ninh Thuận khỏi Giáo phận Qui Nhơn cộng với tỉnh Bình Thuận thuộc
Giáo phận Sài Gòn để thành lập Giáo phận
Nha Trang và đặt dưới quyền cai quản của Đức cha Piquet Lợi. Phần đất còn lại
của Giáo phận Qui Nhơn được giao cho Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi cai quản (1957-1963).
3. THỜI KỲ HÀNG GIÁO PHẨM VIỆT NAM (1960 đến nay)
Ngày 24 tháng 11
năm 1960, thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
ban hành Tông hiến Venerabilium Nostrorum, thành lập Hàng Giáo phẩm Công Giáo Việt
Nam, Đức cha Phêrô
Maria Phạm Ngọc Chi trở thành Giám mục Chính tòa tiên khởi Giáo phận Qui
Nhơn.
Ngày 18 tháng 01 năm 1963, Tòa Thánh lấy hai tỉnh
Quảng Nam và Quảng Tín của Giáo phận Qui Nhơn lập thành Giáo phận Đà Nẵng, bổ nhiệm Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám mục
Giáo phận Đà Nẵng; Đức cha Đaminh Hoàng
Văn Đoàn OP được bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn. Ngài qua đời vào ngày 20 tháng 05 năm 1974.
Ngày
29 tháng 07 năm 1974, cha Phaolô Huỳnh
Đông Các được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn
(1974-1999).
Ngày 19 tháng 06
năm 1999, Tòa Thánh bổ nhiệm cha Phêrô
Nguyễn Soạn làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn (1999-2012). Ngày 31 tháng 12 năm 2009, Tòa Thánh bổ nhiệm cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi làm Giám
mục phó để cộng tác với Đức cha Phêrô trong việc phát triển Giáo phận.
Ngày 30 tháng 06 năm 2012, Đức cha Matthêô trở thành Giám
mục Chính tòa Giáo phận Qui Nhơn. Đức cha Matthêô đẩy mạnh công cuộc truyền
giáo của Giáo phận hướng về ngày kỷ niệm 400 năm Tin Mừng đến với Giáo phận
(1618-2018).
4. TỔNG KẾT
Qua
400 năm truyền giáo, trang sử Giáo phận Qui Nhơn ghi đậm dấu ấn bằng máu đào và
mồ hôi nước mắt của các bậc tiền nhân là các Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ,
thầy giảng và những tông đồ giáo dân nhiệt thành.
Tiêu
biểu cho các bậc tiền nhân này có Chân phước Anrê Phú Yên (1625-1644), thầy giảng,
người chứng thứ nhất của Hội Thánh Việt Nam; Thánh Phanxicô Isidore Gagelin Kính (1799-1833), linh mục, đã hy
sinh mạng sống vì đoàn chiên; Thánh Anrê
Nguyễn Kim Thông (1790-1855), trùm cả, một người được quan chuộng dân yêu,
một đời tận tụy với dân nước, tổ chức khai khẩn đất hoang, phát triển dân sinh;
Thánh Stêphanô Cuénot Thể
(1802-1861), vị Giám mục truyền giáo và nhiều vị tử đạo cùng thời với ngài đã
được Giáo Hội đưa vào danh sách các Tôi tớ Chúa chờ ngày được tôn phong Chân
phước. Ngoài ra còn có các linh mục, thầy giảng, nữ tu và một số rất đông giáo
dân đã bị sát hại vì đức tin.
Bên cạnh các vị tử đạo đã tô thắm trang
sử Giáo phận bằng máu đào, còn có những cuộc đời ngoại hạng đã góp phần xây dựng
và phát triển Giáo phận bằng tâm huyết, tài năng và công lao vất vả của mình,
như các thừa sai Dòng Tên đã có công sáng tạo chữ quốc ngữ, góp phần rất lớn
vào việc rao giảng Tin Mừng cũng như cho nền văn hóa dân tộc; linh mục Gioakim
Đặng Đức Tuấn (1806-1874), một kẻ sĩ, một kho tàng văn hóa, một tình thương
dân tộc, một linh mục kết hợp nhuần nhuyễn nhân, trí, dũng Á Đông với triết lý
và thần học Kitô giáo để mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, cho dân tộc; linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Do (1823-1872),
người tiên phong mở đường đem ánh sáng Tin Mừng đến cho anh em dân tộc vùng Tây
Nguyên.
Vài
con số Thống kê hiện tại (khoảng cuối năm 2022 / cập nhật 2025)
Theo dữ liệu từ
GCatholic.org (cuối năm 2022, cập nhật 2025):
Diện tích:
16.194 km²
Dân số toàn
vùng: khoảng 4.725 triệu người
Tín hữu Công
giáo: 78.746 người (~1.7%)
Giáo xứ: 62
Các giáo điểm
13
Linh mục: tổng
cộng 132 (117 linh mục giáo phận, 15 linh mục dòng)
Tu sĩ: 361 (17
tu sĩ nam, 344 nữ tu)
Chủng sinh
(seminarians): 64.
Nguyễn Thái Hùng
Tài liệu tham khảo
Cẩm nang năm thánh
Giáo phận qui nhơn 2017-2018
và Internet
THÁNH PHANXICÔ
ISIDORE GAGELIN KÍNH
TỬ ĐẠO (1799-1833)
1. Tiểu sử
·
Tên đầy đủ: François-Isidore
Gagelin (tiếng Việt gọi là Phanxicô Ixađô Gagelin Kính).
Sinh
ngày 10.5.1799 tại Montperreux, Giáo phận Besançon, nước Pháp.
·
Năm 1817 đi tu học và
Gia nhập Hội Thừa sai Paris (MEP) với
ước nguyện truyền giáo ở Viễn Đông.
Năm 1821 đến Đàng Trong tại cửa Thuận An, Huế. Đức
cha Labartette chỉ định thầy đến chủng viện An Ninh để học tiếng Việt. Tại đây
thầy vừa học tiếng Việt vừa giúp dạy tiếng Latinh cho các chủng sinh và nhận
thêm tên Việt thầy Kính. Ngày 28 tháng 09 năm 1822, Đức cha Labartette truyền
chức linh mục cho thầy Gagelin Kính.
Sau khi chịu chức, ngài làm giáo sư chung viên An
Ninh một thời gian và làm mục vụ lân cận. Ngài nhanh chóng học tiếng Việt, gắn bó sâu sắc
với đời sống của giáo dân nơi đây.
2. Cuộc bách hại và Tử đạo
Thời
vua Minh Mạng, các chỉ dụ cấm đạo được thi hành rất gắt gao (1825, 1833).
Linh
mục Gagelin Kính bị truy lùng nhiều lần vì giảng đạo. Dù có cơ hội lẩn trốn,
ngài đã tự ra nộp mình để tránh liên lụy cho giáo dân.
Ngài
bị bắt giam, rồi giải về Huế.
Ngày
17.10.1833, ngài bị xử tử bằng
cách thắt cổ tại pháp trường Bãi
Dâu (Huế).
Xác
ngài được chôn cất kính cẩn, sau đó trở thành nguồn mạch đức tin cho cộng đoàn.
3. Tôn phong Hiển thánh
Năm 1900,
ngài được Đức Giáo hoàng Lêô
XIII tuyên phong Chân phước.
Ngày 19.6.1988 ngài được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong Hiển thánh.
Ngài
được kính nhớ ngày 17 tháng 10.
4. Ý nghĩa
Thánh
Phanxicô Isidore Gagelin là linh mục
thừa sai tiên khởi tử đạo tại Việt Nam trong thế kỷ XIX.
Cái
chết tự nguyện nộp mình để bảo vệ đoàn chiên của ngài đã nêu gương mục tử hiến mạng vì chiên (x. Ga 10,11).
Ngài
được xem là một trong những “người con
đầu tiên gieo máu tử đạo tại vùng Qui Nhơn”, mở đầu truyền thống anh
hùng đức tin cho giáo phận này.
Tóm
lại, Thánh Phanxicô Isidore Gagelin
Kính (1799–1833), linh mục Hội Thừa sai Paris, hoạt động truyền
giáo tại Qui Nhơn, đã anh dũng nộp mình và chịu tử đạo thắt cổ tại Huế. Ngài là
vị thừa sai tiên khởi tử đạo tại Việt
Nam thế kỷ XIX và là niềm tự hào của Giáo phận Qui Nhơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét