Trang

Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

LỜI NÓI TRONG CUỘC SỐNG

Tác giả: 
 Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy



I. LỜI NÓI TRONG CUỘC SỐNG

1. Lời nói

1.1. Chỉ có một cái miệng.

Chúng ta được sinh ra với đôi mắt nằm phía trước để luôn nhìn sự việc đang diễn ra thay vì cứ ngoái nhìn lại những điều đã qua.

Chúng ta được sinh ra với đôi tai – một bên trái và một bên phải – để có thể nghe cả hai phía, để nghe đủ những lời ca tụng cũng như những lời phê bình, để phân biệt đúng – sai.

Chúng ta được sinh ra với một bộ óc nằm dưới hộp sọ, cho dù có nghèo đi chăng nữa chúng ta vẫn luôn giàu có vì chẳng ai có thể lấy cắp được, bộ óc sản sinh ra nhiều suy nghĩ và ý tưởng độc đáo.

Chúng ta được sinh ra với đôi vai nối liền đôi tay để gánh vác những nhiệm vụ, trọng trách. Hơn nữa, một để giúp đỡ bản thân, một để giúp người khác. Chúng ta được sinh ra với một đôi chân dài và lớn để đi nhiều nơi, để mắt được quan sát, để não được mở rộng.

Nhưng chúng ta chỉ được sinh ra với một cái miệng, vì miệng là vũ khí sắc bén. Nó có thể làm tổn thương, làm đau lòng hay giết chết kẻ khác. Hãy ghi nhớ câu nói:

Nói ít, nhìn xem và lắng nghe nhiều. [1]

1.2. Phụ nữ hay nói

Có người nói phụ nữ sinh ra dường như là để nói! Quả thật, nghiên cứu cho biết mỗi ngày phụ nữ nói từ năm đến bảy ngàn từ mới thoả, và nghiên cứu còn cho biết số từ của một cô bé 3 tuổi, sẽ gấp đôi của một bé trai cùng tuổi; và bé gái dùng đến năm bậc ngữ điệu thay vì chỉ có ba như bé trai. Dù sống cảnh sống nào đi nữa, đã mang kiếp phụ nữ, xu hướng này rất khó tránh khỏi? Còn nam giới thì sao? Nhiều người xác nhận rằng phái nam cũng nói không kém gì phụ nữ mấy.Với những người lập gia đình cũng như người xuất gia. Lời nói lắm khi được dùng như những vũ khí lợi hại; có thể là do vô thức, nhưng cũng không ít khi chúng ta dùng chúng với ý thức sâu xa; những mũi tên nhọn được bắn với tầm nhắm cẩn thận. Một cô học viên của tôi đã nhiều năm lấn cấn về vấn đề ly dị hay không; lý do cũng vì không thể chịu nổi những lời mỉa mai, hạ giá của chồng. Vì thế, Nguyễn Trãi đã mô tả cái đáng sợ trong đời người, đó là sự sắc nhọn của miệng lưỡi và lòng người.

Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,
Lòng người quanh nửa nước non quanh

Sống dưới một mái nhà, nhiều năm tháng bên nhau, có khi vài chục, hay bốn, năm chục năm liền; phải chăng vì quá gần nhau, làm cho chúng ta nghĩ rằng mình biết nhau quá.[2]

biết rồi, nói mãi, khổ lắm!” Chúng ta có cảm tưởng là mình thuộc lòng nhau, nên dần dà đã mất đi độ nhạy cảm, mất đi sự tôn trọng, bớt đi sự thận trọng, từ đó có thể trở nên bừa bãi trong cách ăn nói, làm xúc phạm, tổn thương nhau, gây nên buồn đau, xa cách... Dường như trong đời sống gia đình, cũng như đời sống tập thể, ngôn từ có thể là vũ khí dễ dùng và dễ bị lạm dụng chăng?

Có khi nào chúng ta nghĩ cách làm sao cho những lời của chúng ta trao nhau có thể đem lại sự khai thông, làm cho nét mặt người thân hay anh chị em thêm rạng rỡ, ánh mắt thêm niềm tin, và con tim thêm an bình?

Một số trong chúng ta có lẽ đã được trải nghiệm những sự ấm áp đó. Tuy thế, lắm lúc chúng ta đem lại cho những anh chị em đang chung sống, hay những người mình dạy dỗ, gặp gỡ trong công việc thường ngày những lời khuyên quá rẻ tiền, có nghĩa là như máy móc mà thiếu vắng sự đồng cảm, hay đi vào chiều sâu của lòng người, vào cõi lòng anh chị em mình đang đối diện. Lắm lúc chúng ta nói những lời chỉ trên môi mép như là một loại xã giao, vuốt đuôi, không thật lòng, và thiết nghĩ, nếu lòng mình không thật, thà đừng nói thì hơn! [3]

2. Những lời nói tích cực.

2.1. Những lời nói thật

Chân thực! một giá trị cao quý trong mọi lãnh vực cuộc sống. Ai cũng tìm kiếm, nhưng không chắc mình sẽ nhận được, hay thực hành được; dù vậy, cái thật luôn được tôn vinh và tìm kiếm trên nhiều mặt khác nhau:

- Kinh tế - người ta luôn chuộng đồ thật, dù đắt mấy cũng kiếm tìm cho được. Tuy là của vô tri, nhưng đồ vật thật cần luôn được trân trọng và giữ gìn, tìm kiếm; không ai dại gì mua hay gìn giữ đồ dổm, mà chỉ vì bị lừa lọc mà thôi!

- Tình cảm – ai cũng quý yêu tấm chân tình. Dù tình yêu, tình bạn hay tình làng nghĩa xóm, tình đồng nghiệp hay đồng chí… nếu không thật lòng, làm sao có được những cuộc gặp gỡ sâu xa, những trao đổi cởi mở. Nếu không có chân tình, các mối tương quan chẳng khác gì các hình nộm bên nhau, vô cảm, trống rỗng và xa lạ!

- Ngôn từ - Lời thật quý hơn châu báu, lời thật xây dựng và đem lại sự sống, làm tái sinh; lời thật là lời thiện. Lời thật tạo sự tin tưởng, tạo đồng cảm và đưa đến sự gặp gỡ sâu xa của hai tâm hồn… Lời thật khó nghe, nhưng đem lại sự bình an cho tâm hồn, đặt chúng ta trong đường ngay nẻo chính, giải thoát chúng ta khỏi những sai lầm, hư danh.

- Chúng ta không thể sống xa bất cứ điều gì cho thật, dù lời nói hoặc trong bất cứ lãnh vực nào; vì Chúa chúng ta là Đấng “Chân - Thiện – Mỹ”. Chỉ trong sự thật chúng ta mới được tự do.

Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8,32). Phải, không gì quý hơn sự thật, bất cứ điều gì thật đều đáng giá, một tình yêu thật, một tình bạn chân chính, một lời nói thật lòng… Một điều đơn giản nhưng khó sống!

Ở đây chúng ta nhấn mạnh đến lời thật. Giáo Hội, gia đình, và nhất là Lời Chúa luôn dạy chúng ta, ăn ở thật thà, làm ngay nói thẳng:

Có thì nói có, không thì nói không”.

Những lời dạy sống theo sự thật, thoạt nghe dễ dàng, nhưng rất đòi hỏi, sống cho được quả là một kỳ công. Trái lại, lời giả dối tác hại cho người, mà cũng tác hại cho bản thân mình.[4]

2.2. Những lời nói xây dựng.

Có những món quà trong đời quý giá hơn vàng bạc, châu báu, đó là những lời làm ấm lòng, lời tăng sinh lực, lời xua tan bóng tối mấy mù. Những lời được trao tặng đúng lúc người khác đang cần, những lời đó có ý nghĩa, giá trị và tối cần cho đời người biết bao!

Trong cuộc sống, người ta trao nhau những món quà để tỏ tình thân, lòng quý mến nhau. Nhưng có món quà vô giá mà tiền của không mua, không đổi được, và chỉ những người thân thiết, thật tình với nhau mới dám trao nhau, đó là những lời khuyên hay những lời chia sẻ tâm tình.

Người giàu tặng của, người thân tặng lời

(Tục ngữ Việt Nam)

Chuyện kể rằng Lão Tử đã nói với Khổng Tử lúc tiễn nhau rằng: “Tôi nghe nói: “Người giàu sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau.” Tôi không thể làm người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức, xin có lời này để tiễn ông: “Kẻ thông minh sâu sắc thì gần cái chết, vì họ khen chê người ta một cách đúng đắn. Kẻ giỏi, đầu óc sâu rộng làm nguy đến thân mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác ...”

Không phải ai cũng nhận được những lời chân thành và hữu ích từ người khác; vì thế lời hay, lời lành là món quà quý hiếm đối với những ai đang thật sự cần. Nhưng đồng thời với những người không sáng suốt và mà lại có quyền, thì những kẻ nói thẳng rất dễ lụy đến thân. Lão Tử, người quá hiểu biết chuyện đời đã nói lên điều này vì ông kinh nghiệm: Đời là thế đấy!

Câu nói nổi tiếng của Somerset Maugham: “Phải thận trọng lời nói. Người ta có đủ thời gian để lựa lời, nhưng không có cơ hội để rút lại. Lời nói là vũ khí rất nguy hiểm mà người ta có thể vận dụng, hãy dùng nó với sự thận trọng”. [5]

2.3. Những lời nói khích lệ

2.3.1. Tấm ảnh gia đình giúp chàng thanh niên không cộc cằn.

“Trong thời kỳ khai phá Mỹ Châu, có năm thanh niên Hoa Kỳ tới vùng Ohio tìm vàng. Đây là một vùng hoang vu nguy hiểm không thể lường trước được... Sau một thời gian sống nơi rừng thiêng nước độc, phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách; khi trở về, bốn người trong bọn họ đã đổi tính nết, mất cả phong độ, trở thành những chàng trai cộc cằn dữ tợn. Chỉ duy có một người còn giữ nguyên được phong độ dễ thương hiền hoà như trước. Người ta hỏi anh cho biết lý do nào đã giúp anh tránh khỏi những lỗi lầm như những người kia, họ đã được anh trả lời như sau:

“Vì một tấm ảnh kỷ niệm dễ thương, tôi đã mang theo trong tâm khảm tôi, xin các bạn đừng hiểu lầm là tấm ảnh người bạn gái, nhưng là tấm ảnh của gia đình tôi. Buổi sáng, trước khi lên đường, cha mẹ và các anh chị em tôi đã ngồi vào bàn, ăn bữa sáng chung với nhau. Mọi người đều tỏ ra quí mến yêu thương tôi cách đặc biệt, ai cũng thấy nghẹn ngào để ý đến tôi, lo cho tôi đủ thứ, vì tôi là người thứ nhất rời xa gia đình... Cha tôi nhắn nhủ đôi lời, rồi cả nhà đều quỳ gối trước tượng Chúa cầu nguyện cho tôi, xin ơn trên che chở gìn giữ tôi. Chính tấm ảnh kỷ niệm, những lời khuyên bảo đó đã theo tôi trong suốt chuyến đi đầy khó khăn này và đã nâng đỡ tôi những khi tôi gần như tuyệt vọng.”[6]

Lời khuyến khích sẽ xua đi những khó khăn phiền muộn và lo âu. Lời cảm thông sẽ làm cho con người xích lại gần nhau, hàn gắn lại những con tim tan vỡ. Lời yêu thương sẽ kiến tạo một thế giới hoà bình. Nhưng đau đớn thay, tình người hay bác ái thường dễ bị đổ vỡ bởi những lời tiêu cực. Có lẽ nhiều tội lỗi chúng ta thường xuyên phạm đến đời sống bác ái, là qua lời nói... Những lời đã làm tổn thương tha nhân. Để tránh những điều hại hay làm đau lòng nhau, những người khôn ngoan luôn dạy chúng ta càng nói ít càng tốt, thánh Giacôbê đã dạy:

Ai trong anh em không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo.” (Gc 3,2).

Thật ra, dù muốn dù không cuộc sống chúng ta luôn cần phải dùng đến lời nói. Trao đổi, học hỏi, chia sẻ với nhau là điều tốt, tuy nhiên, phải biết lúc nào mình nên nói và lúc nào cần phải giữ thinh lặng. Biết thích ứng trong mọi hoàn cảnh mới là người khôn ngoan thật sự.

“Thông minh là biết cách nói hợp lý, nghe chăm chú, trả lời dí dỏm, và ngừng nói khi cần”. (Pasteur)[7]

2.3.2. Malcolm Dalkoff, một đứa trẻ nhút nhát đã trở thành tự tin.

Cậu có rất ít bạn và luôn phải lủi thủi một mình. Một lần, cô giáo đọc cho cả lớp một đoạn truyện ngắn đề cập đến loài vật là bạn thân của con người; sau đó phân công mỗi học sinh tự viết đoạn kết cho câu chuyện. Dalkoff thích lắm, ngay chiều hôm ấy cậu đã hoàn thành bài viết của mình. Nhưng mãi cậu mới có đủ tự tin đem nộp truyện của mình cho cô giáo vào buổi học tuần sau đó.

Những gì cậu viết cũng như điểm số mà cô giáo đã cho không hề quan trọng. Đối với cậu bé, điều quan trọng nhất mà cũng là điều cậu nhớ nhất lại chính là bốn chữ cô giáo phê : “Em viết hay lắm!” Chỉ bốn chữ cũng đủ để thay đổi toàn bộ cuộc đời cậu bé. Trước khi nhận được bốn chữ đó, cậu chưa bao giờ có khái niệm về bản thân hay những điều mình đã làm. Nhưng sau buổi học hôm ấy, cậu đã chạy thật nhanh về nhà, ngồi vào bàn và đã viết ngay một câu chuyện ngắn, về tất cả những gì cậu đã từng mơ tới, và không bao giờ dám nghĩ là mình có thể biến những giấc mơ đó thành hiện thực.

Cậu viết ngày càng nhiều hơn, và cứ được một chuyện, cậu mang ngay tới cho cô giáo của mình nhận xét, “Cô ấy đúng là một cô giáo tuyệt vời!”.

Nhiều năm trôi qua, cậu bé Malcolm tự ti ngày nào, đã trở về thăm trường cũ và cô giáo ngày xưa của mình. Điều cậu cám ơn cô không phải vì cô đã trở thành một người bạn của cậu mà vì bốn chữ đầu tiên cô đã từng phê: “Em viết hay lắm!”. Những chữ ấy đã thay đổi cả một cuộc đời. [8]

2.3.3. Joe, từ chỗ mặc cảm đã thành công trong sự nghiệp.

Cũng trong hướng tích cực này. Một lời khen đúng lúc thật kỳ diệu làm sao! Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh cách cụ thể, vì chính tác giả là người đã thừa hưởng, đã cảm nghiệm được món quà quý giá này, và ghi lại để chia sẻ cùng chúng ta.

“Cách đây 40 năm, tôi còn nhớ như in khi gia đình tôi chuyển từ vùng núi cao bang Chicago tới một khu phố nghèo ở New York để kiếm sống. New York tráng lệ và sôi động, cuộc sống tráng lệ và sôi động, tất cả những gì được chứng kiến ở đây khiến một đứa trẻ 9 tuổi như tôi cảm thấy sợ hãi. Ba tôi đã cố gắng xin cho tôi vào học ở một trường học nhỏ cách nhà không xa.

Những ngày tháng đầu tiên ở trường mới, tôi hoàn toàn cô độc. Tất cả học sinh đều xa lánh thay vì giúp đỡ tôi hoà nhập. Thậm chí khi tôi chủ động làm quen, chúng bỏ đi, chẳng thèm nhếch mép sau khi đã ném về phía tôi những cái nhìn chế giễu, miệt thị. Vài đứa lớn hơn còn tụ tập lại để bắt nạt tôi. Tôi lờ mờ hiểu ra rằng ở đây chẳng ai ưa một đứa trẻ da đen con nhà nghèo, gầy gò và quê mùa như tôi cả. Suốt ba tháng, tâm lý sợ hãi và bị bỏ rơi khiến tôi gần như đứng bét lớp, mặc dù chương trình học đối với tôi chẳng khó khăn gì.

Thế nhưng, sau kỳ nghỉ mùa đông mọi sự đã khác khi thầy Sean tới. Thầy được phân công chủ nhiệm lớp tôi thay cho thầy Paul bị nằm viện. Thầy rất nghiêm khắc nhưng không nặng lời với bất cứ ai. Dần dần lớp học trở nên có trật tự hơn, và những rắc rối của tôi cũng giảm đi nhiều. Có một điều tôi cảm thấy được an ủi, đó là thầy Sean cũng là người da đen.

Một ngày mà tôi chẳng thể nào quên, khi thầy Sean công bố kết quả thi giữa kỳ. Thầy nhìn khắp cả lớp, từng người một, và khi tới tôi, thầy dừng lại thật lâu làm tôi cảm thấy run sợ. Nhưng rồi thầy vui vẻ nói: “Bài thi này các em làm rất tốt, nhưng luôn có một người làm tốt nhất. Thầy hoan nghênh tất cả các em”. Khỏi phải nói lúc đó tôi vui như thế nào, vì tất cả các lần thầy Paul đọc điểm thi tôi đều bị than phiền.

Cuối buổi học, thầy bảo tôi ở lại, tôi sợ, rụt rè đến bên thầy, ấp úng:

Thưa thầy...”

“Ồ, Joe, hôm nay em là người làm bài tốt nhất, tuyệt lắm!” Tôi oà khóc, cái điều mà tôi chưa từng làm từ khi tới đây. Thầy Sean ôm tôi vào lòng:

“Đừng sợ, cố gắng lên, có thầy luôn ở bên em!”

Những lời của thầy Sean đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Lúc nào trong tôi cũng có hình ảnh của thầy đang cổ vũ cho tôi. Và tôi trở về làm học sinh xuất sắc lớp vào cuối năm học đó, như khi tôi còn ở Chicago.

Năm sau, thầy Sean lại ra đi khi thầy Paul khoẻ lại. Nhưng lúc nào tôi cũng thấy như có thầy ở bên, và năm đó, cũng như những năm về sau, tôi luôn là người đứng đầu lớp. Mãi sau này, khi tôi vào đại học, khi tôi bảo vệ luận án tiến sĩ, và ngay bây giờ khi tôi đang đứng giảng bài trước hàng trăm sinh viên của một trường đại học danh tiếng, không khi nào tôi quên được hình bóng thầy.

Hôm qua, tôi mừng đến phát khóc khi biết được địa chỉ của thầy sau 40 năm xa cách. Tôi đã lái xe một mạch 300 cây số tới thăm người thầy mà tôi kính yêu nhất đời. Gặp lại thầy, tôi bật khóc, những kỷ niệm ngày đó bỗng sống lại như mới.

Ồ, Joe- thầy nói hệt như ngày trước- em vẫn yếu đuối như ngày nào”. Tôi lặng người khi nghe thầy kể:

Hôm đó bài của em chỉ được điểm B, nhưng em đã cố gắng, nhìn vào em, thầy thấy lại mình nhiều năm trước. Khi đó, một lời động viên của cô giáo đã giúp thầy vượt qua tất cả. Thầy đã tin rằng em cũng vậy, đó là lý do mà thầy đã gọi em ở lại hôm ấy. Và thầy không lầm”.[9]

2.3.4. Ma lực của lời động viên.

Có lẽ món quà quý hoá ảnh hưởng đến cả đời người, giúp bước tiến, can đảm bắt đầu lại hay kiên trì với một ước mơ, một việc có giá trị, hoặc yên tâm bắt tay vào một dự tính... chính là những lời động viên khích lệ đó. Với những lời này chúng ta như tiếp sức cho những người mệt mỏi, mở lối cho người đang phân vân và dọi đèn cho ai đang lần mò trong bóng tối! Cuộc đời một con người có thể chuyển hướng hay thành tựu chính là nhờ cái “lực đẩy” này. [10]

Phải, lời động viên, thừa nhận và khích lệ... một món quà không đòi hỏi gì nhiều. Ai cũng có thể:

● Cho mà không sợ mất mát.
● Nhận mà không sợ quá tải,
● Dùng mà không sợ bị lạm phát
● Trao mà không sợ bị từ chối !
● Thích hợp cho mọi người, mọi lứa tuổi.
● Có thể trao càng nhiều người, nhiều lần, trong nhiều tình huống khác nhau càng tốt.

Tuân Tử, người hay chú ý đến lãnh vực ngôn từ, đã từng nói rằng:

“ Được người nói lời thiện như được vàng ngọc châu báu,

Gặp người nói lời thiện thì hay hơn văn chương thơ phú,

Nghe lời nói thiện thì vui hơn chuông trống đàn ca”. [11]


Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
HỘI THỪA SAI VIỆT NAM




[1] Tiến sĩ Trần Thị Giồng, Họa phúc từ đâu

2.4. Những lời khen

2.4.1. Những nguyên tắc để khen.

Lời khen: Con dao hai lưỡi, nếu muốn có hiệu quả tích cực, chúng ta cần học cách dùng ngôn từ với sự cẩn trọng, với nghệ thuật cao. Sau đây là một số nguyên tắc giúp thực thi nghệ thuật này:

1- Muốn người nghe cảm nhận được niềm vui lớn như một liều thuốc bổ tối ưu, đạt hiệu quả 100%. Chúng ta cần khen ngay lập tức.

2- Khen ngợi nên chính xác, cụ thể: “Em làm việc tốt lắm”. Như thế đã tốt rồi, vì nhấn mạnh cụ thể đến công việc. Nhưng họ sẽ thích thú hơn nếu như được khen: “Em làm việc rất chu đáo và có trách nhiệm”. Như thế, khả năng làm việc chu đáo và trách nhiệm sẽ được lập lại chính xác về sau. Chúng ta cần tránh những lời khen một cách chung chung vô bổ như: “Chị hay quá, chị giỏi quá”. Hay và giỏi ở phương diện nào? Và điểm cụ thể nào? Ví dụ: “Chị hát nhạc dân ca rất có hồn”.

Lời khen sẽ gia tăng giá trị gấp bội nếu được khen trước người khác hay đám đông. Và ngược lại, muốn phê bình ai xin làm riêng tư, kín đáo. [1]

2.4.2. Trâu cũng thích khen.

Câu chuyện dí dỏm sau đây sẽ cho chúng ta thấy giá trị của những lời tích cực; sức bật hay sự rò rỉ năng lực đều do lời nói mà ra.

Xưa có nông dân nọ nuôi một con trâu dùng để kéo xe, con trâu này đã xấu xí đen thui, lại chỉ có một sừng, nhưng thay vào khuyết điểm đó, trâu ta lại có sức mạnh phi thường, có thể kéo cả tấn hàng băng băng qua dốc núi cao chót vót. Chủ làng bên cạnh cũng có một con trâu vừa đẹp vừa có sức mạnh. Một hôm, ông ta thách đua trâu kéo hàng. Nếu con nào kéo nổi một tấn hàng qua núi cao, ông ta sẽ chịu thua số tài sản mình đang có. Chủ của con trâu đen một sừng mừng rỡ, dẫn nó đi thi. Lúc sửa soạn ra đấu trường, ông ta vô tình vỗ vào đầu trâu nói giọng giễu cợt: Này, thằng đen thui một sừng, ráng kéo lên nha! Nghe lời giễu cợt ấy, trước mặt mọi người, trâu đen tái mặt. Với sức của nó, tấn hàng chất lên lưng chẳng là gì cả, nhưng lời của chủ làm nó đau lòng, bao nhiêu sức lực tiêu tan, nó ì ạch lê từng bước. Cuối cùng tài sản của chủ nó bị ông chủ làng bên lấy sạch. Hậu quả con trâu một sừng bị mắng thậm tệ.

Vớ được món hời, vài hôm sau, ông chủ bên kia thách thi đấu nữa. Lần này số tiền đặt cược lên gấp ba. Trâu đen bèn thưa với chủ hãy đến đánh cược. Chủ bảo: Thôi đi, lần trước mày làm tao thua hết tài sản, hổng thấy hả? Nó ôn tồn đáp: Chủ ơi, tại lần trước chủ chế giễu, chê tôi trước mặt mọi người nên tôi buồn quá, kéo không nổi. Ngày mai, trước giờ đi thi, chủ hãy nói như thế này: Trâu đen ơi, tuy con không đẹp, nhưng con là đứa ngoan, giỏi nhất! Lúc đó, tôi sẽ lấy lại phần tài sản cho chủ xem.

Chủ nó làm theo lời và đặt cược. Quả nhiên, nó kéo cả tấn hàng lên núi một cách nhanh chóng. Và chủ nó lấy lại được nhiều tài sản vàng bạc. [2]

3. Những lời nói tiêu cực.

3.1. Những lời nói dối

Lời nói là một biểu hiện của tinh thần. Trong lòng thế nào thì lời nói bộc lộ ra thế ấy. Ngược lại, khi được thể hiện ra rồi, lời nói lại gieo cấy những hạt giống tốt hoặc xấu vào tâm hồn chúng ta. Vì thế, muốn tâm hồn chân thật thì lời nói tất nhiên cũng phải chân thật. Việc nói năng tùy tiện, bừa bãi có những tác hại sâu xa mà chúng ta không thể không quan tâm sửa đổi.[3]

3.1.1. Tác hại của lời nói dối, đùa cợt, khoe khoang

Chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với nhau về tác hại của những lời nói dối. Hiển nhiên là nó đánh mất đi giá trị tự thân của người nói, khiến cho mọi người không còn tin cậy vào anh ta được nữa, ngay cả khi anh ta đã từ bỏ việc nói dối. Vì thế, những gì người nói dối đánh mất đi là nhiều hơn những gì họ đạt được.

Nhưng không phải ai cũng có thể thấy được tác hại của những lời đùa cợt hoặc khoe khoang, khoác lác…Bởi vì chúng có vẻ như chẳng hại gì đến ai cả.

Trong thực tế, những lời đùa cợt không thật hay những lời khoe khoang vuợt quá sự thật chính là tiền thân của những lời nói dối. [4]

3.1.2. Con đường dẫn đến nói dối

Rất nhiều người trong chúng ta đã biết qua cảm giác ngượng ngập, lúng túng khi lần đầu tiên nói dối. Người nói đang đứng trước ranh giới giữa sự chân thật và dối trá, và cảm giác này giống như phản ứng tự nhiên của bản thân để cố ngăn không cho ta rơi vào sự dối trá. Thường thì người nghe rất dễ nhận ra vẻ lúng túng ấy để biết là mình đang bị nói dối. Tuy nhiên, nếu chúng ta lập lại việc nói dối nhiều lần, chúng ta không còn cảm giác lúng túng, ngượng ngập như lần đầu.

Và chính những lời đùa cợt hay khoe khoang cũng có tác dụng xói mòn làm mất đi cảm giác ngượng ngập, lúng túng đã ngăn cản không cho ta nói dối. Nếu bạn thường xuyên đùa cợt, khoe khoang quá trớn, bạn sẽ rất dễ dàng chuyển sang nói dối mà không có chút gì ngần ngại.

Mặt khác, bản thân người nói không bao giờ cũng ý thức rõ được mình đang nói những lời không chân thật. Nếu ta nhận được sự thán phục hoặc tán đồng từ người khác, dần dần ta sẽ có cảm giác như mình đang nói thật, nhưng thật ra, ta đang lừa dối chính bản thân mình. Và điều này về lâu dài sẽ khiến cho ta mất khả năng phân biệt rạch ròi giữa chân thật và dối trá.[5]

3. 2. Những lời nịnh hót.

● Người nịnh chi phối người khác bằng cái miệng của mình, bằng những lời “bốc thơm” để được lòng, nhưng động lực chính là để lôi cuốn người nghe nịnh làm theo hướng mình muốn.

● Người nịnh thường để lấy lòng, hầu lôi cuốn người nghe về phe mình, để họ bao che, nâng đỡ khi cần… việc nịnh hót này là một hình thức tìm ô dù.

● Người nịnh vô hình chung là người điều khiển người khác bằng con đường thiếu thẳng ngay, vì thế người nghe nịnh là người tiếp tay với sự xấu.

● Khi có ô dù và được bao bọc nâng đỡ, người nịnh thường dựa thế người trên hay người có quyền để hiếp đáp người khác. “Thượng đội, hạ đạp”!

● Người nịnh thường được quyền lực đứng về phía mình; vì thế, theo vô thức, những người còn lại sẽ tự động dựa vào nhau để tự bảo vệ và nâng đỡ nhau, nên dù muốn dù không sự nịnh bợ sẽ tạo nên phe nhóm, chia rẽ.

Trên hết, về mặt xã hội, người nịnh là thành phần phá hoại ích chung, còn về mặt cá nhân, họ là người tự hạ giá chính mình.

Obreson đã cảnh tỉnh chúng ta:

Ta không nên sợ những người công kích ta, mà nên sợ những người nịnh ta”. [6]

3.3. Những lời nói châm chọc.

Những lời nói nhằm gây những điều tiêu cực cho các mối tương quan, làm lệch lạc cách hiểu việc, hiểu người. “Đâm bị thóc, chọc bị gạo” là thành ngữ mà dân chúng dùng cho loại người đi đầu này nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha người nọ, nhằm tạo sự thù hằn, hờn giận hay chia rẽ.

Chúng ta biết rằng nguyên nhân của sự đâm thọc thường do tâm bất mãn, hận thù hoặc ganh tị. Thấy ai thành công hay được quý trọng, được yêu mến thì sanh tâm muốn hạ uy tín hoặc làm giảm giá trị người đó. Ngoài ra đâm thọc là vì muốn ám hại ai hay lấy lòng người nào. Những người hay đâm thọc là người có tâm bất thiện, có ác ý, muốn gây chia rẽ. Họ suy nghĩ, nghiền ngẫm để tìm cho ra những lời châm chích đúng lúc, hợp tâm lý người nghe.[7]

Có nhiều người cho rằng: Người hay đâm thọc được ví như loài muỗi hút máu độc hại đầu này, đem chích vào đầu kia. Mỗi lần chích, họ chuyền qua một ít nọc độc, và từ từ những lời nọc độc ấy thấm vào, dần dần chuyển hoá làm ô nhiễm tư tưởng, con tim và các mối tương quan giữa người với người. Độc thay!

Theo luật nhân quả, khi dùng lời nói hại người, tâm của chúng ta chắc chắn biến động. Nếu một lời nói ra làm tan vỡ tình thân, gây ngờ vực, vì nó mập mờ, thêm bớt, lộng giả thành chơn, có lại nói không ... Khi có tà ý muốn hại người, có lẽ người chưa bị hại, mình đã thấy tâm bất an rồi! Vì thế nhân gian đã cảnh cáo chúng ta hãy coi chừng!

Gậy ông lại đập lưng ông.
Gậy bà chẳng trúng thẳng xông lại bà” [8]

3.4. Những lời nói phàn nàn kêu trách.

Tránh “than phiền, phàn nàn, kêu ca”. Henry Ford, nhà thành lập và chủ nhân của hãng xe hơi Ford đã nói thế, vì chính nhờ tránh xa sự than phiền mà ông và công nhân đã vượt được những khó khăn trong cuộc đời và sự nghiệp. Chúng ta biết rằng, khi chăm chú vào một việc gì, chúng ta có dịp để phát huy chúng; trái lại, càng than phiền bao nhiêu, chúng ta càng thấy nhiều điều để than phiền bấy nhiêu. Trên thực tế, chẳng ai muốn gần kẻ hay phàn nàn chê trách cả. Dường như “virus bịnh Than” đã rất dễ thấm nhập và lây lan. Thường chúng ta cho rằng mình hay giỏi hơn người chúng ta phàn nàn. Có người hài hước cho rằng:

Khi ta đưa ngón tay trỏ chỉ vào người mà mình phàn nàn, thì ba ngón kia chỉa lui vào bản thân mình”.

Làm sao cho sự than vãn không có chỗ đứng trong đời sống chúng ta, hay ít nhất là làm giảm thiểu chúng, có như thế cuộc đời chúng ta mới mong bay bổng lên được!

Nếu chúng ta muốn được hoàn hảo trong lời nói, thì chúng ta phải đào thải những lời phàn nàn ra khỏi cuộc sống của mình” F.A.Losito. [9]

3.5. Những lời nói tiêu cực và tác hại của chúng

3.5.1. Những lời nói tiêu cực.

Thực tế mà nói, chúng ta thường có xu hướng dễ đi vào con đường tiêu cực, đây là một thói quen nguy hiểm trong cuộc sống. Tuy vậy, không ít thành viên trong các cộng đồng than rằng trong nhà hay nhóm hoặc tập thể của mình thường có:

● Những lời vuốt ve, nịnh bợ,
● Những lời ba hoa, tâng bốc quá đáng,
● Những lời hùa theo như là một loại “cuốn theo chiều gió”
● Những lời mỉa mai, châm biếm,
● Những lời khó chịu,
● Những lời chọc tức,
● Những lời nói đùa ác ý,
● Những lời nói sau lưng,
● Những lời hạ giá, tổn thương,
● Những lời “thọc gậy bánh xe”,
● Những lời bóng gió, gần xa...
● Những lời đồn thổi,
● Những lời không chân thật,
● Những lời thô tục, lố lăng đùa cợt vô nghĩa,
● Những lời than phiền,
● Những lời thách thức,
● Những lời cay độc, vu khống, nói xấu,
● Những lời phán đoán về giá trị...
● Những lời gieo rắc sự chia rẽ,
● Những lời vô trách nhiệm, tung tin, thêm bớt cho vừa ý mình chứ không phải là sự thật khách quan...
● Những lời vu khống, võng đoán, suy diễn: “Suy bụng ta ra bụng người”.
● Những lời la lối như một loại “cả vú lấp miệng em”
● Những lời của người đưa chuyện, lời tiêu cực đã nghe ( đúng hay sai còn xét lại) đem mách qua, mách lại cho đương sự. [10]

3.5.2. Tác hại của những lời nói tiêu cực

Những loại hình ngôn từ nêu trên là những yếu tố cơ bản dẫn đến sự chán nản, rút lui, bỏ cuộc của một số anh chị em nhiệt tình, quảng đại và tích cực đóng góp cho công việc, cho ích chung, cho cộng đồng. Những lời cay độc thấm dần như thuốc độc làm ô nhiễm bầu khí chúng, làm mệt mỏi, căng thẳng dài ngày... tệ hơn nữa, có những người yếu đuối và ngay cả những người mạnh mẽ, nhưng lâu ngày dài tháng đã không chịu nổi, nếu không biết tự lo, vết thương có thể trở nên mưng mủ, và rốt cuộc, họ đã ngã quỵ, buông xuôi, khép kín, cô lập, hay tệ hơn nữa, phải rời bỏ cả lý tưởng mình đã chọn.

Sau đây là một số hệ quả của những lời tiêu cực mà Raymond De Saint Laurent đã nhận định:

- Một người hay châm biếm thường gây thù chuốc oán và làm mọi người xa lánh.

- Một người thiếu kín đáo, hay tiết lộ những điều cần giữ riêng cho mình, thường hay làm mất lòng người khác, mất niềm tin cậy và bị nghi ngại khi tiếp xúc.

- Một người mắc bịnh ba hoa kinh niên chỉ làm cho người nghe chán ngấy, và từ đó thiên hạ tránh xa khi thấy người đó xuất hiện.

- Một người có ác tâm xét đoán người khác, sẽ tạo nên bầu khí căng thẳng, khó chịu cho những người xung quanh.

- Một người hay nói quanh co, ẩn ý sẽ làm cho người ta nghi ngờ, ngại ngùng và tránh xa.
- Một người gièm pha, bóng gió là không dám nói thẳng sự việc, mà quanh co khéo léo. Nói không rõ ràng minh bạch, mà ám chỉ nọ kia... Những người gièm pha là những người thuộc loại thọc gậy bánh xe, có sức phá hoại ngầm, rất độc hại

- Một người nóng giận là người thường thiếu sáng suốt, và khó kiềm chế bản thân, nên rất dễ thốt ra những lời vô bổ, quá trớn, và rồi qua cơn nóng giận không thể rút lại được những gì mình đã nói. Hối tiếc, xúc phạm, đau lòng!

- Một người chỉ trích. Thật ra, mình không phải là người khác, không ở trong da thịt, hoàn cảnh của người khác. Làm sao biết rõ những gì họ phải trải qua, phải tranh đấu, phải đối phó. Biết đâu mình trong hoàn cảnh của họ, mình có thể tệ hơn chăng? Vậy tại sao lại chỉ trích? Chỉ trích luôn là con đường có sức công phá những mầm sống, chồi non, phá hoại thiện chí và những cố gắng vươn lên.[11]

4. Phải cẩn thận trong lời nói

4.1. Cẩn thận trong lời nói sẽ mang lại cho lời nói của mình có giá trị

Một khuynh hướng rất thông thường là chúng ta luôn nói nhiều hơn mức cần thiết. Một trong những lý do dẫn đến điều này cũng là vì “Nói dễ hơn Làm”. Đôi khi chúng ta tập thành thói quen nói rất nhiều mà không quan tâm đúng mức đến những gì mình nói ra. Sự “lạm phát” lời nói này luôn được những người chung quanh cảm nhận được và phản ứng lại bằng cách đánh giá thấp lời nói của ta. Điều này cũng có nghĩa là chỉ cần ta bớt nói đi, lời nói của ta sẽ tự nhiên có giá trị cao hơn.

Nhưng vấn đề cũng không đơn giản chỉ có thế. Việc nói năng tùy tiện, bừa bãi còn làm ta đánh mất đi năng lực suy nghĩ chín chắn đối với từng vấn đề. Thay vì tập trung sự chú ý sáng suốt để tìm ra giải pháp tốt nhất, ta dễ dàng hài lòng với bất cứ phát biểu nào vừa chợt nghĩ ra được.

Biết hạn chế lời nói một cách thích hợp, chúng ta còn tiết giảm được một năng lượng đáng kể cần thiết cho cơ thể. Cũng có thể bạn có phần nào hoài nghi về việc nói nhiều có ảnh hưởng đến sức khỏe, nhưng đó là sự thật. Người xưa cũng đã nhận biết được điều này nên có nói: “Khẩu khai thần khí tán” (miệng mở ra là thần khí phải hao tốn). Tất nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa chúng ta phải trở nên lầm lỳ ít nói, có điều là chỉ nên nói những gì ta thấy cần thiết mà thôi.[12]

4.2. Lời nói đi đôi với việc làm

Khi chúng ta biết quan tâm hạn chế những lời nói không cần thiết, chúng ta sẽ tiến dần đến chỗ làm được tất cả những cái mình nói.

Để cho lời nói đi đôi với việc làm không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng nếu ta chỉ nói ra những điều đã cân nhắc thận trọng thì điều này hoàn toàn có thể thực hiện được.

Khi nói ra với sự ý thức đầy đủ là mình sẽ thực hiện lời nói đó, chính là chúng ta đã biết sống tỉnh thức trong hiện tại mà không buông bỏ những giây phút sống của mình vào sự lơ đễnh, lãng quên.

Việc giữ cho lời nói đi đôi với việc làm sẽ hoàn thiện nhân cách của bạn rất đáng kể và điều này có thể dễ dàng nhận ra được qua cung cách mà những người chung quanh sẽ đáp lại với bạn. Bạn sẽ không còn mấy khi phải nghe người khác than phiền về chuyện “Nói dễ hơn Làm”. [13]

4.3. Một lời nói: hai phản ứng khác nhau.

“Chuyện kể rằng, một ngày kia trong buổi lễ ở nhà thờ của một ngôi làng nhỏ, cậu bé giúp lễ Misa lúng túng tuột tay làm đổ chén rượu lễ. Vị Linh mục giận dữ xáng một tát tai, đuổi ra, la lớn: “Đi khỏi đây, và đừng bao giờ trở lại nữa!” Cậu bé run rẩy đi xuống, mặt đỏ bừng, vừa sợ, vừa xấu hổ. Về sau cậu bé đó trở thành Tito, nhà lãnh đạo độc tài của đảng Cộng sản Nam Tư trong nhiều thập niên.

Cũng trong một lễ Misa khác ở một ngôi đại giáo đường, một cậu bé giúp lễ khác cũng phạm một lỗi lầm tương tự: làm đổ chén rượu lễ. Vị giám mục già không tỏ vẻ giận, nhưng lại nheo mắt, cúi xuống ghé vào tai cậu bé nói nhỏ: “Không sao! Một ngày kia con sẽ làm linh mục!”. Cậu bé đó lớn lên trở thành Tổng giám mục Fulton Sheen.” [14] (còn tiếp)


Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Hts vn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét