Tóm lược

Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 17 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên của Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài giảng Tĩnh tâm Mùa Chay thứ ba trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.

Tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân của Ngài là trọng tâm của bài giảng này.

“Để an ủi quý vị và tôi, thưa Đức Thánh Cha, các Cha đáng kính, và anh chị em, buổi suy niệm này sẽ hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa. Diễn ngôn về Thiên Chúa, tức là thần học, không thể xa lạ với thực tại của Thượng Hội đồng, cũng như không thể xa lạ với bất kỳ thời điểm nào khác của đời sống Giáo hội,” Đức Hồng Y Cantalamessa đã bắt đầu như trên.

Vị Hồng Y dòng Phanxicô nhận xét rằng “Nếu không có thần học, đức tin sẽ dễ dàng trở thành sự lặp lại chết chóc và sẽ thiếu công cụ chính của nó để hội nhập văn hóa”.

Sự gần gũi của Thiên Chúa

Tuy nhiên, ngài gợi ý rằng để hoàn thành nhiệm vụ này, chính thần học, “cần một sự đổi mới sâu sắc”.

“Điều mà dân Chúa cần là một nền thần học thấm nhuần cuộc sống, không phải lúc nào cũng nói về Chúa 'ở ngôi thứ ba', với những phạm trù thường vay mượn từ hệ thống triết học đương đại, không thể hiểu được bên ngoài một nhóm nhỏ 'người trong cuộc'.”

Thay vào đó, ngài thúc giục, chúng ta phải nhìn thấy Chúa một cách gần gũi, dễ hiểu.

“Nhưng tôi xin lỗi vì đã thất hứa ban đầu. Tôi không định khai triển ở đây một diễn từ về việc đổi mới thần học. Tôi sẽ không có trình độ để làm điều đó. Thay vào đó, tôi muốn cho thấy thần học, hiểu theo nghĩa vừa được phác thảo, có thể góp phần trình bày sứ điệp Tin Mừng một cách có ý nghĩa như thế nào cho nhân loại ngày nay và mang lại sức sống mới cho đức tin và lời cầu nguyện của chúng ta.”

Thiên Chúa yêu mến anh chị em

Tin tốt đẹp nhất mà Giáo hội có nhiệm vụ loan báo cho thế giới, tin mà mọi trái tim con người thổn thức mong đợi được nghe, đó là: “Thiên Chúa yêu mến anh chị em!”

Ngài nhấn mạnh, xác tín này phải xóa bỏ và thế chỗ cho niềm tin mà chúng ta luôn mang trong mình: “Thiên Chúa đang phán xét bạn!”

Ngài nhấn mạnh rằng chân lý “Thiên Chúa là tình yêu” phải đi kèm, giống như một nốt trầm, mọi lời loan báo Kitô giáo, ngay cả khi những đòi hỏi thực tế của tình yêu này phải được nhắc lại, như Tin Mừng đã làm.

Sau đó, Đức Hồng Y giải thích thêm về các mầu nhiệm đức tin, chiều sâu và ý nghĩa đằng sau Chúa Ba Ngôi, Nhập Thể và Thương Khó, và nói rằng chúng ta phải xem chân lý mà chúng ta đã chiêm ngắm trong những mầu nhiệm này dưới ánh sáng của khẳng định “Thiên Chúa là tình yêu” sẽ thay đổi như thế nào trong cuộc sống của chúng ta.

Ngài lập luận rằng sự biến đổi cuộc sống của chúng ta, thông qua các mầu nhiệm, tạo nên “tin mừng” “không bao giờ thiếu khi chúng ta cố gắng đào sâu kho tàng đức tin Kitô giáo”. Ngài nói thêm rằng “Tin tốt lành là nhờ được tháp nhập vào Chúa Kitô, chúng ta cũng có thể yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu xứng đáng với Ngài!”

Tràn đầy tình yêu thiêng liêng

“Tình yêu đã tuôn đổ vào chúng ta là tình yêu mà Chúa Cha đã luôn yêu mến Chúa Con, không phải là một tình yêu khác! Đó là sự tràn đầy tình yêu thiêng liêng từ Chúa Ba Ngôi đối với chúng ta.”

Thánh Gioan Thánh Giá viết: Thiên Chúa truyền đạt cho linh hồn, “chính tình yêu mà Ngài truyền đạt cho Chúa Con, ngay cả khi điều này không xảy ra tự nhiên, như trong trường hợp của Chúa Con, nhưng bằng sự kết hiệp.”

Ngài lưu ý rằng hệ quả là chúng ta có thể yêu mến Chúa Cha bằng tình yêu mà Chúa Con yêu mến Ngài, và chúng ta có thể yêu mến Chúa Giêsu bằng tình yêu mà Chúa Cha yêu mến Ngài.

Ngài nói, tất cả những điều này là nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng chính là tình yêu đó.

Đức Hồng Y hỏi “Vậy thì điều gì chúng ta dâng lên Thiên Chúa là của riêng chúng ta khi chúng ta nói với Ngài, 'Con yêu mến Chúa '? Không có gì ngoài tình yêu mà chúng ta nhận được từ Ngài! Như thế, hoàn toàn không có gì về phía chúng ta chăng? Phải chăng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa không gì khác hơn là một sự “bật ngược trở lại” về phía Ngài chính tình yêu của Ngài, phải chăng nó chỉ giống như tiếng vọng đưa âm thanh trở lại nguồn của Ngài? Thưa: Không phải đâu! Tiếng vang trở lại với Thiên Chúa từ thẳm sâu trái tim của chúng ta, nhưng với một điều mới lạ là tất cả dành cho Thiên Chúa: hương thơm của tự do và lòng biết ơn hiếu thảo của chúng ta! Tất cả những điều này được thực hiện một cách mẫu mực trong bí tích Thánh Thể. Trong đó, chúng ta dâng lên Chúa Cha, như “của lễ của chúng ta,” điều mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta trước, đó là Chúa Giêsu Con của Người.

“Chúng ta có thể nói với Chúa Cha trong lời cầu nguyện của mình: “Lạy Cha, con yêu mến Cha bằng tình yêu mà Con Cha là Chúa Giêsu yêu Cha!” Và chúng ta có thể thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa bằng tình yêu mà Cha trên trời yêu mến Chúa!” Và xác tín rằng tất cả những điều này không phải là một ảo ảnh ngoan đạo trong trí tưởng tượng của chúng ta!

Toàn văn bài giảng Tĩnh tâm Mùa Chay thứ ba trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.

Chúng ta cần Thần học!

Để an ủi quý vị và tôi, thưa Đức Thánh Cha, các Cha đáng kính, và anh chị em, buổi suy niệm này sẽ hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa. Diễn ngôn về Thiên Chúa, tức là thần học, không thể xa lạ với thực tại của Thượng Hội đồng, cũng như không thể xa lạ với bất kỳ thời điểm nào khác của đời sống Giáo hội. Không có thần học, đức tin sẽ dễ dàng trở thành sự lặp lại chết chóc và sẽ thiếu đi công cụ chính của nó để “hội nhập văn hóa”.

Tuy nhiên, để chu toàn nhiệm vụ này, chính thần học cần phải đổi mới sâu sắc. Điều dân Chúa cần là một nền thần học thấm nhuần cuộc sống, không phải lúc nào cũng nói về Thiên Chúa “ở ngôi thứ ba,” với những phạm trù thường vay mượn từ hệ thống triết học đương đại, không thể hiểu được bên ngoài vòng tròn nhỏ “những người trong cuộc”. Người ta viết rằng “Ngôi Lời đã trở nên nhục thể,” nhưng trong thần học, thường thì Ngôi Lời chỉ là ý tưởng! Karl Barth hy vọng về sự ra đời của một nền thần học “có khả năng thuyết giảng”, nhưng hy vọng này dường như còn lâu mới được thực hiện. Thánh Phaolô đã viết:

Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa…Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. Chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ nhưng không Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. (1Cr 2:10-12).

Nhưng bây giờ chúng ta có thể tìm thấy ở đâu một nền thần học dựa vào Chúa Thánh Thần để biết “những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” hơn là dựa vào các phạm trù khôn ngoan của con người? Đối với điều này, cần phải dùng đến những gì được gọi là các trường phái “tùy chọn”: tức là “Thần học linh đạo,” và “Thần học mục vụ” nếu người ta muốn một nền thần học có khả năng được rao giảng. Henri de Lubac đã viết: “Thừa tác vụ rao giảng không phải là sự bình dân hóa sự giảng dạy tín lý về một hình thức trừu tượng hơn, vốn có trước và cao siêu hơn nó. Ngược lại, đó chính là sự giảng dạy tín lý, ở dạng cao nhất. Điều này đúng với sự rao giảng đầu tiên về Kitô giáo, của các tông đồ, và nó cũng đúng với lời rao giảng của những người kế tục họ trong Giáo hội: các Giáo phụ, các Tiến sĩ và các mục tử của chúng ta vào thời điểm hiện tại.”

Tôi tin chắc rằng không có nội dung đức tin nào, dù cao siêu đến đâu, lại không thể hiểu được đối với mọi trí thông minh mở ra cho sự thật. Một điều chúng ta có thể học được từ các Giáo phụ là bạn có thể sâu sắc mà không mù mờ. Thánh Grêgôriô Cả nói rằng Kinh Thánh “đơn giản và sâu sắc, giống như một dòng sông, có thể nói, chiên con có thể đi và voi có thể bơi.” Thần học của chúng ta nên được lấy cảm hứng từ mô hình này. Mọi người sẽ có thể tìm thấy trong đó bánh mì cho răng của họ: đối với người đơn sơ đó là thức ăn của họ, và đối với người có học thức đó là đồng cỏ của họ. Đó là chưa kể đến việc nó thường được tiết lộ cho “những kẻ bé mọn” những điều còn ẩn giấu “đối với những người khôn ngoan và uyên bác”.

Nhưng tôi xin lỗi vì đã thất hứa ban đầu. Tôi không có ý định khai triển ở đây một bài diễn văn về canh tân thần học. Tôi sẽ không đủ trình độ để làm điều đó. Đúng hơn, tôi muốn cho thấy thần học, hiểu theo nghĩa vừa được vạch ra, có thể góp phần trình bày sứ điệp Tin Mừng một cách có ý nghĩa như thế nào cho nhân loại ngày nay và mang lại sức sống mới cho đức tin và lời cầu nguyện của chúng ta.

Tin tốt đẹp nhất mà Giáo hội có nhiệm vụ loan báo cho thế giới, tin mà mọi trái tim con người thổn thức đợi chờ được nghe, đó là: “Thiên Chúa yêu thương anh chị em!” Xác tín này phải xóa bỏ và thế chỗ cho niềm tin mà chúng ta luôn mang trong mình: “Chúa đang phán xét bạn!” Chân lý “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8) phải đi kèm, giống như một nốt trầm, trong mọi lời loan báo Kitô giáo, ngay cả khi những đòi hỏi thực tế của tình yêu này phải được nhắc lại, như Tin Mừng thực hiện.

Khi cầu xin Chúa Thánh Thần, kể cả dịp Thượng Hội đồng Giám mục hiện nay, trước hết chúng ta hay nghĩ đến Chúa Thánh Thần như ánh sáng soi sáng chúng ta trong từng hoàn cảnh và gợi ý những giải pháp đúng đắn. Chúng ta ít coi Chúa Thánh Thần là tình yêu. Nhưng trái lại, đây là hoạt động đầu tiên và thiết yếu nhất của Thần Khí mà Giáo hội cần đến. Chỉ có bác ái mới gây dựng được; kiến thức – ngay cả kiến thức thần học và giáo hội – thường chỉ thổi phồng và chia rẽ. Nếu chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta lại quá háo hức muốn biết (và ngày nay, rất phấn khích trước triển vọng của trí tuệ nhân tạo!) mà lại ít quan tâm đến việc yêu thương, thì câu trả lời rất đơn giản: kiến thức biến thành sức mạnh, tình yêu thương biến thành sự phục vụ!

Cũng chính Henri de Lubac đã viết: “Thế giới phải biết: sự mặc khải của Thiên Chúa như là Tình yêu làm đảo lộn mọi thứ mà thế gian đã quan niệm về thần tính.” Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa hoàn thành (và sẽ không bao giờ) rút ra tất cả những hậu quả từ cuộc cách mạng truyền giáo về Chúa này. Trong bài suy niệm này, tôi muốn cho thấy làm thế nào, bắt đầu từ mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, các mầu nhiệm chính của đức tin chúng ta được soi sáng bằng ánh sáng mới: Chúa Ba Ngôi, Nhập Thể và Cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, và nó trở nên bớt khó khăn hơn để làm cho mọi người hiểu được những điều này. Khi Thánh Phaolô định nghĩa các thừa tác viên của Chúa Kitô là “những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 4:1), ngài muốn nói đến những mầu nhiệm đức tin này, ngài không đề cập đến một số nghi thức hay thậm chí chủ yếu đến các bí tích.

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi

Hãy bắt đầu với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tại sao Kitô hữu chúng ta tin rằng Thiên Chúa là một và ba ngôi? Trong nhiều dịp, tôi đã rao giảng lời Chúa cho các Kitô hữu sống ở các quốc gia có đa số người Hồi giáo, ở đó, dẫu sao, vẫn có sự khoan dung tương đối và khả năng đối thoại, chẳng hạn như ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Những Kitô hữu đó, chủ yếu là người nhập cư và làm công nhân, đôi khi nhờ tôi giúp họ trả lời một câu hỏi mà họ thường được hỏi ở nơi làm việc: “Tại sao các Kitô hữu các bạn lại nói rằng các bạn là những người độc thần nếu các bạn không tin vào một Thiên Chúa duy nhất?”

Tôi lặp lại ở đây câu trả lời mà tôi đã gợi ý cho họ bởi vì đó cũng là câu trả lời mà chúng ta nên đưa ra cho chính mình và cho những người đang vật lộn với cùng một vấn đề. Người Kitô hữu chúng ta tin Thiên Chúa Ba Ngôi vì chúng ta tin Thiên Chúa là tình yêu. Tất cả mọi tình yêu đều là tình yêu về một ai đó hoặc một cái gì đó; không có tình yêu “hư vô”, không có đối tượng, cũng như không có tri thức nào không phải là tri thức về một ai đó hay về một điều gì đó. Bây giờ, Thiên Chúa yêu ai, để được gọi là tình yêu? Nhân loại chăng? Vũ trụ chăng? Nếu vậy, thì Ngài chỉ là tình yêu trong vài tỷ năm, nghĩa là kể từ khi vũ trụ vật chất và loài người ra đời. Trước đó, Thiên Chúa yêu ai để được gọi là tình yêu, vì Thiên Chúa không thể thay đổi và bắt đầu trở thành điều mà trước đây Ngài không phải là? Các nhà tư tưởng Hy Lạp, quan niệm Thiên Chúa trên hết là Trí tuệ (Nous), có thể trả lời: Thiên Chúa nghĩ về chính mình; Ngài là “tư duy thuần túy.” Nhưng điều này không còn khả thi nữa khi người ta nói rằng Thiên Chúa là tình yêu, bởi vì “tình yêu thuần túy cho chính mình” sẽ chỉ là sự ích kỷ và tự ái.

Và đây là câu trả lời của mặc khải, được định nghĩa tại Công Đồng Nicê năm 325. Thiên Chúa luôn luôn là tình yêu – ab aeterno – bởi vì ngay cả trước khi có một đối tượng bên ngoài chính mình để yêu, thì Ngài đã có Ngôi Lời, “Con Một” mà Ngài đã yêu bằng tình yêu vô hạn, nghĩa là “trong Chúa Thánh Thần”.

Tất cả những điều này không giải thích được làm thế nào mà sự hiệp nhất lại có thể đồng thời là ba ngôi, một mầu nhiệm mà chúng ta không thể biết được vì điều đó chỉ xảy ra nơi Thiên Chúa. Tuy nhiên, nó giúp chúng ta hiểu tại sao, nơi Thiên Chúa, hiệp nhất cũng phải là hiệp thông và đa nguyên. Thiên Chúa là tình yêu, vì thế Người là Ba Ngôi! Một Thiên Chúa là tri thức thuần túy hoặc luật pháp thuần túy, hoặc quyền năng tuyệt đối, sẽ không cần phải là ba ngôi. Điều này thực sự sẽ làm phức tạp mọi thứ. Không có “tam đầu chế” và cũng chẳng có “nhị đầu chế” nào tồn tại lâu dài trong lịch sử!

Do đó, các tín hữu Kitô cũng tin vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa và là những người theo thuyết độc thần; tuy nhiên, đó là một sự hiệp nhất, không phải toán học và số học, mà là tình yêu và sự hiệp thông. Nếu có điều gì đó mà kinh nghiệm của lời loan báo này cho thấy vẫn có khả năng giúp con người ngày nay, nếu không phải là để giải thích, thì ít nhất là để có được ý niệm về Chúa Ba Ngôi, thì tôi xin nhắc lại, điều này chính là điều xoay quanh tình yêu. Thiên Chúa là một “hành động thuần túy” và hành động này là một hành động của tình yêu bao hàm, đồng thời và tuyệt đối, một người yêu, một người được yêu và chính tình yêu.

Tôi tin rằng mầu nhiệm của các mầu nhiệm không phải là Chúa Ba Ngôi; nhưng đó là hiểu được tình yêu thực sự là gì! Vì tình yêu thương chính là bản chất của Thiên Chúa nên chúng ta sẽ không được ban cho để biết đầy đủ tình yêu thương là gì, ngay cả trong cuộc sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, một cái gì đó tốt hơn là biết nó sẽ được trao cho chúng ta, đó là sở hữu nó và hài lòng với nó mãi mãi. Bạn không thể ôm lấy đại dương, nhưng bạn có thể đi vào trong nó!

Mầu nhiệm nhập thể

Chúng ta hãy chuyển sang một mầu nhiệm cao cả khác được tin tưởng và công bố cho thế giới: đó là sự Nhập Thể của Ngôi Lời. Tôi xin được thứ lỗi nếu trong phần này, có lẽ tôi yêu cầu một nỗ lực chú ý nhiều hơn những gì được yêu cầu hợp pháp đối với người nghe một bài giảng, nhưng tôi tin rằng nỗ lực đó đáng để thực hiện ít nhất một lần trong đời.

Hãy bắt đầu với câu hỏi nổi tiếng của Thánh Anselmô (1033-1109): “Tại sao Chúa xuống thế làm người?” – Cur Deus homo? Câu trả lời của thánh nhân là bởi vì chỉ có một người vừa là con người vừa là Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi. Trên thực tế, với tư cách là một con người, Ngài có thể đại diện cho toàn thể nhân loại, và với tư cách là Chúa, những gì Ngài làm có giá trị vô hạn, tương xứng với món nợ mà con người đã mắc phải với Chúa khi phạm tội.

Câu trả lời của Thánh Anselmô là hợp lệ, nhưng nó không phải là câu trả lời duy nhất có thể, cũng không phải là câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng rằng Con Thiên Chúa đã nhập thể “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta,” nhưng sự cứu rỗi của chúng ta không chỉ giới hạn ở việc xóa bỏ tội lỗi thôi, càng không phải là một tội lỗi cụ thể, là tội nguyên tổ. Do đó, có chỗ cho việc đào sâu đức tin.

Đây là điều mà Chân phước Duns Scotus (1265-1308) đã cố gắng thực hiện. Ngài nói, Thiên Chúa đã xuống thế làm người vì đây là kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa, trước cả chính sự sa ngã, để thế giới – được tạo dựng “nhờ Đức Kitô và cho Người” (Cl 1:16) – có thể tìm thấy nơi Người “vào thời viên mãn” vương quyền của Ngài và sự quy tụ muôn loài của Ngài (Ê-phê-sô 1:10). Scotus viết, “Trước hết, Chúa yêu chính mình;” sau đó Ngài “muốn được yêu bởi một người yêu Ngài ở mức độ cao nhất có thể ngoài bản thân Ngài;” do đó, Ngài “nhìn thấy trước sự kết hợp với bản chất phải yêu Ngài ở mức độ cao nhất.” Người yêu hoàn hảo này không thể là bất kỳ tạo vật nào hữu hạn, mà chỉ có thể là Ngôi Lời vĩnh cửu, do đó, Ngôi Lời sẽ nhập thể “dù không có ai phạm tội”. Tội lỗi của Adong quyết định phương thức Nhập thể (tức là sự chuộc tội qua cuộc khổ nạn và cái chết), không phải là bản thân sự kiện.

Đối với Scotus, thật không may, ngay từ đầu mọi sự, vẫn còn một Thiên Chúa được yêu mến, chứ không phải một Thiên Chúa yêu thương. Đó là tàn tích của tầm nhìn triết học về Chúa như một “động lực bất động”, người có thể được yêu, nhưng không thể yêu. Aristotle đã viết: “Thiên Chúa di chuyển thế giới bằng cách được yêu thương”, nghĩa là với tư cách là đối tượng của tình yêu chứ không phải với tư cách là người yêu thương. Phù hợp với tầm nhìn của phương Tây về Chúa Ba Ngôi, bản chất thần thánh, chứ không phải chính Chúa Cha, là điểm khởi đầu của diễn ngôn về Chúa. Và thiên nhiên, không giống như con người, không phải là một chủ thể có khả năng yêu thương! Về điều này, những người anh em Chính thống giáo của chúng ta, những người thừa kế của các Giáo phụ Hy Lạp, có tầm nhìn tốt hơn những người Latinh chúng ta.

Chính xác về điểm này, Kinh thánh kêu gọi chúng ta tiến lên một bước, ngay cả với sự kính trọng dành cho Scotus, hãy luôn ý thức rằng những lời khẳng định của chúng ta về Thiên Chúa chẳng qua chỉ là những dấu ngón tay thoáng qua trên mặt đại dương. Chúa Cha quyết định việc Ngôi Lời Nhập Thể không phải vì Ngài muốn có một ai đó bên ngoài Ngài yêu Ngài một cách xứng đáng với Ngài, nhưng vì Ngài muốn có một ai đó bên ngoài Ngài để yêu một cách xứng đáng với Ngài! Không phải để nhận được tình yêu, mà để tuôn đổ tình yêu. Khi giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới, trong Bí Tích Rửa Tội và Biến Hình, Chúa Cha trên trời phán: “Đây là Con Ta yêu dấu” (Mc 1:11; 9:7); Ngài không nói “Đây là Con yêu mến Ta.”

Chỉ có Chúa Cha trong Thiên Chúa Ba Ngôi (và trong toàn thể vũ trụ!), không cần được yêu thương để hiện hữu; Ngài chỉ cần yêu thôi. Chúa Con hiện hữu nhờ Chúa Cha; Chúa Cha hiện hữu không nhờ ai. Đây là điều bảo đảm vai trò của Chúa Cha như là cội nguồn và nguồn gốc duy nhất của Ba Ngôi đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về bản chất của ba ngôi chí thánh. Ở căn nguyên của mọi sự là trực giác chói lọi của thánh Augustinô và trường phái do ngài khai sinh, xác định Chúa Cha là người yêu, Chúa Con là người được yêu và Chúa Thánh Thần là tình yêu kết hợp Chúa Cha và Chúa Con. Về điểm này, người Latinh chúng ta cũng có một cái gì đó quý giá và cần thiết để cống hiến cho một tổng hợp đại kết. Một sự hòa giải giữa hai nền thần học dường như không còn quá khó khăn và xa vời; và đó sẽ là một bước tiến quyết định trong sự hiệp nhất giữa hai Giáo hội.

Mầu nhiệm cuộc thương khó

Chúng ta đến với mầu nhiệm cao cả thứ ba: cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô mà chúng ta đang chuẩn bị cử hành trong Lễ Phục Sinh. Chúng ta hãy xem, bắt đầu từ mạc khải về Thiên Chúa là tình yêu, mầu nhiệm này cũng được soi sáng như thế nào bằng một ánh sáng mới. “Nhờ vết thương của Người mà anh em được chữa lành” – với những lời này, nói về Tôi Tớ của Yavê (Is 53:5-6), đức tin của Giáo Hội đã diễn tả ý nghĩa cứu độ của cái chết của Chúa Kitô (1 Pr 2:24). Nhưng liệu những vết thương, thập giá và đau đớn – những sự thật tiêu cực và vì thế chỉ là sự loại bỏ điều thiện – có thể tạo ra một thực tại tích cực là sự cứu rỗi của cả nhân loại không? Sự thật là chúng ta không được cứu bởi sự đau khổ của Chúa Kitô, nhưng bởi tình yêu của Ngài! Chính xác hơn, bằng tình yêu được thể hiện trong sự hy sinh bản thân. Từ một tình yêu bị đóng đinh!

Đối với Abelard, người vào thời của ông, đã thấy ý tưởng về một Thiên Chúa “vui lòng” trước cái chết của Con Ngài là một điều đáng ghê tởm, Thánh Bernard trả lời: “Không phải cái chết của Con Ngài làm Ngài hài lòng, mà là ý chí tự do của Con Ngài chết cho chúng ta cách nhưng không.”

Nỗi đau của Chúa Kitô vẫn giữ nguyên giá trị của nó và Giáo hội sẽ không bao giờ ngừng suy niệm về điều đó: tuy nhiên, tự nó không phải là nguyên nhân của ơn cứu độ, nhưng là dấu chỉ và bằng chứng của tình yêu: “Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương của Người đối với chúng ta qua sự kiện là, đang khi chúng ta còn là người có tội, thì Đức Kitô vì chúng ta đã chịu chết” (Rm 5:8).

Điều này sẽ lấy đi khỏi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô một hàm ý luôn khiến tôi bối rối và không hài lòng: đó là ý tưởng về một cái giá và một khoản tiền chuộc phải trả cho Thiên Chúa (hoặc tệ hơn nữa là cho ma quỷ!), hoặc về một sự hy sinh để xoa dịu cơn giận của Thiên Chúa. Trên thực tế, chính Thiên Chúa đã hy sinh cao cả khi ban Con của Người cho chúng ta – không tiếc “con”, giống như Ápraham đã hy sinh không tiếc con mình là Isaác (St 22:16; Rm 8:32). Thiên Chúa là chủ thể hơn là người thụ hưởng hy lễ thập giá!

Một tình yêu xứng đáng với Chúa

Bây giờ chúng ta phải xem chân lý mà chúng ta đã chiêm ngắm trong các mầu nhiệm – Chúa Ba Ngôi, Nhập Thể và cuộc khổ nạn của Chúa Kitô – thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào. Và ở đây đang chờ đợi chúng ta “tin mừng” không bao giờ thiếu khi chúng ta cố gắng đào sâu kho tàng đức tin Kitô giáo. Tin mừng là nhờ được tháp nhập vào Chúa Kitô, chúng ta cũng có thể yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu xứng đáng với Người! Lời khẳng định của Thánh Phaolô: “Tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta” (Rm 5:5), không thể được hiểu đầy đủ nếu không được xem xét dưới ánh sáng của những lời Chúa Giêsu nói với Chúa Cha: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con… để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.” (Ga 17:23,26).

Tình yêu đã tuôn đổ vào chúng ta là tình yêu mà Chúa Cha đã luôn yêu mến Chúa Con, không phải là một tình yêu khác! Đó là sự tràn đầy tình yêu thiêng liêng từ Chúa Ba Ngôi cho chúng ta. Thánh Gioan Thánh Giá viết, Thiên Chúa truyền đạt cho linh hồn “chính tình yêu mà Người truyền đạt cho Chúa Con, ngay cả khi điều này không xảy ra tự nhiên, như trong trường hợp của Chúa Con, mà là do sự kết hiệp.” Kết quả là chúng ta có thể yêu Chúa Cha bằng tình yêu mà Chúa Con yêu mến Người và chúng ta có thể yêu Chúa Giêsu bằng tình yêu mà Chúa Cha yêu mến Người. Và tất cả những điều này nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng chính là tình yêu đó.

Vậy thì, chúng ta dâng gì của chính chúng ta cho Thiên Chúa khi chúng ta nói với Ngài: “Con yêu mến Chúa!” Không có gì ngoài tình yêu chúng ta nhận được từ Ngài! Như thế, hoàn toàn không có gì về phía chúng ta chăng? Phải chăng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa không gì khác hơn là một sự “bật ngược trở lại” về phía Ngài chính tình yêu của Ngài, phải chăng nó chỉ giống như tiếng vọng đưa âm thanh trở lại nguồn của Ngài? Thưa: Không phải đâu! Tiếng vang trở lại với Thiên Chúa từ thẳm sâu trái tim của chúng ta, nhưng với một điều mới lạ là tất cả dành cho Thiên Chúa: hương thơm của tự do và lòng biết ơn hiếu thảo của chúng ta! Tất cả những điều này được thực hiện một cách mẫu mực trong bí tích Thánh Thể. Trong đó, chúng ta dâng lên Chúa Cha, như “của lễ của chúng ta,” điều mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta trước, đó là Chúa Giêsu Con của Người.

Chúng ta có thể nói với Chúa Cha trong lời cầu nguyện của mình: “Lạy Cha, con yêu Cha bằng tình yêu mà Con Cha là Chúa Giêsu yêu mến Cha!” Và chúng ta có thể thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa bằng tình yêu mà Cha trên trời yêu mến Chúa!” Và hãy xác tín rằng tất cả những điều này không phải là ảo ảnh ngoan đạo trong trí tưởng tượng của chúng ta!

Mỗi lần trong khi cầu nguyện, tôi cố gắng tự mình làm điều này, tôi nhớ lại câu chuyện Giacóp đến gặp cha mình là Isaác, giả làm anh cả của ông, để nhận lời chúc phúc (St 27:1-23). Và tôi cố gắng tưởng tượng điều mà Chúa Cha có thể đang nói với chính tôi vào lúc đó: “Tiếng nói này không thực sự là tiếng nói của Con đầu lòng của Ta; nhưng bàn tay, bàn chân và toàn bộ cơ thể đều giống như Con của Ta đã mặc lấy trên trái đất và đưa lên thiên đàng đây.” Và tôi chắc chắn rằng Ngài chúc phúc cho tôi, cũng như Isaác đã chúc phúc cho Giacóp! Và Ngài chúc lành cho tất cả quý vị, quý Cha đáng kính, quý anh chị em. Đó là vẻ huy hoàng của đức tin Kitô giáo của chúng ta. Chúng ta hy vọng có thể truyền lại một số mảnh vỡ của nó cho những người nam nữ của thời đại chúng ta, những người khao khát tình yêu nhưng lại bỏ qua nguồn gốc của nó.

1.H. de Lubac, Exégèse médièvale, I, 2, Parigi 1959, p. 670.

2.Gregory the Great, Moralia in Job, Epist. Missoria, 4 (PL 75, 515).

3.Henri de Lubac, Histoire et Esprit, Aubier, Paris 1950, cap. V.

4.Aristotle, Metaphysics, XII,7 1072b.

5.Duns Scotus, Opus Parisiense, III, d. 7, q. 4 (Opera omnia, XXIII, Parigi 1894, p. 303).

6.Augustine, De Trinitate, VIII, 9,14; IX, 2,2; XV,17,31; Richard of St. Victor, De Trin. III,2.18; Bonaventure, I Sent. d. 13, q.1.

7.Bernard of Clairvaux, Against the errors of Abelardi, VIII, 21-22: “Non mors, sed voluntas placuit sponte morientis”.

8.John of the Cross, Spiritual canticle A, str. 38, 4.


Source:Cantalamessa
 
Vietcatholic News