Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2025

1. NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI CỦA GP.BMT

1.  NHỮNG CHIA SẺ TRONG CHUYẾN HÀNH HƯƠNG VỀ NGUỒN CỦA LỚP NỒNG CỐT VI CỦA GP.BMT



GIÁO PHẬN QUI NHƠN

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN

 

Giáo phận Qui Nhơn ngày nay gồm: Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Phía Bắc giáp Quảng Nam, Giáo phận Đà Nẵng; phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, Giáo phận Nha Trang; phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp Giáo phận Kontum và Giáo phận Ban Mê Thuột. Diện tích: 16.251 km². Sắc tộc: 90% là người Kinh, còn lại là một số người dân tộc: Chăm H’roi, Bahna, Cùa (Co), Hrê, Êđê, Raglai, Mnông, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu... tập trung sinh sống tại các huyện miền núi của cả ba  tỉnh.

 

Giáo phận Qui Nhơn ngày nay là phần còn lại của Giáo phận Đàng Trong rộng lớn ngày xưa. Nhắc lại nguồn gốc Giáo phận Qui Nhơn là nhắc lại những trang sử truyền giáo đầu tiên trên mảnh đất miền Trung và miền Nam nước Việt.

 

1. Thời Kỳ Bảo Trợ Truyền Giáo (1615-1659)

 

Ngày 18 tháng 01 năm 1615, ba thừa sai Dòng Tên đi từ Ma Cao (Áo Môn) là cha Phanxicô Buzomi (Ý), cha Điôgô Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antôn Dias (Bồ Đào Nha) đã cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng). Phái đoàn cha Buzomi đến Cửa Hàn nhưng sau đó đến ở tại Hội An (Faifo). Lúc bấy giờ Hội An là một đặc khu thương mại được chúa Nguyễn dành cho người Nhật và người Hoa. Trước khi phái đoàn các cha Dòng Tên đến, tại Hội An đã có một ít Kitô hữu Nhật kiều.

 

Nhờ sự giúp đỡ của quan tuần phủ Qui Nhơn Trần Đức Hòa, tháng 07 năm 1618,  cha Phanxicô Buzomi cùng với cha Phanxicô de Pina, cha Christôphôrô Borri, thầy Antôn Dias đến phủ Qui Nhơn (tỉnh Bình Định ngày nay), thành lập cư sở tại Nước Mặn, cách phủ lỵ Qui Nhơn thời ấy khoảng 12km đường bộ. Địa bàn truyền giáo của các thừa sai thuộc cư sở Nước Mặn bao trùm cả phủ Quảng Ngãi, phủ Qui Nhơn và phủ Phú Yên.

 

Lúc bấy giờ Nước Mặn chẳng những là một trung tâm truyền giáo, mà còn là nơi các thừa sai bắt đầu sáng tạo chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu. Đáng chú ý là trong thời kỳ đầu truyền giáo, các thừa sai Dòng Tên đã có chính sách bản xứ hóa việc truyền giáo. Do đó, ngoài việc sáng tạo chữ quốc ngữ để làm phương tiện rao giảng Tin Mừng cho người Việt, các ngài còn thiết lập hội thầy giảng để có người Việt tham gia vào sứ vụ rao giảng này. Trong số các thầy giảng có Anrê Phú Yên được cha Alexandre de Rhodes (quen gọi là cha Đắc Lộ) rửa tội tại dinh trấn Phú Yên năm 1641, chịu tử đạo ngày 26 tháng 07 năm 1644 và trở thành Người Chứng Thứ Nhất của Hội Thánh Việt Nam.

 

2. Thời Kỳ Các Vị  Đại  Diện  Tông Tòa (1659-1960)

 

Nhờ sự vận động của cha Đắc Lộ, ngày 09 tháng 09 năm 1659, Đức Thánh Cha Alexander III ban sắc lệnh thành lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam. Giáo phận Đàng Trong: Từ sông Gianh vào Nam, gồm Chiêm Thành và Cao Miên, do Đức cha Pierre Lambert de la Motte làm Đại diện tông tòa.

 

Giáo phận Đàng Ngoài: Từ sông Gianh trở ra Miền Bắc và Miền Nam Trung Hoa, do Đức cha Francois Pallu cai quản.

 

Ngày 10/11/1659 Hội Thừa sai Hải Ngoại Paris được thành lập.

 

Trong thời kỳ này Hội thừa sai Paris đóng vai trò chính, với sự cộng tác của các thừa sai  Dòng Tên, Dòng Phanxicô và một vài dòng khác, các thừa sai của Thánh bộ Truyền bá Đức tin, các linh mục, tu sĩ, thầy giảng và tông đồ giáo dân Việt Nam.

 

Gần cuối năm 1671, lần đầu tiên, Đức cha Lambert mới đến được nhiệm sở của mình. Trong chuyến viếng thăm mục vụ nầy, vào tháng 12 năm 1671, Đức cha thiết lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá tại An Chỉ, nay thuộc giáo xứ Châu Me. Đây cũng là quê quán của cha Giuse Trang, vị linh mục người Việt tiên khởi, nguyên là thầy giảng, được Đức cha Lambert truyền chức linh mục vào ngày 31 tháng 03 năm 1668 tại Thái Lan. 

 

Sau Đức cha Phêrô Lambert de La Motte, cánh đồng truyền giáo Đàng Trong mở rộng dần về phía Nam dưới sự cai quản của các chủ chăn kế tiếp, trong đó có các Đức cha nổi bật như Đức cha Phêrô Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc, 1771-1799) Đức cha Gioan Taberd Từ (1827-1840) và Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể (1835-1840).

 

Đức cha Stêphanô Cuénot Thể (1840-1861), vị chủ chăn thứ mười của Giáo phận Đàng Trong đặt Tòa giám mục tại Gò Thị. Tại đây, ngày 05, 06 và 10 tháng 08 năm 1841, Đức cha triệu tập công nghị Giáo phận Đàng Trong để thống nhất công việc mục vụ và truyền giáo trong toàn Giáo phận.

 

Ngày 17 tháng 05 năm 1844: Đức Thánh Cha chia Giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận mới: Giáo phận Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) và Giáo phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn) gồm lục tỉnh Nam Kỳ và Cao Miên. Giáo phận Đông Đàng Trong do Đức cha Stêphanô Cuénot cai quản.

 

Ngày 27 tháng 08 năm 1850: Tòa Thánh chia Giáo phận Đông Đàng Trong thành hai giáo phận: Giáo phận Bắc Đàng Trong (một phần của tỉnh Quãng Bình, Quãng Trị và Thừa Thiên) và Giáo phận Đông Đàng Trong (từ Đà Nẵng, Quy Nhơn đến Phan Thiết)

 

Sau nhiều lần, nhiều cách, Đức cha Stêphanô Cuénot Thể tìm đường truyền giáo Tây Nguyên nhưng không thành công. Năm 1848, thầy sáu Phanxicô Xaviê Nguyễn Do, nguyên quán Đồng Hâu, Bình Định, đóng vai một người giúp việc cho chủ lái buôn, đã trở thành người tiên phong thực hiện thành công ý định của Đức cha và miền truyền giáo Tây Nguyên thành hình từ đó.

 

Trong cuộc bách hại dưới triều Tự Đức, trùm cả Anrê Nguyễn Kim Thông đã chết vì đạo ngày 15 tháng 07 năm 1855. Sáu năm sau, chính Đức cha Stêphanô Thể cũng chịu tử đạo ngày 14 tháng 11 năm 1861 và trong thời gian từ năm 1860 đến 1862 còn có 41 vị khác cũng đã chịu chết vì đạo. Năm 1862 cuộc bách hại chấm dứt, Giáo phận phục hồi dưới sự cai quản của Đức cha Eugêniô Charbonnier Trí (1864-1878). Sau vài năm ở Gia Hựu, Đức cha về Làng Sông và đặt Tòa Giám mục ở đó. Giáo phận tiếp tục phát triển dưới thời Đức cha Luy Galibert Lợi (1879-1883). Nhưng năm 1885, dưới thời Đức cha Phanxicô Xaviê Van Camelbeke Hân (1884-1901) một cuộc tàn sát khủng khiếp do nhóm Văn Thân thực hiện đã giết chết 8 thừa sai Pháp, 7 linh mục Việt, 60 thầy giảng, 270 nữ tu và trên 24.000 giáo dân. Riêng trong ba tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, số giáo dân bị sát hại là 19.690 người.

 

Ngày 03 tháng 12 năm 1924, Giáo phận Đông Đàng Trong được gọi là Giáo phận Qui Nhơn cho đến ngày nay. Đức cha Grangeon xây dựng Tiểu chủng viện Làng Sông từ năm 1925 đến 1927, khởi đầu tiến trình thành lập Dòng Mến Thánh Giá cải tổ và Dòng Thánh Giuse năm 1926, thành lập trại phong Qui Hòa năm 1929.

 

Năm 1931, Đức cha Augustinô Tardieu Phú (1929-1942) chuyển Tòa giám mục từ Làng Sông về Qui Nhơn, xây dựng Đại chủng viện Qui Nhơn, ban sắc chỉ thành lập Dòng Thánh Giuse.

 

Ngày 18 tháng 01 năm 1932 vùng Tây Nguyên được tách khỏi Giáo phận Qui Nhơn để thành lập Giáo phận Kontum.

 

Năm 1932, Tòa giám mục Qui Nhơn được xây dựng và hoàn thành năm 1936. Nhà thờ Chính tòa hoàn thành năm 1939.

 

Ngày 05 tháng 07 năm 1957, Toà Thánh tách hai tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận khỏi Giáo phận Qui Nhơn cộng với tỉnh Bình Thuận thuộc Giáo phận Sài Gòn để thành lập Giáo phận Nha Trang và đặt dưới quyền cai quản của Đức cha Piquet Lợi. Phần đất còn lại của Giáo phận Qui Nhơn được giao cho Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi cai quản (1957-1963).

 

3. THỜI KỲ HÀNG GIÁO PHẨM VIỆT NAM (1960 đến nay)

 

Ngày 24 tháng 11 năm 1960, thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Tông hiến Venerabilium Nostrorum, thành lập Hàng Giáo phẩm Công Giáo Việt Nam, Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi trở thành Giám mục Chính tòa tiên khởi Giáo phận Qui Nhơn. 

 

Ngày 18 tháng 01 năm 1963, Tòa Thánh lấy hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín của Giáo phận Qui Nhơn lập thành Giáo phận Đà Nẵng, bổ nhiệm Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám mục Giáo phận Đà Nẵng; Đức cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn OP được bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn. Ngài qua đời  vào ngày 20 tháng 05 năm 1974.

 

Ngày 29 tháng 07 năm 1974, cha Phaolô Huỳnh Đông Các được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn (1974-1999).

 

Ngày 19 tháng 06 năm 1999, Tòa Thánh bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Soạn làm Giám mục Giáo phận Qui Nhơn (1999-2012). Ngày 31 tháng 12 năm 2009, Tòa Thánh bổ nhiệm cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi làm Giám mục phó để cộng tác với Đức cha Phêrô trong việc phát triển Giáo phận.

 

Ngày 30 tháng 06 năm 2012, Đức cha Matthêô trở thành Giám mục Chính tòa Giáo phận Qui Nhơn. Đức cha Matthêô đẩy mạnh công cuộc truyền giáo của Giáo phận hướng về ngày kỷ niệm 400 năm Tin Mừng đến với Giáo phận (1618-2018).

 

4. TỔNG KẾT

 

Qua 400 năm truyền giáo, trang sử Giáo phận Qui Nhơn ghi đậm dấu ấn bằng máu đào và mồ hôi nước mắt của các bậc tiền nhân là các Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, thầy giảng và những tông đồ giáo dân nhiệt thành.

 

Tiêu biểu cho các bậc tiền nhân này có Chân phước Anrê Phú Yên (1625-1644), thầy giảng, người chứng thứ nhất của Hội Thánh Việt Nam; Thánh Phanxicô Isidore Gagelin Kính (1799-1833), linh mục, đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên; Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông (1790-1855), trùm cả, một người được quan chuộng dân yêu, một đời tận tụy với dân nước, tổ chức khai khẩn đất hoang, phát triển dân sinh; Thánh Stêphanô Cuénot Thể (1802-1861), vị Giám mục truyền giáo và nhiều vị tử đạo cùng thời với ngài đã được Giáo Hội đưa vào danh sách các Tôi tớ Chúa chờ ngày được tôn phong Chân phước. Ngoài ra còn có các linh mục, thầy giảng, nữ tu và một số rất đông giáo dân đã bị sát hại vì đức tin.

 

Bên cạnh các vị tử đạo đã tô thắm trang sử Giáo phận bằng máu đào, còn có những cuộc đời ngoại hạng đã góp phần xây dựng và phát triển Giáo phận bằng tâm huyết, tài năng và công lao vất vả của mình, như các thừa sai Dòng Tên đã có công sáng tạo chữ quốc ngữ, góp phần rất lớn vào việc rao giảng Tin Mừng cũng như cho nền văn hóa dân tộc; linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874), một kẻ sĩ, một kho tàng văn hóa, một tình thương dân tộc, một linh mục kết hợp nhuần nhuyễn nhân, trí, dũng Á Đông với triết lý và thần học Kitô giáo để mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, cho dân tộc; linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Do (1823-1872), người tiên phong mở đường đem ánh sáng Tin Mừng đến cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên.

 

Vài con số Thống kê hiện tại (khoảng cuối năm 2022 / cập nhật 2025)

Theo dữ liệu từ GCatholic.org (cuối năm 2022, cập nhật 2025):

Diện tích: 16.194 km²

Dân số toàn vùng: khoảng 4.725 triệu người

Tín hữu Công giáo: 78.746 người (~1.7%)

Giáo xứ: 62

Các giáo điểm 13

Linh mục: tổng cộng 132 (117 linh mục giáo phận, 15 linh mục dòng)

Tu sĩ: 361 (17 tu sĩ nam, 344 nữ tu)

Chủng sinh (seminarians): 64.

Nguyễn Thái Hùng

 

Tài liệu tham khảo

Cẩm nang năm thánh Giáo phận qui nhơn 2017-2018

và Internet

 

 

 

 

THÁNH PHANXICÔ ISIDORE GAGELIN KÍNH

TỬ ĐẠO (1799-1833)

 


1. Tiểu sử

·        Tên đầy đủ: François-Isidore Gagelin (tiếng Việt gọi là Phanxicô Ixađô Gagelin Kính).

Sinh ngày 10.5.1799 tại Montperreux, Giáo phận Besançon, nước Pháp.

·        Năm 1817 đi tu học và Gia nhập Hội Thừa sai Paris (MEP) với ước nguyện truyền giáo ở Viễn Đông.

Năm  1821 đến Đàng Trong tại cửa Thuận An, Huế. Đức cha Labartette chỉ định thầy đến chủng viện An Ninh để học tiếng Việt. Tại đây thầy vừa học tiếng Việt vừa giúp dạy tiếng Latinh cho các chủng sinh và nhận thêm tên Việt thầy Kính. Ngày 28 tháng 09 năm 1822, Đức cha Labartette truyền chức linh mục cho thầy Gagelin Kính.

Sau khi chịu chức, ngài làm giáo sư chung viên An Ninh một thời gian  và làm mục vụ lân cận. Ngài nhanh chóng học tiếng Việt, gắn bó sâu sắc với đời sống của giáo dân nơi đây.

2. Cuộc bách hại và Tử đạo

Thời vua Minh Mạng, các chỉ dụ cấm đạo được thi hành rất gắt gao (1825, 1833).

Linh mục Gagelin Kính bị truy lùng nhiều lần vì giảng đạo. Dù có cơ hội lẩn trốn, ngài đã tự ra nộp mình để tránh liên lụy cho giáo dân.

Ngài bị bắt giam, rồi giải về Huế.

Ngày 17.10.1833, ngài bị xử tử bằng cách thắt cổ tại pháp trường Bãi Dâu (Huế).

Xác ngài được chôn cất kính cẩn, sau đó trở thành nguồn mạch đức tin cho cộng đoàn.

3. Tôn phong Hiển thánh

Năm 1900, ngài được Đức Giáo hoàng Lêô XIII tuyên phong Chân phước.

Ngày 19.6.1988 ngài được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong Hiển thánh.

Ngài được kính nhớ ngày 17 tháng 10.

4. Ý nghĩa

Thánh Phanxicô Isidore Gagelin là linh mục thừa sai tiên khởi tử đạo tại Việt Nam trong thế kỷ XIX.

Cái chết tự nguyện nộp mình để bảo vệ đoàn chiên của ngài đã nêu gương mục tử hiến mạng vì chiên (x. Ga 10,11).

Ngài được xem là một trong những “người con đầu tiên gieo máu tử đạo tại vùng Qui Nhơn”, mở đầu truyền thống anh hùng đức tin cho giáo phận này.

Tóm lại, Thánh Phanxicô Isidore Gagelin Kính (1799–1833), linh mục Hội Thừa sai Paris, hoạt động truyền giáo tại Qui Nhơn, đã anh dũng nộp mình và chịu tử đạo thắt cổ tại Huế. Ngài là vị thừa sai tiên khởi tử đạo tại Việt Nam thế kỷ XIX và là niềm tự hào của Giáo phận Qui Nhơn.


















 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét