Trang

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2024

Bài giảng Đức Thánh Cha - Lễ Dầu

 


 
  •  
  •  


BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA

LỄ DẦU

Những bài giảng của Đức Thánh Cha trong Lễ Dầu - Thứ Năm Tuần Thánh:

Đức Phanxicô:

06.04.2023  Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi

14.04.2022  Ba không gian của việc tôn thờ ngẫu tượng

01.04.2021  Giờ của việc loan báo và giờ của bách hại đi liền với nhau

18.04.2019 – Mối tương quan giữa Chúa Giêsu và đám đông

29.03.2018 – Linh mục gần gũi với Chúa và dân Chúa

13.04.2017 – Niềm vui của Tin mừng

24.03.2016 – Linh mục và Lòng Chúa Thương Xót

02.04.2015 – Thiên Chúa nâng đỡ sự mệt mỏi của các linh mục

17.04.2014  Được xức bằng dầu hoan lạc


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 06.04.2023 - Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi” (Lc 4,18). Từ câu này Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và đây cũng chính là câu mà chúng ta vừa nghe trong sách ngôn sứ Isaia (Is 61,1) ở bài đọc 1. Như vậy, khởi đầu là Thánh Thần Chúa.

Anh em thân mến, hôm nay tôi muốn suy niệm với anh em về Thần Khí của Chúa. Bởi vì không có Thần Khí của Chúa thì không có đời sống Kitô, và không có sự xức dầu của Người, sẽ không có sự thánh thiện. Thánh Thần là nhân vật chính và thật đẹp, hôm nay, trong ngày khai sinh chức linh mục, chúng ta nhìn nhận chính Người là nguồn gốc của thừa tác vụ linh mục chúng ta, nguồn của đời sống, sức sống của mỗi Mục tử. Thật vậy, Mẹ Giáo hội thánh thiện dạy chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần “Đấng ban sự sống” như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thần Khí mới làm cho sống” (Ga 6, 63); giáo huấn đã được thánh Phaolô lấy khi viết: “Chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cr 3, 6). Không có Thần Khí, cả Giáo hội cũng không phải là Hiền thê sống động của Chúa Kitô, nhưng chỉ là một tổ chức tôn giáo; không phải Thân Mình Chúa Kitô, nhưng là một đền thờ do tay con người làm nên. Giáo hội được thiết lập như thế nào nếu không phải khởi đi từ thực tế rằng chúng ta là “đền thờ của Thánh Thần” Đấng “ngự trong chúng ta”? (1Cr 6,19; 3, 16). Chúng ta không thể để Thánh Thần ở bên ngoài ngôi nhà hoặc ở một chỗ sùng kính nào đó. Mỗi ngày, chúng ta cần phải thưa với Người: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, bởi vì con người không thể làm gì được nếu không có sức mạnh của Ngài”.

Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Mỗi người chúng ta có thể nói như thế. Đây không phải là một suy đoán, mà là thực tế. Mỗi Kitô hữu, đặc biệt mỗi linh mục có thể nói những lời này: “Vì Đức Chúa đã xức dần tấn phong tôi” (Is 61,1). Anh em thân mến, không bởi công trạng, nhưng nhờ ân sủng chúng ta đã được xức dầu, làm cho chúng ta trở thành những mục tử của Dân thánh của Chúa. Chúng ta hãy dừng lại ở chiều kích này của Thánh Thần: xức dầu.

Sau lần “xức dầu” đầu tiên trong cung lòng Đức Maria, Thánh Thần đã ngự xuống trên Chúa Giêsu ở sông Giođan. Kết quả là, như thánh Basilio giải thích “mọi hành động của Chúa Giêsu đã được hoàn thành cùng với sự hiện diện của Thánh Thần”. Thật vậy, Chúa Giêsu đã rao giảng và làm mọi dấu chỉ nhờ quyền năng từ việc xức dầu, nhờ đó “Có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6, 19). Chúa Giêsu và Thánh Thần luôn hoạt động cùng nhau, như hai bàn tay của Chúa Cha – thánh Irênê nói –, hướng về chúng ta, ôm lấy và nâng chúng ta lên. Và từ Chúa Giêsu và Thánh Thần, đôi tay chúng ta đã được ghi dấu và thánh hiến. Anh em thân mến, đúng vậy, Thiên Chúa đã chọn và kêu gọi chúng ta, từ nơi này nơi khác…: Người đã tuôn đổ trên chúng ta dầu Thánh Thần, như chính Người đã trao ban cho các Tông đồ. Chúng ta trở nên những người được xức dầu.

Chúng ta hãy nhìn vào các Tông đồ. Chúa Giêsu đã chọn các ông và theo lời mời gọi, các ông đã bỏ thuyền, lưới, nhà cửa. Sự xức dầu của Lời Chúa đã thay đổi cuộc đời các ông. Các ông nhiệt thành theo Thầy và bắt đầu rao giảng, xác tín sẽ hoàn thành những điều vĩ đại hơn, cho đến Phục Sinh. Vào lúc đó, mọi thứ dường như dừng lại: các ông chối và bỏ Thầy. Chúng ta đừng sợ. Chúng ta can đảm đọc lại cuộc đời của mình và những sa ngã của mình. Kẻ đầu tiên chối và bỏ Thầy là Phêrô. Các ông chấp nhận sự bất xứng và nhận ra rằng đã không hiểu Người: “Tôi không biết người này” (Mc 17, 71). Việc thánh Phêrô đã khẳng định như thế trong sân thượng tế sau Tiệc Ly, không chỉ là một sự biện minh tuỳ hứng, nhưng là một sự thú nhận thiếu hiểu biết tâm linh: có lẽ thánh Phêrô và các Tông đồ khác mong đợi một cuộc sống thành công đàng sau một Đấng Mêsia có thể lôi cuốn đám đông và thực hiện những điều kỳ diệu, nhưng các ông đã không nhận ra cớ vấp phạm của thập giá, làm sụp đổ sự chắc chắn của các ông. Chúa Giêsu biết tự sức các ông, các ông không thể làm được, vì thế Chúa hứa cho các ông Đấng Bào Chữa. Và chính việc “xức dầu lần thứ hai”, Lễ Hiện Xuống đã biến đổi các môn đệ, làm cho các ông trở thành những người chăn dắt đàn chiên Chúa và các ông không còn tự dựa sức chính mình nữa. Và đây là mâu thuẫn cần phải giải quyết: tôi là mục tử của dân của Chúa hay của chính tôi? Chúa Thánh Thần sẽ dạy cho tôi con đường. Chính việc xức dầu bằng lửa đã dập tắt thứ tôn giáo tập trung vào chính mình và khả năng của mình. Với việc đón nhận Thánh Thần, nỗi sợ hãi và do dự của Phêrô tan biến; Giacôbê và Gioan bừng cháy ước muốn trao ban sự sống, ngừng theo đuổi chỗ danh dự (Mc 10, 35-45); những môn đệ khác không còn khép kín và lo sợ trong Phòng Tiệc Ly, nhưng ra đi trở thành tông đồ trong thế giới. Chính Chúa Thánh Thần làm thay đổi trái tim chúng ta, đặt nó ở đây với một kế hoạch khác.

Anh em thân mến, đời sống linh mục và tông đồ của chúng ta cũng có một hành trình tương tự như vậy. Lần xức dầu đầu tiên của chúng ta được bắt đầu bằng lời kêu gọi tình yêu, cướp lấy trái tim chúng ta. Vì lời kêu gọi này chúng ta đã để thuyền lại và với sự nhiệt thành đơn sơ, sức mạnh Thánh Thần đã ngự xuống và thánh hiến chúng ta. Rồi theo thời gian của Chúa, mỗi người đến giai đoạn phục sinh, đánh dấu thời điểm sự thật. Và đó là giai đoạn khủng hoảng, với nhiều hình thức. Tất cả, sớm hay muộn đều trải qua những thất vọng, mệt mỏi và yếu đuối, với lý tưởng dường như bị phai nhạt giữa những đòi hỏi của thực tế, trong khi một thói quen nào đó và một số thử thách, trước đây rất khó hình dung đến, làm cho chúng ta cảm thấy khó khăn hơn so với trước đây. Giai đoạn này, cám dỗ này, thử thách này mà chúng ta đã và sẽ gặp, là một quyết định quan trọng cho những ai đã được xức dầu. Chúng ta có thể trở nên tồi tệ, đi tới một sự tầm thường nào đó, kéo lê sự mệt mỏi trong “sự bình thường” nơi ba cám dỗ nguy hiểm len lỏi vào: sự thỏa hiệp, chúng ta hài lòng với những gì mình có thể làm; những bù trừ, chúng ta cố gắng “nạp năng lượng” cho mình bằng thứ gì đó xa lạ với sự xức dầu của chúng ta; sự chán nản – cái này phổ biến –, không hài lòng, bước đi một cách trì trệ. Điều này rất nguy hiểm: trong khi vẻ bên ngoài dường dư còn nguyên vẹn, “tôi là linh mục” -, chúng ta rút lui vào chính mình và cố gắng vượt qua một cách uể oải; hương thơm của việc xức dầu không còn là hương thơm sự sống và tâm hồn không mở rộng nhưng thu mình lại, bao quanh bởi sự vỡ mộng. Khi một linh mục dần trượt vào chủ nghĩa giáo sĩ trị, và linh mục quên mình là mục tử của dân, thì trở thành giáo sĩ nhà nước.

Nhưng cuộc khủng hoảng này cũng có thể trở thành bước ngoặt cho đời linh mục, “giai đoạn quyết định của đời sống thiêng liêng, trong đó phải chọn lựa dứt khoát giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa tính anh hùng của đức ái và sự tầm thường, giữa thập giá và hạnh phúc nào đó, giữa sự thánh thiện và sự trung thành trung thực với dấn thân ơn gọi”. Vào cuối Thánh Lễ, tôi tặng anh em một món quà cổ điển, một cuốn sách liên quan đến vấn đề này: cuốn sách “Lời kêu gọi thứ hai”, là một cuộc sách cổ điển của cha Voillaume. Anh em hãy đọc nó. Rồi tất cả chúng ta cần phản tỉnh về giây phút này của ơn gọi linh mục của chúng ta.

Đây là giây phút được chúc phúc như các môn đệ trong ngày Phục Sinh, chúng ta được mời gọi “khiêm nhường để thú nhận mình đã được Chúa Kitô chịu sỉ nhục và chịu đóng đinh chinh phục, và chấp nhận bắt đầu một hành trình mới, hành trình của Thần Khí, đức tin và một tình yêu mạnh mẽ và không ảo tưởng”. Đó là sự hạ mình để khám phá ra rằng “mọi sự không chỉ dừng lại ở việc bỏ thuyền và lưới để theo Chúa Giêsu trong một thời gian nhất định, nhưng đòi hỏi phải đi đến đồi Canvê, đón nhận bài học và đón nhận hoa trái từ đó, và ra đi với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho đến cuối cuộc đời, cần phải kết thúc trong sự hoàn thiện của Đức Ái Thiên Chúa”. Với sự trợ giúp của Thánh Thần: đã đến lúc, đối với chúng ta cũng như với các Tông đồ, cho một sự “xức dầu lần thứ hai”, chúng ta phải lắng nghe lời kêu gọi lần hai, chúng ta đón nhận Thần Khí không phải vì sự nhiệt thành của những giấc mơ, nhưng trên sự yếu đuối của thực tại chúng ta. Đó là sự xức dầu làm cho chân lý trở nên sâu thẳm, cho phép Thần Khí xức dầu những yếu đuối, gian truân, nghèo nàn nội tâm. Như thế, xức dầu làm cho có hương thơm mới: của Người, không phải của chúng ta. Vào lúc này, trong thâm tâm, tôi đang nhớ đến một số trong anh em đang gặp khủng hoảng, có thể nói là những người bị mất phương hướng và không biết bước đi thế nào, không biết quay trở lại con đường của việc xức dầu Thánh Thần lần hai này như thế nào. Với những anh em này, tôi chỉ nói: can đảm lên, Chúa lớn hơn những yếu đuối của anh em, tội lỗi của anh em. Hãy tin cậy Chúa và để cho mình được kêu gọi lần thứ hai, lần này với sự xức dầu của Thánh Thần. Cuộc sống hai mặt sẽ không giúp ích gì cho anh em; ném mọi thứ đó ra ngoài cửa sổ. Hãy nhìn về phía trước, để cho mình được xoa dịu từ sự xức dầu của Chúa Thánh Thần.

Và cách để đạt được điều này là nhìn nhận sự thật về yếu đuối của chính mình. “Thần Khí sự thật” (Ga 16,13) khuyến khích chúng ta điều này, Đấng thúc đẩy chúng ta nhìn vào bên trong, để chúng ta tự hỏi: sự thành công của tôi tùy thuộc vào tài khéo, vai trò, những lời khen ngợi mà tôi nhận được, từ công việc tôi làm, từ bề trên hay những người cộng tác, từ những tiện nghi mà tôi có thể đảm bảo, hay từ sự xức dầu làm cho đời tôi toả hương thơm? Anh em thân mến, sự trưởng thành của linh mục đến từ Chúa Thánh Thần, được hoàn thành khi Người trở thành nhân vật chính trong cuộc đời chúng ta. Tất cả thay đổi cách nhìn, ngay cả những thất vọng, cay đắng và cả tội lỗi, bởi vì không còn là chuyện cố gắng trở nên tốt hơn bằng cách sửa chữa một điều gì đó, nhưng là trao chính mình, không giữ lại bất cứ điều gì, cho Đấng đã xức dầu chúng ta và muốn xuống với chúng ta đến tận cùng. Rồi chúng ta tái khám phá ra rằng đời sống thiêng liêng trở nên tự do và vui tươi không phải khi các hình thức được cứu vãn và một miếng vá được khâu lại, nhưng khi chúng ta buông mình cho sáng kiến của Thần Khí và phó thác cho ý muốn của Người, chúng ta sẵn sàng phục vụ ở đâu và như thế nào khi chúng ta được yêu cầu: Chức tư tế của chúng ta không phát triển bằng sự chắp vá, nhưng bằng cách tràn đầy!

Nếu chúng ta để Thần chân lý hành động trong mình, chúng ta sẽ giữ được sự xức dầu, vì những giả dối, giả hình giáo sĩ, mà chúng ta bị cám dỗ sống theo sẽ bị đưa ra ánh sáng. Và Thánh Thần, Đấng “rửa sạch những gì ô uế”, sẽ không ngừng nhắc nhở chúng ta “đừng làm vấy bẩn sự xức dầu”, dù chỉ một chút. Tôi nhớ đến một câu trong sách Giảng Viên: “Một con ruồi chết làm thối cả bình dầu thơm; một chút ngu si gây phương hại cho cả khôn ngoan và danh giá” (10, 1). Đúng là mọi sự dối trá, hai mặt, lẻn vào đều nguy hiểm: không nên dung thứ cho nó, nhưng hãy đưa nó ra ánh sáng Thánh Thần. Bởi vì nếu “không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được” (Gr 17,9), thì Chúa Thánh Thần, chỉ một mình Người, chữa lành chúng ta khỏi những điều bất trung (Hs 14, 5). Đối với chúng ta, đó là một cuộc đấu tranh cần thiết: thực tế, như thánh Grêgôriô Cả đã viết, “ai công bố lời Chúa, trước tiên hiến thân cho chính lối sống của mình, bởi vì sau đó, rút ​​ra từ chính cuộc sống của mình, người ấy học được phải nói gì và nói như thế nào. . [...] Không ai dám nói ra bên ngoài điều mà trước đây chưa từng nghe bên trong”. Và Thánh Thần là vị thầy nội tâm để chúng ta lắng nghe, biết rằng không có điều gì trong chúng ta mà Người không muốn xức dầu. Anh em thân mến, chúng ta hãy bảo vệ sự xức dầu: khẩn cầu Thánh Thần không phải là việc thực hành thỉnh thoảng, nhưng là hơi thở mỗi ngày. Tôi được Người thánh hiến, được kêu gọi đắm mình trong Người, để ánh sáng Người chiếu vào rất nihều chỗ mờ tối của tôi để tái khám phá sự thật về con người tôi. Chúng ta hãy để cho Người thúc đẩy chúng ta chiến đấu với những điều giả dối đang khuấy động bên trong chúng ta; và chúng ta hãy để cho mình được tái sinh bởi Người trong sự tôn thờ, bởi vì khi chúng ta tôn thờ, Chúa sẽ đổ Thần Khí của Người vào tâm hồn chúng ta.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi; Người đã sai tôi đi”, lời ngôn sứ tiếp tục, để mang tin mừng, giải thoát, chữa lành và ân sủng (Is 61,1-2; Lc 4,18-19): tóm lại, mang lại sự hài hòa cho những nơi không có. Bởi như thánh Basiliô nói “Thánh Thần là sự hài hoà”, thì chính Người cũng tạo nên sự hài hoà. Sau khi nói về việc xức dầu, tôi muốn nói với anh em đôi điều về sự hài hòa bắt nguồn từ sự xức dầu. Thật vậy, Chúa Thánh Thần là sự hài hòa. Trước hết là trên Trời Cao: Thánh Basilio giải thích rằng “tất cả sự hài hòa siêu nhiên và không thể diễn tả được trong việc phụng sự Thiên Chúa và trong bản giao hưởng hỗ tương của các sức mạnh siêu vũ trụ, thì không thể được gìn giữ nếu không bởi quyền năng Thánh Thần”. Và trên mặt đất: thực tế, trong Giáo hội, Thánh Thần là “Sự Hài hoà âm nhạc và sự thánh thiêng” liên kết tất cả. Mà anh em hãy nghĩ, một linh mục không có sự hài hoà, không có Thần Khí thì không ổn. Đấng khơi dậy sự đa dạng của các đặc sủng và quy tụ trong sự hiệp nhất, tạo ra một sự hòa hợp không dựa trên sự đồng nhất hóa, nhưng trên sự sáng tạo đức ái. Sự hòa hợp giữa nhiều người cũng vậy. Sự hoà hợp giữa các linh mục cũng vậy. Trong những năm của Công đồng Vatican II, vốn là một ân ban của Chúa Thánh Thần, một thần học gia đã công bố một nghiên cứu, mời gọi suy nghĩ về Thánh Thần như một Ngôi vị Thiên Chúa không phải ở số ít, mà ở “số nhiều”, giống như “chúng ta của Thiên Chúa”, chúng ta của Chúa Cha và Chúa Con, bởi vì Người là mối liên hệ của Cha và Con, Thánh Thần hòa hợp trong chính Người, hiệp thông, hài hòa.

Thánh Thần mong muốn tạo ra sự hòa hợp, đặc biệt qua những ai Người đã xức dầu. Anh em thân mến, xây dựng sự hòa hợp giữa chúng ta không phải là một phương pháp tốt để liên kết Giáo hội tiến triển tốt hơn, đó không phải là vấn đề chiến lược hay sự nhã nhặn: đó là một đòi hỏi nội tại của đời sống Thần Khí. Chúng ta phạm tội chống Thần Khí là Đấng hiệp thông khi chúng ta trở thành công cụ chia rẽ; rơi vào tay kẻ thù, ưa thích những tin đồn và bóng gió, xúi giục đảng phái, nuôi dưỡng hoài niệm quá khứ, ngờ vực, bi quan, sợ hãi. Chúng ta hãy cẩn thận, không làm vấy bẩn sự xức dầu của Chúa Thánh Thần và y phục của Mẹ Giáo hội bằng sự bất hoà, phân cực, thiếu bác ái và hiệp thông. Chúng ta hãy nhớ rằng Thần Khí, “chúng ta của Thiên Chúa”, ưa thích hình thức cộng đoàn hơn, nghĩa là: sự sẵn sàng hơn là nhu cầu cá nhân, vâng lời hơn là sở thích riêng, khiêm nhường hơn là ước muốn riêng.

Hài hoà không chỉ là một đức tính trong số những đức tính khác, mà còn hơn thế. Thánh Grêgôriô Cả viết: “Nhân đức hòa thuận rất có giá trị, nếu không có nhân đức này, tất cả các nhân đức khác chẳng có giá trị gì”. Chúng ta hãy giúp đỡ nhau để giữ gìn sự hòa thuận. Đây là một nhiệm vụ, không bắt đầu từ người khác, nhưng từ chính mỗi người; chúng ta hãy tự hỏi: trong lời nói, nhận xét của tôi, trong điều tôi nói và viết, có dấu ấn của Thần Khí hay của thế gian? Tôi cũng nghĩ đến sự tử tế của linh mục, - mà nhiều khi các linh mục, chúng ta mất lịch sự. Chúng ta hãy nghĩ đến sự tử tế của linh mục: nếu dân chúng thấy nơi chúng ta những con người không hài lòng và bất mãn, hay chỉ trích, thì họ sẽ thấy sự hài hòa ở đâu? Biết bao người không đến gần hoặc bỏ đi vì trong Giáo hội, họ không cảm thấy được chào đón và yêu thương, nhưng bị nhìn với ánh mắt nghi ngờ và phán xét! Nhân danh Chúa, chúng ta luôn chào đón và tha thứ! Và chúng ta hãy nhớ rằng phát cáu và than phiền, ngoài việc không tạo ra điều gì tốt đẹp, còn làm hỏng việc loan báo, vì nó là phản chứng về Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông và hòa hợp. Trên hết, điều này phiền lòng Thánh Thần, Đấng mà Tông đồ Phaolô khuyên chúng ta chớ làm phiền (Ep 4, 30).

Anh em thân mến, tôi để lại cho anh em những suy nghĩ phát ra tự đáy lòng và tôi kết luận bằng cách nói với anh em một lời đơn giản và quan trọng: cám ơn anh em. Cám ơn anh em vì chứng tá và sự phục vụ của anh em; cám ơn anh em vì rất nhiều việc làm tốt đẹp âm thầm, vì sự tha thứ và an ủi mà anh em đã trao ban nhân danh Chúa: hãy tha thứ luôn luôn, vui lòng đừng từ chối tha thứ; cám ơn anh em vì thừa tác vụ linh mục, thường được thực hiện giữa nhiều khó khăn, không được hiểu và ít được công nhận. Xin Thần Khí Thiên Chúa, Đấng không để những ai đặt niềm tin vào Người thất vọng, ban bình an cho anh em và hoàn tất điều Người đã khởi sự nơi anh em, để anh em trở thành ngôn sứ xức dầu của Người và là tông đồ của sự hài hòa.

Nguồn: vaticannews.va/vi


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 14.04.2022 - Ba không gian của việc tôn thờ ngẫu tượng

Trong bài đọc ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa đưa ra một lời hứa đầy hy vọng làm chúng ta xúc động: “Anh em sẽ được gọi là tư tế của Đức Chúa, người ta sẽ gọi anh em là người phụng sự Thiên Chúa chúng ta. [...] Ta sẽ theo lòng thành tín mà ban phần thưởng cho các ngươi, và sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửa” (61,6.8). Anh em thân mến, trở thành linh mục là một ân sủng, một ân sủng rất lớn, ân sủng trước hết không phải cho chúng ta, nhưng là cho dân chúng; và đối với dân tộc chúng ta, đó là một hồng ân tuyệt vời mà Chúa chọn giữa đàn chiên Người, một số người chăm sóc riêng cho các đàn chiên Người, với tư cách là những người cha và mục tử. Chính Chúa bảo đảm với phần thưởng cho linh mục: “Ta sẽ theo lòng thành tín mà ban phần thưởng cho các ngươi” (Is 61,8). Và Thiên Chúa là một người trả lương tốt, mặc dù Người có những nét đặc thù, như trả công cho những người cuối cùng trước.

Phần thưởng của Chúa là tình yêu và sự tha thứ

Bài Đọc Sách Khải Huyền cho chúng ta biết phần thưởng của Chúa là gì. Đó là Tình yêu của Người và sự tha thứ vô điều kiện tội lỗi chúng ta bằng giá máu của Người đã đổ trên Thánh giá: “Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta và lấy mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1,5-6). Không có phần thưởng nào lớn hơn tình bạn với Chúa Giêsu. Không có sự bình an nào lớn hơn sự tha thứ của Người. Không có giá nào đắt hơn máu châu báu Người, điều chúng ta không được phép khinh thường với một hành vi bất xứng.

Anh em linh mục thân mến, nếu chúng ta đọc bằng con tim thì đây là lời mời gọi của Chúa để chúng ta trung thành với Người, trung thành với Giao ước của Người, hãy để cho mình được yêu thương, được tha thứ. Đây là những lời mời gọi không chỉ cho chính chúng ta, nhưng còn để chúng ta có thể phục vụ dân thánh trung thành của Chúa với lương tâm trong sạch. Dân chúng xứng đáng và cần điều này. Tin Mừng Luca cho chúng ta biết, sau khi đọc đoạn sách ngôn sứ Isai trước mặt dân Người ngồi xuống, “Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người” (4, 20). Hôm nay, Sách Khải huyền cũng nói với chúng ta về việc chăm chú nhìn Chúa Giêsu, về sức lôi cuốn không thể cưỡng lại của Chúa chịu đóng đinh và phục sinh, Đấng thúc đẩy chúng ta đến để tôn thờ và nhận ra: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!” (1.7). Ân sủng cuối cùng, khi Chúa Phục sinh trở lại, sẽ là sự nhận biết ngay lập tức: chúng ta sẽ thấy Người bị đâm thâu, chúng ta sẽ nhận ra Người là ai và chúng ta là ai, tội nhân; không gì khác hơn.

“Chăm chú nhìn Chúa Giêsu” là một ân sủng

“Chăm chú nhìn Chúa Giêsu” là một ân sủng, mà chúng ta, các linh mục phải trau dồi. Là điều tốt vào cuối ngày, nhìn lên Chúa, và để Chúa nhìn vào tâm hồn chúng ta, cùng với những người chúng ta đã gặp. Đây không phải là việc đếm tội, nhưng là một chiêm ngắm đầy yêu thương, chúng ta nhìn vào ngày sống của chúng ta với cái nhìn của Chúa Giêsu và như thế nhìn thấy những ân sủng trong ngày, những ân ban và tất cả những gì Người đã làm cho chúng ta, để tạ ơn. Và chúng ta cũng cho Chúa thấy những cám dỗ của chúng ta, để nhận ra và từ chối chúng. Như chúng ta thấy, đó là việc hiểu điều gì làm đẹp lòng Chúa và điều Người muốn nơi chúng ta ở đây và bây giờ, trong lịch sử hiện tại của chúng ta.

Nhìn Chúa để thấy những thần tượng ẩn giấu bên trong

Và nếu chúng ta chăm chú nhìn vào ánh mắt đầy nhân lành của Chúa, thì cũng sẽ là một dấu hiệu để cho Chúa thấy những thần tượng của chúng ta. Những thần tượng này giống bà Rakhen, chúng ta đã giấu chúng  dưới các nếp áo choàng của chúng ta (St 31,34-35). Để Chúa nhìn vào các thần tượng ẩn giấu sẽ làm cho chúng ta mạnh mẽ chống lại chúng và lấy đi quyền năng của chúng. Trong thực tế, cái nhìn của Chúa làm chúng ta thấy rằng chúng ta tự tôn vinh chính mình trong các thần tượng, vì ở đó, trong không gian đó, chúng ta sống như thể độc quyền này, ma quỷ trà trộn bằng cách thêm vào một yếu tố rất xấu xa. Nó khiến chúng ta không chỉ tự mãn, tự do kiếm chế đam mê này hoặc nuôi dưỡng đam mê khác, nhưng còn dẫn chúng ta đến việc thay thế sự hiện diện của các Ngôi vị Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, ngự trong chúng ta, bằng các thần tượng đó. Điều này thực sự xảy ra trong thực tế. Ngay cả khi chúng ta tự nhủ rằng chúng ta hoàn toàn có thể phân biệt được đâu là thần tượng và đâu là Thiên Chúa, nhưng thực tế, chúng ta đang lấy đi không gian của Chúa Ba Ngôi để trao nó cho ma quỷ, trong một kiểu tôn thờ gián tiếp: Sự tôn thờ của một người trốn chạy khỏi ma quỷ, nhưng lại luôn lắng nghe những lý lẽ và tiêu thụ các sản phẩm của nó, để cuối cùng không còn một khoảng trống nào dành cho Chúa. Có điều gì đó – một yếu tố - về thần tượng mang tính cá nhân. Khi chúng ta không lột mặt nạ chúng, khi chúng ta không để Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng chúng ta đang tìm kiếm chính mình một cách sai trái chẳng vì lý do gì, chúng ta để chỗ cho Ác Thần. Chúng ta phải nhớ rằng ma quỷ đòi hỏi chúng ta phải làm theo ý nó và phục vụ nó, nhưng không phải lúc nào nó cũng yêu cầu chúng ta phải phục vụ và tôn thờ nó cách liên tục. Thỉnh thoảng nhận được sự tôn thờ của chúng ta là đủ để ma quỷ chứng tỏ rằng nó là chúa thực sự của chúng ta và thậm chí cảm thấy như thần tượng trong cuộc sống và trong trái tim chúng ta.

Ba không gian của việc tôn thờ ngẫu tượng ẩn giấu

Trong lễ Truyền dầu này, tôi muốn chia sẻ  với anh em ba không gian của việc tôn thờ ngẫu tượng ẩn giấu, trong đó Ác Thần sử dụng các thần tượng của chúng để làm suy yếu chúng ta khỏi ơn gọi làm mục tử và từng chút một, tách chúng ta khỏi sự hiện diện tốt lành và yêu thương của Chúa Giêsu, của Chúa Thánh Thần và của Chúa Cha.

Thần tượng trong tinh thần thế gian mang tính thiêng liêng

Một không gian của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu mở ra ở bất cứ nơi nào có tinh thần thế gian mang tính thiêng liêng, đó là “một đề xuất cho cuộc sống, một nền văn hóa, một nền văn hóa của phù du, bề ngoài, hoá trang”. Tiêu chí của nó là sự chiến thắng, một chiến thắng không thập giá. Chúa Giêsu cầu nguyện để Chúa Cha bảo vệ chúng ta khỏi nền văn hóa thế tục này. Cám dỗ một vinh quang không Thập giá này đi ngược lại con người của Chúa, Đấng hạ mình Nhập thể, và Đấng như một dấu hiệu của sự chống đối, là phương thuốc duy nhất chống lại mọi thần tượng. Trở nên nghèo với Chúa Kitô, và “vì Chúa Kitô chọn nghèo khó” là lý luận của Tình yêu chứ không phải của một điều khác. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy cách Chúa vào hội đường khiêm tốn trong ngôi làng nhỏ bé, nơi phần lớn cuộc đời Người đã trải qua, để loan báo chính điều Người sẽ thực hiện vào cuối lịch sử, khi Nguời sẽ đến trong Vinh quang, cùng với các thiên thần xung quanh. Và chúng ta phải chăm chú nhìn Chúa Kitô, ở đây và bây giờ câu chuyện của Người với tôi, như sẽ xảy ra sau đó. Tinh thần thế gian tìm kiếm vinh quang của chính mình lấy khỏi chúng ta sự hiện diện của Chúa Giêsu khiêm nhường và chịu sỉ nhục, Chúa gần gũi với mọi người, Chúa Kitô đau khổ với tất cả những người đau khổ, Đấng được dân chúng tôn thờ, Đấng biết ai là bạn thật. Một linh mục theo tinh thần thế gian không gì khác hơn là một kẻ ngoại đạo khoác áo giáo sĩ.

Thần tượng: Quan tâm trước tiên đến những con số

Một không gian khác của việc tôn thờ ngẫu tượng ẩn giấu bắt nguồn từ nơi tính thực dụng của những con số được coi là ưu tiên hàng đầu. Những người yêu mến thần tượng ẩn giấu này có thể được công nhận vì tình yêu của họ đối với các số liệu thống kê, những thứ có thể làm mất tính chất con người trong các cuộc thảo luận và lấy số đông làm tiêu chí cho sự phân định. Đây không thể là cách duy nhất và cũng không thể là tiêu chí duy nhất trong Giáo hội của Chúa Kitô. Con người không thể được “đánh số”, và Thiên Chúa không ban Thần Khí “bằng thước đo” (Ga 3,34). Thực tế, trong sự quyến rũ của những con số, chúng ta tìm kiếm chính mình và chúng ta hài lòng với sự kiểm soát được đảm bảo bởi lý luận này, vốn không quan tâm đến các khuôn mặt cá nhân và xa rời tình yêu. Một đặc điểm của các vị thánh lớn là biết rút lui để dành mọi không gian cho Thiên Chúa. Sự rút lui, sự quên mình và muốn được mọi người quên đi này là đặc tính của Thánh Thần, Đấng theo một nghĩa nào đó là “vô diện”, đơn giản vì tất cả Tình yêu làm cho hình ảnh của Con và Cha tỏa sáng.

Thần tượng: Duy chức năng, nhắm hiệu quả

Không gian thứ ba của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu, so với điều trước đó, là không gian mở ra với chủ nghĩa chức năng. Điều này có thể quyến rũ; nhiều người “nhiệt tình với các danh mục hơn là lên đường”. Tâm thức của người theo chủ nghĩa chức năng hướng đến hiệu quả, không quan tâm đến mầu nhiệm. Từng chút một, thần tượng này đang thay thế sự hiện diện của Chúa Cha trong chúng ta. Cha chúng ta là Đấng Tạo Hóa, nhưng không phải là Đấng chỉ làm cho mọi thứ “hoạt động”. Người “tạo nên” chúng ta với tư cách là Cha, với sự dịu dàng, chăm sóc thụ tạo và làm cho con người tự do hơn. Người theo chủ nghĩa chức năng không biết vui mừng trước những ân sủng mà Thánh Thần ban cho dân mình, từ đó họ cũng có thể “được nuôi” như người thợ thì đáng được trả công. Linh mục với tâm thức chức năng nuôi dưỡng chính mình, đó là cái tôi của mình. Theo chủ nghĩa chức năng, chúng ta bỏ qua một bên việc tôn thờ Chúa Cha trong những việc nhỏ và lớn của cuộc đời mình và chúng ta hài lòng với hiệu quả các chương trình của chúng ta. Như Đavít khi bị Satan cám dỗ, đã thực hiện các bước để thực hiện việc thống kê dân số (1Sb 21,1)

Trong hai không gian cuối cùng của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu (theo các con số và duy chức năng) chúng ta thay thế hy vọng, là không gian của cuộc gặp gỡ với Chúa, bằng các kết quả thực nghiệm. Đó là một thái độ hư danh về phía mục tử, một thái độ làm tan rã sự kết hợp của dân với Thiên Chúa và định hình một thần tượng mới dựa trên những con số và chương trình: thần tượng “sức mạnh của tôi, sức mạnh của chúng tôi”. Việc che giấu những thần tượng này và không biết cách vạch mặt chúng ra trong cuộc sống hàng ngày làm tổn hại đến lòng trung thành của giao ước linh mục của chúng ta và làm cho mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Chúa trở nên nguội lạnh.

Chúa Giêsu là đường duy nhất để tránh sai lầm

Anh em thân mến, Chúa Giêsu là con đường duy nhất để tránh sai lầm khi biết điều chúng ta cảm thấy và trái tim dẫn chúng ta đến đâu. Chúa là con đường duy nhất để phân định rõ ràng bằng đối chiếu mình với Chúa, hằng ngày, như thể hôm nay Người đã ngồi trong nhà thờ giáo xứ của chúng ta và nói với chúng ta rằng hôm nay mọi điều chúng ta nghe đã ứng nghiệm. Chúa Giêsu Kitô, là một dấu hiệu của sự chống đối - không phải lúc nào cũng là điều gì đó khắc nghiệt và đau đớn, vì lòng thương xót và hơn thế nữa sự dịu dàng là một dấu hiệu của sự mâu thuẫn – tôi nhắc lại Chúa Giêsu Kitô làm cho những thần tượng này phải lộ diện, để chúng ta có thể thấy sự hiện diện, nguồn gốc và chức năng của chúng, và để Chúa có thể tiêu diệt chúng. Và chúng ta phải nhớ và chú ý kẻo cỏ lùng của những thần tượng mà chúng ta đã giấu trong lòng có thể mọc lên một lần nữa.

Mẫu gương của Thánh Giuse

Và tôi muốn kết thúc bằng cách cầu xin Thánh Giuse, người cha thuần khiết nhất và không có thần tượng ẩn giấu, giải thoát chúng ta khỏi mọi ham muốn chiếm hữu, vì ước muốn chiếm hữu là mảnh đất màu mỡ để những thần tượng này phát triển. Xin ngài ban cho chúng ta ân sủng kiên trì trong công việc phân định những thần tượng này mà thường chúng ta che giấu hoặc nó lẩn trốn. Và chúng ta cũng cầu xin, nếu chúng ta nghi ngờ không biết làm thế nào để làm mọi việc tốt hơn, thì xin ngài cầu bầu để Thánh Thần soi sáng cho sự phán đoán của chúng ta, như Người đã soi sáng cho thánh Giuse khi ngài có ý định rời bỏ Đức Maria “cách lặng lẽ”. Bằng cách này với tấm lòng cao cả, chúng ta biết tuân theo bác ái những gì chúng ta đã học theo luật.

Nguồn: vaticannews.va/vi (14.4.2022)


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 01.04.2021 - Giờ của việc loan báo và giờ của bách hại đi liền với nhau

Tin Mừng cho chúng ta thấy một sự thay đổi trong tâm hồn giữa những người đang lắng nghe Chúa. Sự thay đổi thật kịch tính và nó cho thấy mức độ mà cuộc bách hại và thập giá có liên hệ với việc loan báo Tin Mừng. Sự ngưỡng mộ được khơi dậy bởi những lời đầy ân sủng của Chúa Giêsu đã không tồn tại lâu trong tâm trí của người dân Nazareth. Nghe những lời của Chúa Giêsu, dân chúng ngạc nhiên bảo nhau “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22).

Đó là một trong những cách diễn đạt mơ hồ được buột miệng thốt ra khi đi ngang qua. Một người có thể sử dụng nó một cách tán thành để nói: “Thật kinh ngạc khi một người có xuất thân nghèo hèn như thế lại nói với quyền năng như thế!”, Nhưng người khác có thể dùng nó để nói với vẻ khinh bỉ: “Tên này từ đâu đến? Ai tin được hắn?”. Nếu suy nghĩ về điều này, chúng ta có thể nghe những lời tương tự được nói vào ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các tông đồ được tràn đầy Chúa Thánh Thần bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Có người nói: “Tất cả những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê sao?” (Cv 2:7). Trong khi một số người tiếp nhận lời, thì những người khác chỉ nghĩ rằng các tông đồ say rượu.

Nói một cách chính xác, những lời nói ở Nazareth có thể đi theo một hướng nào đó, nhưng nếu chúng ta nhìn vào những gì diễn ra sau đó, rõ ràng chúng chứa đựng mầm mống bạo lực sẽ được tung ra chống lại Chúa Giêsu.

Đây là “những lời biện minh” [1], chẳng hạn như khi ai đó nói: “Điều đó thật quá đáng!” rồi lại tấn công người khác hoặc bỏ đi.

Lần này, Chúa Giêsu, đôi khi không nói gì hoặc chỉ bỏ đi, đã không để những lời bình luận trôi qua. Thay vào đó, Ngài vạch trần sự ác độc ẩn giấu dưới chiêu bài buôn chuyện đơn giản trong làng. Ngài nói: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !”. “Hãy chữa chính mình…”

“Hãy tự cứu mình…”. Những lời này chứa đầy chất độc! và những lời tương tự cũng xảy ra trên thập giá: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi !” (Lc 23:35). Một trong những tên trộm sẽ nói thêm “Xin cứu chúng tôi” (x. Lc 23,39)

Như thường lệ, Chúa từ chối đối thoại với ma quỷ; Chúa chỉ trả lời bằng những lời của Kinh thánh. Về phần mình, các ngôn sứ Elijah và Elisa được chấp nhận không phải bởi những người đồng hương của họ mà bởi một góa phụ người Phê-ni-xi và một người Syria mắc bệnh phong: hai người dân ngoại, hai người thuộc tôn giáo khác. Điều này thật đáng chú ý và nó cho thấy lời tiên tri được linh hứng của cụ Simeon rằng Chúa Giêsu sẽ là một “duyên cớ cho sự chống bán (semeion antilegomenon)” (Lc 2:34) [2] đã đúng như thế nào.

Lời của Chúa Giêsu có sức mạnh làm sáng tỏ bất cứ điều gì mỗi người chúng ta giữ kín trong sâu thẳm tâm hồn, thường lẫn lộn với nhau như lúa mì và cỏ lùng. Và điều này dẫn đến xung đột tinh thần. Khi nhìn thấy những dấu chỉ lòng thương xót dồi dào của Chúa và nghe thấy những “mối phúc” cũng như những “mối họa” được tìm thấy trong Tin Mừng, chúng ta thấy mình buộc phải phân định và quyết định. Trong trường hợp này, lời nói của Chúa Giêsu không được chấp nhận và điều này khiến đám đông phẫn nộ tìm cách giết Người. Nhưng đó chưa phải là “giờ” của ngài, và Chúa, như Tin Mừng nói với chúng ta, “đi ngang qua giữa họ rồi đi”.

Đó không phải là giờ của Người, nhưng sự giận dữ nhanh chóng của đám đông bùng lên và cơn thịnh nộ dữ dội chuẩn bị giết Chúa ngay tại chỗ cho chúng ta thấy rằng đó luôn là giờ của Người. Đó là điều tôi muốn chia sẻ với anh chị em hôm nay, hỡi các linh mục thân mến: giờ vui mừng rao giảng, giờ bách hại và giờ thập giá phải đi đôi với nhau.

Việc loan báo Tin Mừng luôn được liên kết với việc đón nhận một Thánh giá cụ thể. Ánh sáng dịu nhẹ của Lời Chúa tạo nên sự trong sáng cho những tấm lòng sẵn sàng, nhưng khơi dậy sự bối rối và khước từ trong những con tim không sẵn sàng. Chúng ta thấy điều này rất nhiều trong các Tin Mừng.”

Hạt giống tốt được gieo trên cánh đồng đơm hoa kết trái – mỗi hạt trổ sinh một trăm, sáu mươi, ba mươi - nhưng nó cũng đánh thức lòng đố kỵ của kẻ thù, điên cuồng gieo cỏ lùng vào lúc đêm khuya (Mt 13, 24-30.36-43).

Sự dịu dàng của người cha nhân hậu lôi cuốn người con hoang đàng, không thể cưỡng lại, trở về với cha, nhưng nó cũng khơi dậy lòng căm phẫn và uất hận của người con cả (Lc 15,11-32).

Sự rộng lượng của chủ vườn nho là lý do để tri ân những người làm công đến vào giờ cuối cùng, nhưng cũng là lý do để những người đến trước đưa ra những lời nhận xét gay gắt vì cảm thấy bị xúc phạm vì lòng tốt của người chủ (Mt 20, 1- 16).

Sự gần gũi của Chúa Giêsu khi ngồi cùng ăn với các tội nhân đã chinh phục được lòng của những người như ông Giakêu, thánh Mátthêu, của người phụ nữ Samari…, nhưng nó cũng khiến những người tự cho mình là công chính cảm thấy khinh thường Người...

Sự cao thượng của vị vua sai con trai mình đi, vì nghĩ rằng con mình sẽ được những tá điền tôn trọng, đã bộc lộ trong họ một sự hung dữ vượt quá mọi giới hạn. Ở đây chúng ta thấy mình đứng trước mầu nhiệm của sự gian ác, dẫn đến việc giết chết Đấng Công Chính (x. Mt 21:33-46).

Thưa anh em linh mục, tất cả những điều này cho chúng ta thấy rằng việc loan báo Tin mừng có liên hệ cách mầu nhiệm với sự bách hại và với Thánh giá.

Thánh Ignatius Loyola – thứ lỗi cho tôi vì “quảng cáo cho dòng mình” – bày tỏ sự thật Phúc Âm này trong việc ngài chiêm ngưỡng Lễ Giáng Sinh của Chúa. Ở đó, ngài mời gọi chúng ta “hãy xem xét và suy ngẫm những gì Thánh Giuse và Đức Mẹ đã làm khi bắt đầu cuộc hành trình của các ngài để Chúa có thể sinh ra trong cảnh nghèo khó cùng cực và sau bao vất vả – chịu đói, khát, nóng và lạnh, bị thương và bị sỉ nhục – chết trên Thập Giá và tất cả những điều này là vì tôi”. Sau đó, Ngài mời gọi chúng ta “khi suy ngẫm về điều này, hãy rút ra một số lợi ích thiêng liêng” (Linh thao, 116). Niềm vui mừng Chúa giáng sinh; nỗi đau của Thập Giá; bách hại.

Chúng ta có thể suy tư gì để “thu được một số lợi ích” cho đời sống linh mục của mình bằng cách chiêm ngưỡng sự xuất hiện sớm này của thập giá – của sự hiểu lầm, chối bỏ và bách hại – ngay từ đầu và ngay tại trung tâm của việc rao giảng Tin Mừng?

Hai suy nghĩ xảy ra với tôi.

Trước hết, đừng ngạc nhiên khi nhận ra rằng Thánh giá đã có trong cuộc đời Chúa Giêsu ngay từ đầu sứ vụ của Người và ngay cả trước khi Người sinh ra: trong sự bối rối của Mẹ Maria khi nghe thiên thần truyền tin; khi thánh Giuse khó ngủ vì buộc phải bỏ rơi vị hôn thê của mình; trong cuộc bách hại của vua Hêrôđê và những vất vả của Thánh gia, giống nhiều gia đình phải rời bỏ quê hương.

Tất cả điều này giúp chúng ta nhận ra rằng mầu nhiệm Thánh giá đã có ngay từ đầu. Nó giúp chúng ta hiểu rằng Thánh giá không phải là một sự việc đến sau, hay thỉnh thoảng, đến từ một biến cố trong cuộc đời của Chúa. Đúng là tất cả những người đóng đinh người khác trong suốt lịch sử đều cho thấy Thánh giá là một tai hại phụ thuộc, nhưng không phải vậy: Thánh giá không phụ thuộc vào hoàn cảnh. Những Thánh giá to nhỏ của nhân loại, của chúng ta không phải là điều tình cờ.

Tại sao Chúa đón nhận Thánh giá cách trọn vẹn và cho đến cùng? Tại sao Chúa Giêsu lại đón nhận trọn cuộc Thương khó của Người? Người đã đón nhận sự phản bội và bỏ rơi của các bạn hữu sau Bữa Tiệc Ly, Người chịu bị bắt bất hợp pháp, phiên tòa sơ sài và bản án không tương xứng, bạo lực vô cớ và bất công khi bị đánh đập và phỉ nhổ ...? Nếu hoàn cảnh có thể quyết định sức mạnh cứu rỗi của Thánh giá, thì Chúa đã không đón nhận mọi sự. Nhưng khi giờ của Chúa đến, Người đã đón nhận trọn vẹn Thánh giá. Vì trên Thánh  giá không thể có sự mơ hồ! Thánh giá không thể bị điều đình thương lượng.

Suy tư thứ hai: Thánh giá đúng là điều không thể thiếu trong cuộc đời con người, những giới hạn và yếu đuối của chúng ta. Nhưng, điều xảy ra trên Thánh giá không liên quan đến sự yếu đuối của con người chúng ta, nhưng là vết cắn của con rắn, khi nhìn thấy Chúa bị đóng đinh, không thể tự vệ được, đã cắn Người hầu muốn đầu độc và phá bỏ mọi công việc của Người. Nó cố gắng gây tai tiếng, làm cho mọi sự phục vụ và hy sinh với tình yêu dành cho người khác trở nên vô ích và vô nghĩa... Nhưng chính Máu Thịt Chúa là thuốc độc đối với ma quỷ, nhưng lại là thuốc giải cho chúng ta chống lại quyền lực sự dữ. Nó là nọc độc của tên ác quỷ cứ khăng khăng cám dỗ: hãy tự cứu mình!

Chính trong “vết cắn” khắc nghiệt và đau đớn tìm cách mang lại cái chết này mà chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa đã được nhìn thấy. Thánh Maximus cho chúng ta biết rằng nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, một sự đảo ngược đã diễn ra. Khi cắn vào thịt Chúa, ma quỷ không đầu độc Người, vì nơi Người chỉ gặp được sự hiền lành vô hạn và vâng phục ý muốn của Chúa Cha. Thay vào đó, nó bị mắc vào móc thập giá, nó đã cắn thịt Chúa, thịt này tỏ ra độc hại đối với nó, trong khi đối với chúng ta, đó là liều thuốc giải độc giúp vô hiệu hóa quyền lực của tên ác quỷ.[3]

Đây là những suy ngẫm của tôi. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ân sủng để được lợi ích từ giáo huấn này. Đúng là thập giá hiện diện trong việc rao giảng Tin Mừng của chúng ta, nhưng đó là thập giá cứu độ của chúng ta. Nhờ bửu huyết hòa giải của Chúa Giêsu, nó là Thánh giá chứa đựng sức mạnh chiến thắng của Chúa Kitô, đánh bại sự dữ, giải thoát chúng ta khỏi ma quỷ. Đón nhận Thánh giá cùng với Chúa Giêsu và rao giảng về Thánh giá giống như Người đã làm, giúp chúng ta phân định và từ bỏ nọc độc của khủng hoảng mà ma quỷ muốn đầu độc chúng ta bất cứ khi nào chúng ta gặp thấy Thánh giá trong cuộc đời mình.

Tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái nói: “Chúng ta không phải là những người bỏ cuộc” (Dt 10,39), “Chúng tôi không nằm trong số những người lùi bước”. Đây chính là lời khuyên mà tác giả dành cho chúng ta. Chúng ta không bị khủng hoảng, vì Chúa Giêsu không bị khủng hoảng khi thấy rằng tin mừng cứu độ của Người dành cho người nghèo không được mọi người hết lòng đón nhận, nhưng vẫn ở giữa những tiếng la hét và đe dọa của những người từ chối nghe lời Người hoặc muốn biến nó thành chủ nghĩa tuân thủ luật pháp như chủ nghĩa đạo đức hay chủ nghĩa giáo quyền.

Chúng ta không bị khủng hoảng bởi vì Chúa Giêsu không bị khủng hoảng khi phải chữa lành bệnh tật và giải thoát các tù nhân giữa những cuộc tranh cãi về đạo đức, pháp lý và giáo sĩ nảy sinh mỗi khi Người làm một điều gì đó tốt.

Chúng ta không bị khủng hoảng vì Chúa Giêsu, không bị khủng hoảng khi phải mang lại ánh sáng cho người mù giữa những người nhắm mắt để không nhìn, hoặc nhìn theo hướng khác...

Chúng ta không bị khủng hoảng vì Chúa Giêsu đã không bị khủng hoảng khi việc Người công bố một năm ân sủng của Chúa – một năm bao trùm toàn bộ lịch sử – đã gây ra một vụ bê bối công khai trong những vấn đề mà ngày nay hầu như không thể xuất hiện trên trang thứ ba của một tờ báo địa phương.

Chúng ta không bị khủng hoảng vì việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, không phải dựa những lời nói hùng hồn của chúng ta mà dựa vào sức mạnh của Thánh giá (1Cor 1, 17).

Cách chúng ta đón nhận Thánh giá trong việc rao giảng Tin Mừng –  bằng những việc làm và khi cần thiết, bằng lời nói – cho thấy rõ hai điều: những đau khổ đến từ Tin Mừng không phải là của chúng ta, mà là “những đau khổ của Chúa Kitô trong chúng ta” (2Cr 1, 5); và “chúng ta không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng ta, chúng ta chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu.” (2Cr 4, 5).

Tôi muốn kết thúc bằng cách chia sẻ một trong những kỷ niệm của tôi. “Một lần, vào thời điểm đen tối của cuộc đời, tôi đã cầu xin Chúa ban ơn giải thoát tôi khỏi một hoàn cảnh khó khăn và phức tạp. Một khoảnh khắc đen tối. Tôi phải giảng Linh thao cho một số nữ tu, và vào ngày cuối cùng, theo thông lệ thời đó, tất cả họ đều đi xưng tội. Một chị lớn tuổi đến; cô ấy có một ánh mắt trong sáng, đôi mắt tràn đầy ánh sáng. Một người phụ nữ của Chúa. Khi xưng tội xong, tôi cảm thấy muốn xin chị một ân huệ, nên tôi nói với chị: ‘Này chị, khi đền tội, hãy cầu nguyện cho tôi, vì tôi cần một ân sủng đặc biệt. Hãy cầu xin Chúa điều đó. Nếu chị xin Chúa chắc chắn Người sẽ ban cho tôi’. Cô ấy im lặng một lúc và dường như đang cầu nguyện, rồi cô ấy nhìn tôi và nói: 'Chúa chắc chắn sẽ ban cho cha ân sủng đó, nhưng đừng nhầm lẫn: Ngài sẽ ban nó cho cha theo cách thiêng liêng của Ngài' . Điều này mang lại cho tôi rất nhiều lợi ích khi biết rằng Chúa luôn ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin, nhưng Ngài làm như vậy theo cách thiêng liêng của Ngài. Con đường đó liên quan đến thập giá. Đau khổ vì yêu, hãy yêu đến cùng”.[4]

____________

[1] Là bậc thầy về đời sống thiêng liêng, Cha Claude Judde nói về những cách diễn đạt đi kèm với các quyết định của chúng ta và chứa đựng “lời cuối cùng”, từ đưa ra quyết định và thúc đẩy một người hoặc một nhóm hành động. Cf. C. JUDDE, Oeuvres Spirituelles, II, 1883 (Instruction sur la connaissance de soi-même), trang 313-319), trong M. Á. FIORITO, Buscar y hallar la voluntad de Dios, Buenos Aires, Paulinas, 2000, 248 s.

[2] “Antilegomenon” có nghĩa là họ sẽ nói theo những cách khác nhau về Chúa: một số sẽ nói tốt về Chúa và những người khác sẽ nói xấu về Chúa.

[3] Xem. Cent. Tôi, 8-13.

[4] Bài giảng trong Thánh lễ ở Santa Marta, ngày 29 tháng 5 năm 2013.

 Nguồn: vaticannews.va/vi/


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 18.04.2019 – Mối tương quan giữa Chúa Giêsu và đám đông

Anh chị em thân mến,

Tin mừng theo Thánh Lu-ca mà chúng ta vừa lắng nghe khiến chúng ta hồi tưởng lại sự phấn khởi của giây phút khi Chúa lấy lời của ngôn sứ I-sai-a chỉ về chính mình, khi Ngài trịnh trọng đọc nó giữa những người trên quê hương của Ngài. Hội đường Na-da-rét đầy những người thân thuộc, hàng xóm, người quen, bạn bè… của Ngài. Mọi người chăm chú nhìn Ngài. Giáo hội luôn chăm chú nhìn lên Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng được Xức Dầu, được Thần Khí sai xuống để xức dầu cho dân Thiên Chúa.

Các Tin mừng thường trình bày cho chúng ta hình ảnh này của Chúa ở giữa một đám đông, bị mọi người vây quanh và xô đẩy để tiến đến Ngài cùng với những người bệnh, họ xin Ngài xua đuổi các tà thần, họ lắng nghe những lời giảng dạy của Ngài và cùng đi với Ngài trên con đường. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10:27-28).

Chúa không bao giờ đánh mất sự liên hệ trực tiếp đó với con người. Giữa các đám đông, Ngài luôn luôn giữ ơn gần gũi với mọi người nói chung, và với mỗi cá nhân. Chúng ta nhìn thấy điều này trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, và vì thế ngay từ ban đầu: ánh hào quang của Chúa Con nhẹ nhàng cuốn hút những mục đồng, các vua và những người già mang ước mơ như ông Si-mê-on và bà An-na. Vì thế trên thập già: Trái tim của Ngài kéo mọi người đến gần với Ngài (Ga 12:32): bà Ve-rô-ni-ca,kẻ trộm, viên đại đội trưởng …

Cách nói “đám đông” không có ý xem thường. Có thể đối với một số người, nó gợi lên một đám đông không có khuôn mặt, không có tên tuổi … Nhưng trong Tin mừng chúng ta nhìn thấy rằng khi đám đông tương tác với Chúa – Đấng đứng giữa họ như một mục tử giữa đoàn chiên của mình – liền có một điều gì đó xảy ra. Tận trong sâu thẳm, mọi người cảm thấy khao khát đi theo Chúa Giê-su, sự kinh ngạc lớn lên, sự phân định nhanh chóng phát triển.

Tôi muốn cùng mọi người suy tư về ba ơn là nét đặc trưng cho mối quan hệ giữa Chúa Giê-su và đám đông.

Ơn tìm đến

Thánh Lu-ca nói rằng những đám đông “tìm đến Chúa Giê-su” (4:42) và “cùng đi với Ngài” (14:25). Họ “chen lấn” và xô đẩy Người” (8:42-45); họ “tuôn đến để nghe Người” (5:15).

“Sự tìm đến” của họ là một điều gì đó hoàn toàn bất ngờ, vô điều kiện và đầy cảm mến. Nó đối nghịch với sự nhỏ nhen của các môn đệ, thái độ của họ với người dân có phần tàn nhẫn khi họ đề nghị với Chúa rằng Ngài phải giải tán họ, để họ kiếm cái gì đó để ăn.

Tôi tin rằng đây là bước khởi đầu của tính giáo sĩ trị: với mong muốn có sự bảo đảm cho bữa ăn và sự thoải mái cá nhân mà không hề quan tâm đến người khác. Chúa cắt đứt ngay cám dỗ đó: “Các con hãy cho họ ăn!” là câu trả lời của Chúa Giê-su. “Hãy chăm sóc dân chúng!”

Ơn ngạc nhiên

Ơn thứ hai mà đám đông nhận được khi họ đi theo Chúa Giê-su là ơn đầy sự ngạc nhiên. Người ta ngạc nhiên bởi Chúa Giê-su (Lc 11:14), bởi những phép lạ, nhưng trên hết bởi chính con người của Ngài. Người ta thích được gặp Ngài trên đường, để nhận phúc lành của Ngài và chúc lành cho Ngài, như người phụ nữ ở giữa đám đông chúc phúc Mẹ Người. Chính Chúa cũng ngạc nhiên trước niềm tin của mọi người; Ngài vui mừng và không bỏ lỡ cơ hội để nói về nó.

Ơn biết phân định

Ơn thứ ba mà người dân được đón nhận là ơn biết phân định. “Đám đông dân chúng biết thế [nơi Chúa Giê-su đến], liền đi theo Người” (Lc 9:11). Họ “sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7:28-29; x. Lc 5:26). Đức Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, đánh thức trong mọi người đặc sủng phân định này, chắc chắn đó không phải là sự phân định của những người chuyên gia trong các câu hỏi tranh luận. Khi những người Pha-ri-sêu và những thầy thông luật tranh luận với Ngài, điều mà dân chúng nhận ra là uy quyền của Chúa Giê-su, uy quyền của lời dạy của Ngài chạm đến tâm hồn của họ, và sự thật là các tà thần phải tuân phục Ngài (ngay lập tức làm cho những người muốn đưa ngài vào bẫy bằng những câu hỏi của họ phải nín lặng; dân chúng thích điều đó).

Chúng ta nhìn gần hơn vào cách Tin mừng mô tả đám đông. Lu-ca chỉ ra bốn nhóm đám đông rất lớn là những người được thụ hưởng việc xức dầu của Chúa: người nghèo, người mù, người bị áp bức và người bị giam cầm. Ngài nói về họ bằng những cụm từ tổng quát, nhưng rồi chúng ta vui mừng khi nhìn thấy rằng, trong suốt cuộc đời của Chúa, những người được xức dầu này dần dần có những tên và những khuôn mặt rõ ràng. Khi dầu được xức trên một phần thân thể, kết quả tốt lành của nó lan tỏa đi khắp thân thể. Cũng như vậy, Chúa lấy lời sứ ngôn của I-sai-a, đặt tên cho “những đám đông” khác nhau là những người mà Thần Khí sai Ngài đến với họ, tùy theo điều mà chúng ta có thể gọi là một “sự ưu ái bao gồm”: ơn sủng và đặc sủng được trao ban cho một người hay một nhóm người có kết quả âm vang sự tốt lành đến cho tất cả mọi người, giống như mọi hoạt động của Thần Khí.

Người nghèo (tiếng Hy lạp là ptochoi) là những người phải cong lưng xuống, như những người hành khất cúi mình xin của bố thí. Người nghèo (ptochè) cũng vậy, như người đàn bà góa được xức dầu bằng những ngón tay của bà với hai đồng kẽm là tất cả những gì bà có để sống trong ngày hôm đó. Việc xức dầu của người đàn bà góa đóng góp của bố thí chẳng thu hút được sự chú ý của bất kỳ con mắt của người nào ngoại trừ Chúa Giê-su, là người trìu mến nhìn đến sự nhỏ bé của bà. Qua bà, Chúa có thể hoàn thành trọn vẹn việc loan báo Tin mừng cho người nghèo.

Nghịch lý thay, các môn đệ nghe được tin vui mà những người như bà sống. Bà – một người phụ nữ quảng đại – không hề tưởng tượng rằng bà lại “được đưa vào Tin mừng,” rằng hành động đơn sơ của bà lại được ghi vào trong Tin mừng. Cũng như tất cả những người nam và nữ là “những thánh nhân hàng xóm,” bà hân hoan trong lòng vì những hành động của bà “rất nặng ký” trong Nước Trời, và đáng giá hơn tất cả những sự giàu có trên thế gian.

Người mù được đại diện bởi một trong những nhân vật được yêu thích nhất trong Tin mừng: Ba-ti-mê (x. Mt 10:46-52), một người hành khất mù lấy lại được đôi mắt sáng, và từ giây phút đó chỉ có đôi mắt để đi theo Chúa Giê-su trên con đường của Ngài. Việc xức dầu của cái nhìn! Cái nhìn của chúng ta, cái nhìn mà chỉ ánh mắt của Chúa Giê-su mới có thể phục hồi lại ánh sáng bằng một tình yêu nhưng không, ánh sáng đó mỗi ngày bị đánh cắp dần dần bởi những hình ảnh hấp dẫn và vô vị của thế gian bủa vây chúng ta. Nói đến những người bị áp bức (tiếng Hy lạp là tethrausmenoi), Thánh Lu-ca sử dụng một từ có hàm chứa ý tưởng về một “trauma” (người bị thương). Từ ngữ đó đủ để gợi lên dụ ngôn về người Sa-ma-ri Tốt lành – có lẽ là từ ngữ yêu thích nhất của Thánh Lu-ca – người dùng dầu xức và băng bó những vết thương (traumata: Lc 10:34) của người đàn ông bị những kẻ cướp đánh đập tàn nhẫn và để nằm bên vệ đường. Việc xức dầu cho da thịt bị thương tổn của Đức Ki-tô! Trong việc xức dầu đó chúng ta tìm được phương thuốc chữa lành cho tất cả những người bị thương tổn trong đó gồm những cá nhân mỗi người, những gia đình và toàn thể các dân tộc bị quên lãng, bị loại trừ và bị gạt bỏ, bên lề của lịch sử.

Người bị giam cầm là những tù nhân chiến tranh (tiếng Hy lạp là aichmalotoi), những người bị đưa ra trước mũi giáo (aichmé). Chúa Giê-su sử dụng cùng một từ để nói về việc chiếm thành Giê-ru-sa-lem là thành trì thân thương của Ngài, và sự lưu đày của dân thành (Lc 21:24). Các thành phố của chúng ta hôm nay không trở thành tù nhân đến mức phải đứng trước mũi giáo như ngày xưa, nhưng bởi những phương tiện thuộc địa hệ tư tưởng tinh vi.

Chỉ bằng việc xức dầu văn hóa, được xây dựng bằng sức lao động và nghệ thuật của cha ông chúng ta, thì mới giải thoát các thành phố của chúng ta khỏi những hình thức nô lệ mới này.

Về phần chúng ta, thưa các anh em linh mục thân yêu, chúng ta không được quên rằng những gương mẫu rao giảng phúc âm của chúng ta là “những người” đó, là “đám đông” với những khuôn mặt thật, mà việc xức dầu của Chúa nâng dậy và làm hồi sinh.

Họ là những người làm cho việc xức dầu của Thần Khí trong chúng ta trở nên trọn vẹn và xác thực; họ là những người mà chúng ta được xức dầu để xức dầu họ. Chúng ta được chọn ở giữa họ, và chúng ta đừng e sợ đồng nhất hóa mình với những người này. Họ là hình ảnh của linh hồn chúng ta và là một hình ảnh của Giáo hội. Mỗi người họ là hiện thân của một tâm hồn của dân tộc chúng ta.

Người linh mục chúng ta là người nghèo và chúng ta cần phải có tâm hồn của bà góa nghèo khi chúng ta làm phúc bố thí, chạm đến bàn tay của người hành khất và nhìn vào đôi mắt của họ. Người linh mục chúng ta là những Ba-ti-mê, và mỗi sáng thức dậy chúng ta cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin cho con được đôi mắt sáng.” Ở một mức độ tội lỗi nào đó của chúng ta, người linh mục là người đàn ông bị đánh đập bởi những kẻ cướp. Và trước hết chúng ta muốn được ở trong bàn tay đầy lòng trắc ẩn của người Sa-ma-ri Tốt lành, để rồi từ đó có khả năng thể hiện lòng trắc ẩn với người khác bằng đôi bàn tay của chúng ta.

Tôi thú thật với anh em rằng bất cứ khi nào tôi truyền chức, tôi thích làm vấy bẩn trán và bàn tay của người tôi xức dầu bằng dầu thánh hiến. Trong cách xức dầu dư tràn như vậy, chúng ta có thể cảm nhận rằng việc xức dầu của chúng ta đang được đổi mới. Tôi muốn nói như vầy: chúng ta không phải là những người phân phát dầu được đóng trong chai. Chúng ta xức dầu bằng việc phân phát chính bản thân của chúng ta, phân phát ơn gọi và tâm hồn của chúng ta. Khi chúng ta xức dầu người khác, là chính chúng ta được xức dầu một lần nữa bằng đức tin và lòng yêu mến của con người. Chúng ta xức dầu bằng cách làm bẩn đôi bàn tay của chúng ta khi chạm đến những vết thương, những tội lỗi và những điều lo lắng của con người. Chúng ta xức dầu bằng cách xức dầu thơm cho bàn tay chúng ta khi chạm đến đức tin của họ, những hy vọng, lòng trung thành và lòng quảng đại cho đi vô điều kiện của họ.

Những ai học được cách xức dầu và chúc phúc lành thì được chữa lành khỏi sự ích kỷ, lạm dụng và độc ác.

Qua cách cùng đặt mình ở giữa dân của chúng ta cùng với Chúa Giê-su, nguyện xin Chúa Cha đổi mới Thần Khí của sự nên thánh tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta; xin Người ban cho chúng ta trở thành người biết khẩn xin lòng thương xót cho dân được trao phó dưới sự chăm sóc của chúng ta và cho toàn thế giới. Bằng cách này, sự đông đảo của các dân tộc, được Đức Ki-tô tụ họp về, có thể trở thành một dân tộc trung thành của Chúa, là dân tộc sẽ đạt được sự kiện toàn trong Nước Trời (x. Lời cầu nguyện truyền chức linh mục).

Nguồn: daminhtamhiep.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 29.03.2018 – Linh mục gần gũi với Chúa và dân Chúa

Anh em linh mục giáo phận Roma và anh em linh mục các giáo phận khác trên toàn thế giới, thân mến!

Khi đọc phụng vụ Lời Chúa hôm nay, tôi để tâm chú ý đoạn trích sách Đệ nhị luật nói rằng: “Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4,7). Sự gần gũi của Thiên Chúa… Sự gần gũi của Đấng là mục tử của chúng ta.

Trong bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia, chúng ta chiêm ngưỡng vị sứ giả của Chúa, vị ấy “được sức dầu và được sai đi”, đến giữa dân Chúa, đến gần người nghèo, người đau ốm và các tù nhân… Thần Khí Chúa ngự trên vị ấy, để tăng sức và đồng hành với vị ấy trên suốt hành trình.

Trong Thánh Vịnh 88, chúng ta thấy cách thức gần gũi của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dẫn dắt Vua Đavit ngay từ khi Đavit còn rất trẻ. Chúa gìn giữ ông khi ông về già. Chúa ban cho ông danh hiệu thành tín: sự gần gũi của Thiên Chúa vững bền qua muôn thế hệ, và đó chính là lòng thành tín của Chúa.

Sách Khải Huyền đưa chúng ta lại gần Thiên Chúa, diện đối diện. Những lời ấy như sau: “Kìa mọi ánh mắt sẽ nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người”. Những lời ấy làm cho chúng ta nhận ra rằng, các vết thương của Đấng Phục Sinh là luôn luôn nhìn thấy được. Chúa luôn đến với chúng ta, như người thân cận của chúng ta, như thân thể của những ai đau khổ, đặc biệt là những người bé nhỏ.

Trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa qua ánh mắt của chính người dân, vì lúc đó, mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Chúa (Lc 4:20). Chúa Giêsu đứng dậy đọc sách trong hội đường Nazaret. Người mở sách ra và đọc sách ngôn sứ Isaia. Mở ra, người gặp đoạn nói về người Tôi Tớ, chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã sức dầu tấn phong tôi…” (Is 61:1). Khi kết thúc, Chúa đã đánh thức người nghe nhận ra sự gần gũi được hàm chứa trong những lời Sách Thánh. Chúa nói: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).

Chúa Giêsu gặp thấy và đọc lên sách thánh trong sự thông hiểu của một kinh sư. Người cũng có thể trở thành một nhà thông luật hoặc biệt phái, nhưng không, Chúa muốn trở thành Người loan báo Tin Mừng. Chúa muốn trở thành người giảng dạy trên đường phố, trở thành người mang tin vui cho người dân, trở thành vị sứ giả bước những bước chân như tiên tri Isaia loan báo: Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng!

Đây là chọn lựa tuyệt vời của Thiên Chúa: Chúa chọn sống gần gũi dân Chúa. Suốt ba mươi năm sống ẩn dật! Chỉ sau ba mươi năm sống cùng mọi người, Chúa mới bắt đầu đời rao giảng. Ở đây, chúng ta thấy phương pháp sư phạm của mầu nhiệm Nhập Thể, phương pháp hội nhập văn hóa, không chỉ đối với các văn hóa nước ngoài, nhưng trong chính giáo xứ của chúng ta, trong thứ văn hóa mới mẻ của người trẻ.

Sự gần gũi không chỉ là tên gọi của một nhân đức, mà còn là một thái độ kết nối toàn thể con người ta, gắn kết cách thức mà chúng ta tương quan với nhau, định hình cung cách mà chúng ta quan tâm đến bản thân và đến tha nhân… Khi người giáo dân nói về một linh mục rằng: “cha ấy rất thân thiện gần gũi chúng tôi”, thì giáo dân có ý nói hai điều. Thứ nhất có nghĩa rằng: cha ấy luôn hiện hiện với chúng tôi. Điều này trái ngược với điều mà nhiều người sẽ nói: Thưa cha, con biết cha rất bận… Thứ hai có nghĩa, rằng vị linh mục ấy sẵn lòng tiếp chuyện mọi người, rằng vị linh mục ấy nói chuyện với mọi người, với người lớn, với trẻ nhỏ, với người nghèo, với người chưa có niềm tin… Các linh mục phải là những người gần gũi, ở giữa người dân. Các linh mục phải là những người luôn sẵn lòng ở giữa mọi người vì mọi người, sẵn lòng nói chuyện với mọi người… tựa như những vị linh mục đường phố.

Một trong những người học được từ Chúa Giêsu cách thế trở thành nhà rao giảng đường phố, đó là Philipphe. Trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta đọc thấy tông đồ Philipphe ra đi loan báo Tin Mừng khắp các thành phố với đầy niềm vui (Cv 8:4.5-8). Philipphe là một trong những người mà Thần Khí có thể bắt lấy bất cứ lúc nào, và thúc đẩy ông ra đi loan báo Tin Mừng từ nơi này đến nơi khác, để làm phép rửa cho tha nhân, ngay cả cho vị quan của nữ hoàng Etiopia (Cv 8:5.36-40).

Sự gần gũi rất quan trọng đối với các thừa tác viên loan báo Tin Mừng, vì sự gần gũi là một trong những thái độ then chốt trong Tin Mừng. Chúa thường nói về điều ấy khi nhắc tới Nước Trời. Chúng ta có thể chắc chắn rằng, sự gần gũi thân thiện là yếu tố then chốt của lòng thương xót, vì giống như người Samaritano nhân hậu, sẽ chẳng có lòng thương xót nếu không biết rút ngắn khoảng cách mà tiến lại giúp đỡ tha nhân. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng, sự gần gũi là yếu tố then chốt của sự thật. Có thể rút ngắn khoảng cách để biết được sự thật cần được quan tâm hay không? Có chứ. Bởi vì sự thật không chỉ là một định nghĩa về những hoàn cảnh hoặc những điều này nọ từ một khoảng cách, bằng những lối luận lý trừu tượng. Sự thật không chỉ thế. Sự thật, chân lý cũng là sự thành thực. Điều này đòi hỏi chúng ta gọi tên anh chị em bằng cái tên thực sự của họ, chứ không phải theo những phạm trù hoặc theo những cái danh theo chức bậc theo hoàn cảnh này nọ.

Chúng ta phải cẩn thận, để khỏi rơi vào cám dỗ của những thần tượng, cám dỗ của những chân lý trừu tượng. Cám dỗ ấy cung cấp những thần tượng thoải mái, những lối đi dễ dãi, những uy tín này nọ, những quyền lực khó có thể nhận định. Những loại thần tượng của kiểu chân lý trừu tượng ấy, dường như khoác lấy dáng vẻ của Tin Mừng, nhưng hãy cẩn thận, đừng để những lời ấy chạm vào trái tim. Bởi vì lối cám dỗ ấy rất tệ, bởi vì các cám dỗ ấy tách rời người thường dân ra khỏi sự gần gũi chữa lành của lời Chúa và của bí tích mà Chúa đã lập.

Ở đây, chúng ta hãy trở về với Mẹ Maria, Mẹ của các linh mục. Chúng ta cũng có thể gọi Mẹ là “Đức Bà của sự gần gũi”. Như một người Mẹ đích thật, Mẹ luôn đồng hành từng bước bên ta. Mẹ chia sẻ với ta những khó khăn và Mẹ phủ bóng chúng ta bằng tình yêu mến của Thiên Chúa, và từ đó chúng ta không bao giờ có thể cảm thấy rằng mình bị bỏ rơi (Niềm Vui Tin Mừng, 286). Mẹ gần gũi chúng ta không chỉ bằng cách vội vã lên đường phục vụ, mà còn bằng cách Mẹ diễn tả ý kiến của Mẹ. Trong tiệc cưới tại Cana, vào đúng lúc cần, Mẹ đã nói với những người giúp tiệc rằng: “Người bảo gì, thì các anh cứ làm theo”. Lời nói của Mẹ trở thành khuôn mẫu cho ngôn ngữ của giáo hội. Nhưng để có thể nói những lời như Mẹ đã nói, chúng ta không chỉ xin Mẹ ơn để làm điều ấy, nhưng chúng ta còn phải biết hiện diện trong những giây phút quan trọng đối với mỗi tâm hồn, mỗi gia đình, hoặc mỗi nền văn hóa. Chỉ nhờ sự tốt lành gần gũi ấy mà chúng ta mới có thể nhận thấy rằng, đang thiếu rượu, và rằng đâu là rượu tốt nhất mà Chúa muốn ban cho chúng ta.

Tôi gợi ý các anh em linh mục suy gẫm về ba lãnh vực của sự gần gũi mục tử, với những lời sau đây: “Chúa Giêsu bảo gì thì hãy làm theo”. Lời này cần được lắng nghe, dù trong ngàn phương cách khác nhau, nhưng lời ấy luôn là cung giọng của một người mẹ. Lời ấy cần được rót vào tâm hồn của tất cả những ai mà chúng ta nói với. Những lời ở đây là: đồng hành thiêng liêng, xưng tội, rao giảng.

Sự gần gũi trong cuộc nói chuyện thiêng liêng. Chúng ta hãy phản tỉnh về điều ấy bằng cách suy tư về cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người phụ nữ Samari. Chúa Giêsu đã dạy chị phải thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Sau đó, Chúa nhẹ nhàng giúp chị nhận ra tội lỗi của chị. Cuối cùng, Chúa đã thông truyền cho chị tinh thần truyền giáo, và chị ra đi loan báo tin mừng cho cả dân làng. Như thế, Chúa cho chúng ta thấy một khuôn mẫu của cuộc đồng hành thiêng liêng. Chúa biết cách để đưa tội của chị ấy ra ánh sáng, nhưng không làm lu mờ lời cầu nguyện và lòng sùng mộ của chị, cũng không nghi ngờ về ơn gọi loan báo Tin Mừng của chị.

Gần gũi trong xưng thú tội lỗi, trong việc giải tội. Chúng ta hãy suy tư điểm này trong đoạn nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Thật rõ ràng là, trong giây phút đó, sự gần gũi là tất cả những gì có thể làm. Sự thật là Chúa Giêsu luôn tiếp cận và nói diện đối diện. Chúng ta hãy nhìn vào ánh mắt người khác như Chúa đã làm. Chúa cúi xuống, gần bên người phụ sữ ngoại tình sắp bị ném đá. Chúa ngẩng nên hỏi chị: Không ai ném đá chị sao? (Ga 8:11). Rồi có lời nói thêm: Chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa. Những lời nói ấy cần được nói bằng cung giọng chân thành, để cho phép tội nhân nhìn tới phía trước, chứ không chỉ nhìn về phía sau. Thế nhưng, từ ngữ “đừng phạm tội nữa” được nhìn trong tầm nhìn của một cha giải tội luôn sẵn lòng lặp đi lặp lại bảy mươi lần bảy.

Cuối cùng, gần gũi trong sự loan báo. Chúng ta hãy phản tỉnh về điều này khi nghĩ về những người ở xa, được nhắc đến trong bài giảng đầu tiên của tông đồ Phêrô. Bài giảng ấy là một phần của lễ Hiện Xuống. Thánh Phêrô công bố rằng, lời tuyên xưng này cũng là “dành cho tất cả những người ở xa” (Cv 2:39). Khi nghe thánh Phêrô rao giảng như thế, người ta cảm thấy đau lòng bởi lời tuyên xưng tiên khởi Kerygma, và họ tự hỏi rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Cv 2:37). Bài giảng trong thánh lễ như là một tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi của người mục tử với người dân, và để biết được khả năng tương giao và thấu hiểu của mục tử với người dân (Niềm Vui Tin Mừng, 135). Trong bài giảng, chúng ta có thể thấy cách thức chúng ta gần gũi Thiên Chúa trong cầu nguyện, và cách thức chúng ta gần gũi dân Chúa trong đời sống thường ngày.

Tin mừng được hiện tại hóa nhờ hai hình thức của sự gần gũi ấy nuôi dưỡng và nâng đỡ bổ túc cho nhau. Nếu bạn cảm thấy xa Thiên Chúa, hãy tiến gần hơn đến người dân, vì người dân có thể chữa lành bạn khỏi căn bệnh ý thức hệ, và người dân có thể sưởi ấm lòng nhiệt thành của bạn. Những con người bé nhỏ sẽ dạy cho bạn cách nhìn Chúa Giêsu theo một lối khác. Từ lối nhìn của người dân, bạn sẽ thấy một Chúa Giêsu rất hấp dẫn, sẽ thấy Ngài là một người sống tuyệt vời và đầy thẩm quyền luân lý, sẽ thấy lời giảng dạy của Chúa rất giúp ích cho cách mà chúng ta sống cuộc sống này. Nếu bạn cảm thấy xa cách người dân, thì hãy tiến lại gần Chúa trong lời của Chúa. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta cách hành xử, cách nhìn về người khác. Và trong ánh mắt của Chúa, có từng người trong chúng ta, và vì từng người chúng ta mà Chúa đã đổ máu ra trên thập giá. Khi gần gũi thân thiết với Thiên Chúa, Lời của Ngài sẽ trở thành của ăn thành thịt trong bạn, và nhờ đó, bạn có khả năng gần gũi với tất cả mọi người. Qua sự gần gũi với dân Chúa, những đau khổ của họ sẽ được thổ lộ cho trái tim bạn, và bạn sẽ được thúc đẩy để thân thưa với Chúa. Bạn sẽ một lần nữa trở thành vị linh mục chuyển cầu.

Một người linh mục gần gũi người dân thì bước đi cùng mọi người với sự gần gũi thân thiện và hiền lành của người mục tử nhân hiền. Khi chăn dắt chiên, người mục tử có lúc dẫn đầu chiên, có khi đi giữa đoàn chiên, lúc khác lại đi sau chiên. Người ta không đánh giá cao một người chỉ vì người ấy là linh mục, nhưng hơn thế, người dân cảm thấy được rằng, có điều gì đó đặc biệt nơi người ấy: điều đặc biệt là họ cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu. Điều ấy cho chúng ta hiểu được rằng, chúng ta gần gũi dân chúng không có nghĩa là chúng ta không có gì để làm. Bởi vì Chúa Giêsu đã hiện diện trong cuộc sống loài người. Người ở giữa chúng ta, không phải theo kiểu các ý tưởng hoặc những trang giấy, không phải thế, Chúa đã trở nên một con người bằng xương bằng thịt giữa chúng ta để ở với chúng ta.

Chúng ta hãy cầu nguyện với Mẹ Maria, là Mẹ của sự gần gũi, để Mẹ đưa chúng ta đến gần tha nhân, và để khi chúng ta nói với người dân rằng “Người bảo gì, các anh hãy làm theo”, để khi nói như thế, chúng ta sẽ nói với cung giọng gần gũi dịu hiền của Mẹ, để sự gần gũi tình mẹ được hiện diện. Vì Mẹ là Đấng đã luôn biết thưa xin vâng, xin Mẹ đưa chúng ta ngày càng gần gũi thân thiết với Chúa Giêsu hơn.

Nguồn: dongten.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 13.04.2017 – Niềm vui của Tin mừng

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4:18).  Chúa Giê-su, được xức dầu bởi Thần Khí, đem tin mừng đến cho người nghèo. Mọi điều Người công bố, và cả chúng ta nữa là những linh mục công bố tin mừng. Những tin ngập tràn niềm vui của Tin mừng – niềm vui của những người được xức dầu cho tội của họ bằng dầu tha thứ và được xức dầu cho đặc sủng của họ bằng dầu sứ vụ, để họ lại xức dầu cho người khác.

Như Chúa Giê-su, người linh mục làm cho thông điệp tràn đầy niềm vui bằng trọn vẹn con người của linh mục. Khi linh mục rao giảng – một cách ngắn gọn, nếu có thể! –, linh mục làm việc đó bằng niềm vui để chạm đến tâm hồn mọi người bằng cùng những lời nói mà Chúa đã chạm đến tâm hồn của linh mục trong lời cầu nguyện. Cũng như các tông đồ thừa sai khác, người linh mục làm cho thông điệp tràn đầy niềm vui bằng trọn vẹn chính con người của linh mục. Vì tất cả chúng ta đều biết, niềm vui được nhìn thấy rõ nhất và được chia sẻ chính trong những điều nhỏ nhặt: bằng cách bước một bước đi nhỏ, chúng ta làm cho lòng thương xót của Chúa đổ tràn trên những hoàn cảnh cô độc; khi chúng ta quyết định nhấc điện thoại lên và sắp xếp gặp gỡ một ai đó; khi chúng ta kiên nhẫn để cho người khác lấy mất thời gian của mình …

Cụm từ “tin vui” là một cách nói khác của cụm từ “Tin Mừng.” Tuy nhiên cụm từ này chỉ đến một điều quan trọng: niềm vui của Tin mừng. Tin mừng là tin vui vì, trong bản chất, đó là một thông điệp của sự mừng vui.

Tin vui là hòn ngọc vô giá mà chúng ta đọc được trong Tin mừng. Nó không phải là một đồ vật nhưng là một sứ mạng. Điều này trở nên hiển nhiên với bất kỳ ai đã trải nghiệm được “niềm vui hân hoan và ủi an của việc loan báo tin mừng” (Tông huấn Evangelii Gaudium - Niềm vui của Tin mừng, 10).

Tin vui được sinh ra bởi việc Xức dầu. “Việc xức dầu chức tư tế vĩ đại” đầu tiên của Chúa Giê-su đã diễn ra, do quyền năng của Chúa Thánh Thần, trong cung lòng Mẹ Maria. Tin mừng của Thiên Thần Truyền tin đã khơi nguồn cảm hứng cho Mẹ Đồng Trinh hát bài ca Magnificat. Nó làm ngập tràn tâm hồn của Giu-se, vị hôn phu của Mẹ, với sự tĩnh lặng thánh thiêng, và nó làm cho Gio-an nhảy múa mừng vui trong lòng của bà Ê-li-za-bét, thân mẫu của ông.

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su trở về Na-za-rét và niềm vui của Thần Khí canh tân Đấng được Xức Dầu trong hội đường nhỏ của ngôi làng đó: Thần khí ngự xuống và ngự trên ngài, “xức dầu thơm hoan lạc” (x. Tv 45:8).

Tin vui. Một cụm từ đơn giản – Tin Mừng – mà thậm chí cả khi nói, trở thành sự thật, đầy ắp niềm vui và lòng thương xót. Chúng ta không bao giờ được tách rời ba ơn sủng của Tin mừng: sự thật, đây là điều không phải bàn cãi; lòng thương xót, vô điều kiện và cho tất cả mọi tội nhân; và niềm vui, mang tính riêng tư và mở ra cho mọi người.

Sự thật của tin vui không bao giờ đơn thuần mang tính trừu tượng, không thể mang lấy mẫu hình  cụ thể của đời sống con người vì họ cảm thấy dễ chịu hơn khi nhìn thấy sự thật được in trong sách.

Lòng thương xót của tin vui không bao giờ là lòng thương hại giả tạo, vẫn để tội nhân trong sự sầu khổ của họ mà không nắm lấy tay họ và nâng họ lên, giúp họ bước tới một bước sang con đường hoán cải.

Thông điệp này không bao giờ là ảm đạm hoặc hờ hững, vì nó bày tỏ một niềm vui hoàn toàn mang tính riêng tư. Nó là “niềm vui của Chúa Cha, Đấng mong mỏi rằng không một ai trong những đứa con bé mọn của Người bị lạc mất” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 237).  Đó là niềm vui của Chúa Giê-su, Đấng nhìn thấy rằng phải rao giảng tin vui cho người nghèo, và rồi đến lượt mình, họ lại ra đi rao giảng tin vui (nt., 5) Niềm vui của Tin mừng là những niềm vui đặc biệt. Tôi nói “những niềm vui” ở số nhiều, vì chúng rất nhiều và rất khác nhau, tùy vào Thần Khí chọn cách nào để chuyển tải đến họ, trong từng thời đại, tới từng con người và trong mọi nền văn hóa. Họ cần phải được đổ vào trong những bình rượu mới, những bình rượu mà Chúa nói đến khi diễn tả tính mới mẻ của thông điệp của Ngài. Anh em linh mục và các anh em thân mến, tôi muốn chia sẻ với anh em ba hình ảnh hay ba biểu tượng của những bình rượu mới đó trong đó tin vui cất giữ được tính tươi mới của nó, mà không bị lên men chua và được rót ra tràn trề.

Một biểu tượng đầu tiên của tin vui phải là những chum nước bằng đá tại tiệc cưới Ca-na (x. Ga 2:6). Về một mặt, chúng rõ ràng phản ánh nguồn mạch hoàn hảo đó chính là Đức Mẹ của chúng ta, Mẹ Maria Đồng Trinh. Tin mừng kể cho chúng ta rằng những người phục vụ “đổ đầy lên đến miệng” (Ga 2:7). Tôi tưởng tượng ra một trong những người phục vụ chắc hướng nhìn về Mẹ Maria đển hỏi xem như vậy đủ chưa, và Mẹ Maria ra hiệu thêm một chum đầy. Mẹ Maria là bình rượu mới chứa đựng đầy niềm vui lan tỏa. Mẹ là “người nữ tỳ của Chúa Cha hát những bài ca khen Người” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 286), Đức Bà Hằng Cứu Giúp của chúng ta, sau khi thụ thai trong cung lòng vô nhiễm của mình, Mẹ đã đi thăm và giúp đỡ người chị họ Ê-li-za-bét. “Sự viên mãn lan tỏa” của Mẹ giúp chúng ta vượt qua được cám dỗ của sự sợ hãi, cám dỗ làm chúng ta né tránh để không được đổ đầy lên đến miệng, cám dỗ dẫn đến sự nhát gan ngăn giữ chúng ta không dám bước tới để đổ niềm vui vào cho tha nhân. Điều này không thể được, vì “niềm vui của Tin mừng đổ đầy tâm hồn và cuộc sống của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giê-su” (nt., 1).

Một biểu tượng thứ hai của tin vui là cái vò với gầu múc nước bằng gỗ mà người phụ nữ Sa-ma-ri đội trên đầu dưới ánh nắng giữa trưa (x. Ga 4:5-30). Nó nói cho chúng ta một điều cốt lõi: tính quan trọng của những hoàn cảnh cụ thể. Thiên Chúa, Nguồn Nước Hằng Sống, không có công cụ để lấy nước làm dịu cơn khát của Người. Vì vậy người phụ nữ Sa-ma-ri dùng vò để lấy nước, và với cái gầu chị ta làm thỏa mãn cơn khát của Chúa. Chị ta thậm chí còn thỏa mãn hơn bằng việc thú tội của mình. Bằng lòng thương xót làm rung động tâm hồn của người phụ nữ Sa-ma-ri đó, Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người của ngôi thành nhỏ đó, họ mời Chúa ở lại với họ.

Thiên Chúa ban cho chúng ta nguồn mạch mới khác hay bình rượu đầy tràn “tính bao dung cụ thể” trong tâm hồn người Sa-ma-ri đó là Mẹ Teresa. Người đã gọi mẹ và nói với mẹ: “Ta khát.” Người nói: “Con của ta, hãy đến, hãy đưa Ta đến những khu ổ chuột của người nghèo. Hãy đến, hãy là ánh sáng của Ta. Ta không thể làm việc này một mình. Họ không biết Ta, và đây là lý do tại sao họ không yêu Ta. Hãy đem Ta đến với họ.” Mẹ Teresa, bắt đầu bằng một con người cụ thể, nhờ vào nụ cười của mẹ và cách mẹ đụng chạm đến những vết thương của họ, đã mang đến tin vui cho mọi người.

Biểu tượng thứ ba của tin vui là nguồn mạch của Trái tim bị đâm thấu của Chúa: lòng nhân lành tuyệt đối của Ngài, lòng khiêm nhường và cái nghèo của Ngài kéo con người lại với Ngài. Từ nơi Ngài chúng ta phải học biết rằng chỉ có thể thực hiện việc loan báo một niềm vui lớn cho người nghèo qua con đường tôn trọng, khiêm nhường, và thậm chí hạ mình. Rao truyền Phúc âm thể mang tính quá tự mãn. Sự toàn vẹn của sự thật không thể là tính khắt khe. Thần Khí loan báo và dạy “tất cả sự thật” (x. Ga 16:3), và Người không e ngại phải làm mỗi lúc một ít. Thần Khí nói với chúng ta trong mọi hoàn cảnh những gì chúng ta phải nói với những người thù nghịch của chúng ta (x. Mt 10:19), và trong những lúc đó Người soi sáng cho bước tiến nhỏ của chúng ta. Lòng nhân từ và sự toàn vẹn này tặng ban niềm vui cho người nghèo, hồi sinh những tội nhân, và ban sự bình an cho những ai bị ách của ma quỷ.

Anh em linh mục thân mến, khi chúng ta chiêm ngắm và uống từ ba bình rượu mới này, nguyện xin cho tin vui tìm thấy trong chúng ta “sự viên mãn lan tỏa” đó mà Đức Mẹ chiếu tỏa ra trên trọn vẹn con người của Mẹ, “sự bao dung cụ thể” của câu chuyện của người phụ nữ Sa-ma-ri, và “lòng nhân lành tuyệt đối” qua đó Thánh Thần không ngừng tăng thêm và dẫn đưa từ trái tim bị đâm thấu của Đức Giê-su Chúa chúng ta.

Nguồn: daminhtamhiep.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 24.03.2016 – Linh mục và Lòng Chúa Thương Xót

Sau khi nghe Đức Giêsu đọc đoạn sách tiên tri Isaia và những lời của Người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21), đáng lẽ hội đường Nadaret đã phải bùng lên một trang pháo tay tán thưởng. Sau đó, mọi người trong hội đường đáng lẽ ra cũng phải khóc một cách ngọt ngào, với niềm vui mừng sâu xa, như dân chúng đã khóc khi Nemia và tư tế Esdra đọc Sách Luật đã được tìm lại khi xây dựng tường thành. Nhưng bài Tin Mừng nói với chúng ta rằng dân làng của Đức Giêsu lại nảy sinh những cảm xúc hoàn toàn trái ngược: họ đã đóng kín tâm hồn mình lại và mời Đức Giêsu rời xa họ. Trước hết, “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4, 22), nhưng sau đó, một câu hỏi xảo quyệt trồi hiện lên: “Ông này không phải là con ông Giuse thợ mộc đó sao?” Và cuối cùng: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ” (Lc, 4, 28). Họ muốn xô Đức Giêsu xuống vực… điều này đã ứng nghiệm lời tiên tri của cụ già Simeon nói với Mẹ Maria: Cháu bé này sẽ là ‘dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc, 2, 34). Bằng những lời nói và hành động của mình, Đức Giêsu đã khiến cho những điều kín ẩn từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.

Nơi mà Đức Giêsu công bố Tin Mừng về lòng thương xót vô điều kiện của Chúa Cha dành cho người nghèo, những người bị bỏ rơi và bị áp bức; thì chính nơi ấy chúng ta được mời gọi để chọn lựa, để “thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin” (1 Tm 6, 12). Cuộc chiến đấu của Thiên Chúa không phải với phàm nhân nhưng là với ác thần (x. Eph 6, 12), kẻ thù của con người. Nhưng Đức Giêsu “đã băng qua giữa họ”, là những người muốn ngăn cản Ngài, và “tiếp tục bước đi” (x Lc 4, 30). Đức Giêsu không chiến đấu để xây dựng quyền bính. Nếu Ngài có kéo sập những bức tường và thách đố cảm giác an toàn của chúng ta là để mở ra một dòng thác chảy cuồn cuộn của Lòng Xót Thương. Cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh, Đức Giêsu muốn tuôn đổ dòng thác ấy chan chứa khắp mặt địa cầu. Một lòng thương xót đi từ điều tốt đến điều tốt hơn, công bố và mang đến những điều mới mẻ: chữa lành, giải thoát và công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa.

Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chúng ta vô ngần vô hạn và không sao tả xiết, và chúng ta diễn tả sự năng động của mầu nhiệm này như là một Lòng Xót Thương “luôn luôn lớn hơn mãi”, một Lòng Thương Xót trong sự chuyển động, một Lòng Thương Xót mà mỗi ngày đều tìm kiếm cách thức để không ngừng tiến lên phía trước, tiến lên những bước nho nhỏ trên vùng đất hoang tàn, nơi mà sự thờ ơ và bạo lực đang chiếm ưu thế.

Đây đã là động lực của người Sa-ma-ri tốt lành, là người đã thực thi lòng thương xót” (Lc 10, 37). Người Sa-ma-ri đã chạnh lòng thương, lại gần người bị nạn, băng bó vết thương, đem về quán trọ, ở lại chăm sóc trong đêm đó và hứa sẽ quay trở lại để thanh toán mọi phí tổn. Đây chính là động lực của Lòng Thương Xót, nối kết những hành động nho nhỏ lại với nhau, không làm tổn hại đến một sự dễ vỡ nào, nhưng nó triển nở hơn với mỗi một dấu hiệu của sự giúp đỡ và của tình yêu mến. Mỗi người trong chúng ta, khi nhìn ngắm cuộc sống của mình với cái nhìn tốt lành của Thiên Chúa, có thể cố gắng ghi nhớ và khám phá xem Thiên Chúa đã vận dụng lòng xót thương của Ngài đối với chúng ta như thế nào, và Thiên Chúa đã tỏ ra giàu lòng xót thương hơn nhiều so với mức độ mà chúng ta tin tưởng và như thế đó, chúng ta sẽ có được sự can đảm để nài xin Thiên Chúa thực hiện một bước xa hơn, vốn bày tỏ lòng xót thương nhiều hơn nữa trong tương lai: “Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu độ cho chúng con” (Tv 85, 8). Cách thức mang tính nghịch lý của lời cầu nguyện này với một Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót, sẽ giúp chúng ta xé toang những bức màn mà nhiều lần chúng ta dùng để giới hạn sự cao cả trào tràn của trái tim Thiên Chúa. Thật là tốt đẹp nếu chúng ta bước ra khỏi những hàng rào vây kín, vì trái tim của Thiên Chúa tuôn chảy với lòng thương xót và hơn bao giờ hết là để trao ban. Bởi vì Thiên Chúa thà chấp nhận chịu mất đi điều gì đó hơn là giữ lại một giọt của lòng xót thương, sẵn sàng chấp nhận có nhiều hạt lúa bị chim trời đến ăn mất hơn là giữ lại một hạt không gieo vãi, vì mỗi một hạt lúa ấy một khi được gieo vào lòng đất đều có khả năng sinh hoa kết quả dồi dào: hạt được ba chục, hạt được sáu chục, và có hạt được cả gấp trăm.

Là những linh mục, chúng ta là những chứng nhân và là những thừa sai của Lòng Thương Xót luôn luôn rộng lớn của Chúa Cha; chúng ta có nhiệm vụ ngọt ngào và đầy an ủi là hiện thân của Lòng Thương Xót, giống như Đức Giêsu đã làm, “đi đến đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi bệnh tật” (Cv 10, 38) để có thể tiếp chạm đến tất cả mọi người. Chúng ta cũng có thể góp phần để đem lòng thương xót vào từng môi trường và hoàn cảnh văn hóa để mỗi người được nhận lãnh lòng thương xót trong chính kinh nghiệm sống cá nhân của mình, và như thế sẽ giúp tất cả mọi người thực sự hiểu và thực hành lòng thương xót với sự sáng tạo, trong một cách thức tôn trọng bối cảnh văn hóa và gia đình của mỗi người.

Hôm nay, trong ngày thứ Năm Tuần Thánh của Năm Thánh Lòng Thương Xót, tôi muốn nói về hai lãnh vực mà trong đó Thiên Chúa biểu lộ sự trào tràn Lòng Thương Xót. Từ khoảnh khắc mà Thiên Chúa làm gương cho chúng ta, chúng ta đừng sợ hãi để diễn tả sự dư đầy của lòng thương xót với người khác. Khía cạnh thứ nhất, tôi muốn đề cập đến là sự gặp gỡ. Và khía cạnh thứ hai là sự tha thứ của Thiên Chúa. Sự tha thứ ấy khiến cho chúng ta phải xấu hổ thẹn thùng nhưng đồng thời cũng trao tặng cho chúng ta phẩm giá.

Khía cạnh thứ nhất, ở nơi đó chúng ta nhận thấy Thiên Chúa diễn tả sự trào tràn lòng thương xót vô cùng tận của Ngài, chính là sự gặp gỡ. Thiên Chúa đã hoàn toàn trao ban chính mình và trong cùng một cách thức ấy mọi cuộc gặp gỡ đều trực tiếp dẫn đến việc cử hành một bữa tiệc vui. Trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu, chúng ta ngỡ ngàng sửng sốt trước một người cha đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ đứa con trai. Chúng ta thấy người cha ấy đã ôm, đã hôn đứa con trai; đã lo lắng để xỏ nhẫn vào ngón tay ngõ hầu anh có thể cảm thấy mình giống như trước và xỏ dép vào chân anh để cho thấy rằng anh là con chứ không phải là một người làm công. Cuối cùng người cha lại ra lệnh cho tất cả gia nhân tổ chức tiệc ăn mừng.  Với sự ngỡ ngàng khi chiêm ngắm sự tuôn trào của niềm vui sướng nơi người cha, niềm vui được diễn tả ra cách nhưng không và vô cùng tận khi đứa con thứ quay trở về, chúng ta không được sợ hãi để khuếch trương lòng biết ơn của chúng ta. Thái độ biết ơn của chúng ta phải như là thái độ của người bị bệnh phong khi thấy mình được chữa lành. Anh đã bỏ lại chín người bạn đồng hành kia, những người cùng với anh đi thực hiện điều Đức Giêsu truyền dạy, để quay trở lại phủ phục dưới chân Đức Giêsu để lớn tiếng tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa.

Lòng thương xót phục hồi tất cả và trả lại phẩm giá nguyên thuỷ cho mọi người. Chính vì thế, thái độ biết ơn trào tràn mới là lời đáp trả chính đáng: chúng ta phải đến bữa tiệc ngay lập tức, phải mặc quần áo đẹp nhất, phải bỏ đi thái độ bất bình giống như người anh cả, phải vui mừng và dâng lời cảm tạ… bởi chỉ như thế, tham dự một cách tròn đầy vào bầu khí tiệc mừng ấy, chúng ta mới có thể suy nghĩ cách tốt đẹp, mới có thể nài xin sự tha thứ và nhận thấy cách rõ ràng hơn làm sao để có thể sửa lại những lỗi lầm đã trót phạm. Thật là tốt nếu chúng ta biết hỏi chính mình: Sau khi xưng tội, tôi có hoan hỷ vui mừng không ? Hay là tôi nhanh chóng tiến tới một điều khác, giống như chúng ta đến gặp bác sĩ khám bệnh, sau khi nghe biết kết quả kiểm tra sức khỏe không đến nỗi tệ lắm, ta liền dán kỹ kết quả ấy trong một phong bì và tiếp tục làm việc khác ? Khi tôi làm việc bố thí, tôi có trao cho người được nhận lãnh đủ thời gian để họ diễn tả lòng biết ơn không, tôi có mở tiệc mừng khi những người nghèo trao lại cho tôi nụ cười và sự chúc lành của họ, hay là tôi tiếp tục vội vã với những chuyện cá nhân sau khi « ném cho người người nghèo vài đồng bạc lẻ ».

Khía cạnh thứ hai mà ở đó chúng ta thấy Thiên Chúa diễn tả cách dư đầy lòng thương xót vô biên chính là sự tha thứ. Thiên Chúa không chỉ tha thứ những món nợ khổng lồ, giống như đã tha cho tên đầy tớ đã van xin lòng thương xót nhưng sau đó không biết tha thứ cho người bạn mắc nợ mình, nhưng Ngài còn cho phép chúng ta đi một cách trực tiếp từ nỗi hổ thẹn đáng nhục nhã nhất đến phẩm giá cao quý nhất mà không cần phải qua bất kỳ một giai đoạn trung gian nào. Thiên Chúa cho người phụ nữ được tha thứ lau chân Ngài với nước mắt. Ngay khi Simon thú nhận tình trạng tội lỗi của mình và xin Đức Giêsu tránh xa ông, Đức Giêsu đã nâng ông lên để ông trở thành kẻ lưới người. Tuy nhiên chúng ta có khuynh hướng chia cắt hai thái độ này: khi xấu hổ về tội lỗi của mình, chúng ta dấu mình đi và bước đi với cái đầu cúi gằm xuống, như Adam và Eva ; và khi được nâng dậy với một phẩm giá, chúng ta lại cố gắng lấp liếm tội lỗi của mình đi, và chỉ thích cho người khác xem những gì tốt đẹp nơi chúng ta mà thôi.

Lời đáp trả của chúng ta trước sự tha thứ trào tràn của Thiên Chúa phải luôn luôn duy trì sự căng thẳng tốt lành giữa một sự xấu hổ đầy phẩm giá và một phẩm giá biết xấu hổ. Đó chính là thái độ của người biết tìm một nơi khiêm tốn và thấp hèn, nhưng cũng để cho Thiên Chúa nâng dậy vì lợi ích của sứ vụ mà không tự mãn. Khuôn mẫu mà Tin Mừng trình bày và có thể giúp chúng ta khi chúng ta xưng tội chính là hình ảnh của Phê-rô. Ông là người đã tự cho phép mình bị tra hỏi về tình yêu dành cho Thiên Chúa nhưng ông cũng là người làm mới lại sự chấp thuận của mình trong sứ vụ chăn dắt đàn chiên mà Thiên Chúa đã trao phó.

Để đi sâu hơn vào « phẩm giá biết xấu hổ này », điều đã giải thoát chúng ta khỏi việc cậy dựa vào sức mình hoặc thất vọng hơn là tin tưởng vào ân sủng, có thể giúp chúng ta hiểu những lời của tiên tri Isaia. Những lời này liền sau đoạn mà Đức Giêsu đã đọc trong hội đường Nadaret: « Anh em sẽ được gọi là tư tế của Đức Chúa, là người phụng sự Thiên Chúa chúng ta » (Is 61, 6). Đó là một dân nghèo khổ, đói khát, những tù nhân chiến tranh, không có tương lai, bị gạt ra bên lề và bị chối bỏ, đã được Thiên Chúa biến đổi trở thành một dân tư tế.

Là những linh mục, chúng ta đồng hóa mình với một dân tộc bị chối bỏ nhưng được Thiên Chúa cứu vớt. Và chúng ta nhớ rằng có vô số đám đông dân chúng, họ là những người nghèo khổ, không được học hành ; là những tù nhân. Họ bị rơi vào hoàn cảnh như thế vì người khác áp bức họ. Nhưng chúng ta cũng nhớ rằng mỗi người chúng ta đều biết ở mức độ nào chúng ta cũng nhiều lần là người mù, thiếu ánh sáng đức tin, không phải vì chúng ta không có quyển Tin Mừng trên tay nhưng vì sự dư thừa của một nền thần học phức tạp. Chúng ta cảm thấy linh hồn chúng ta cháy khát  linh đạo, không bởi vì chúng ta thiếu vắng Nước Hằng Sống –  dòng nước mà chúng ta chỉ uống một ngụm – nhưng bởi vì sự dư thừa của một nền linh đạo « bong bóng », một linh đạo « nhẹ hều ». Chúng ta cảm mình như những tù nhân, không bị bao quanh, giống như nhiều người, bởi những bức tường đá bất khả vượt hoặc bởi những hàng rào thép, nhưng bởi một thế giới ảo. Trong thế giới ấy, người ta có thể đóng và mở chỉ với một cái « click » đơn giản. Chúng ta bị áp bức không phải vì sự đe dọa và áp lực, giống như rất nhiều người nghèo, nhưng bởi sự quyến rũ của hàng ngàn những lời đề nghị tiêu thụ mà chúng ta không thể thoát ra để bước đi cách tự do trên con đường dẫn chúng ta đến tình yêu thương huynh đệ, đến đoàn chiên của Thiên Chúa, một đàn chiên đang chờ đợi lắng nghe tiếng của vị mục tử.

Và Đức Giêsu đến để giải phóng chúng ta, để làm cho chúng ta được giải thoát, để biến đổi chúng ta từ những kẻ nghèo hèn và đui mù, từ là những tù nhân và kẻ bị áp bức để trở nên thừa tác viên của lòng thương xót và sự an ủi. Và Ngài cũng nói với chúng ta ngang qua những lời của tiên tri Ê-dê-ki-en ngỏ với dân rằng họ đã tự bán rẻ chính mình và đã phản bội nặng nề Thiên Chúa của họ: “Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân. […] Ngươi sẽ nhớ lại các lối sống của ngươi mà xấu hổ khi ngươi đón các chị và các em ngươi; Ta sẽ cho chúng làm con gái ngươi, nhưng chúng không được dự phần vào giao ước giữa Ta với ngươi. Còn chính Ta, Ta sẽ thiết lập giao ước giữa Ta với ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, để ngươi nhớ lại mà lấy làm xấu hổ và, trong lúc phải tủi nhục, ngươi sẽ không còn mở miệng nói gì được nữa, khi Ta tha thứ cho ngươi tất cả những việc ngươi đã làm – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng.” (Ez 16, 60-63)

Trong Năm Thánh này, chúng ta hãy cất vang lời kinh Lạy Cha cùng với tất cả lòng biết ơn từ tận cõi lòng của chúng ta và chúng ta hãy nài xin để Người “luôn nhớ đến Lòng Thương Xót của Người”; chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót trong xác thịt bị tổn thương của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cùng với phẩm giá biết xấu hổ này, và chúng ta hãy khẩn cầu để Người tẩy sạch mọi tội lỗi và giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ; và cùng với ân sủng của Chúa Thánh Thần chúng ta hãy dấn thân để rao truyền Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cho tất cả mọi người, và hãy thực hiện những hoạt động mà Chúa Thánh Thần gợi hứng nơi mỗi người vì thiện ích chung của toàn thể dân của Thiên Chúa.

Nguồn: dongten.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 02.04.2015 – Thiên Chúa nâng đỡ sự mệt mỏi của các linh mục

“Ta sẽ không ngừng đưa tay nâng đỡ, tay quyền năng củng cố vững vàng” (Tv 89,22). Chúa đã nghĩ như thế khi Ngài nói với chính mình: “Ta đã tìm thấy Đa-vít, nghĩa bộc ta, và ta đã thánh hiến nó bằng dầu thánh” (c.21). Chúa Cha cũng nghĩ như thế mỗi khi Ngài “tìm thấy” một linh mục. Và Ngài cũng thêm rằng: “Lòng trung tín và tình yêu của ta sẽ ở với nó… Nó sẽ kêu cầu ta: “Ngài là Cha của con, là Thiên Chúa của con và là núi đá ơn cứu độ của con” (cc 25 và 27)

Thật là tốt khi cùng với thánh vịnh gia đi vào trong lời độc bạch này của Chúa chúng ta. Ngài nói về chúng ta, các linh mục, các mục tử của Ngài; nhưng thực tế thì đây không phải là một sự độc bạch, Ngài không nói một mình: chính Cha đã nói với Đức Giêsu: “Những bạn hữu của con, những người yêu mến con, họ có thể nói với Cha theo một cách thức rất đặc biệt: Ngài là Cha của con” (x. Ga 14,21). Và sở dĩ Chúa suy nghĩ và bận tâm rất nhiều làm thế nào để có thể giúp đỡ chúng ta, đó là vì Ngài biết rằng việc xức dầu cho dân là điều rất khó khăn; nó khiến chúng ta mệt mỏi và cực nhọc. Chúng ta kinh nghiệm điều này dưới nhiều hình thức: từ sự mệt mỏi bình thường của việc tông đồ thường ngày đến mệt mỏi do bệnh tật và cái chết, thậm chí là hiến mạng sống mình trong một cuộc tử đạo.

Sự mệt mỏi của các linh mục! Anh em biết là tôi đã suy nghĩ về sự mệt mỏi của tất cả anh em bao nhiêu lần không? Tôi rất hay nghĩ về điều đó và cầu nguyện liên lỉ, đặc biệt là khi tôi mệt mỏi. Tôi cầu nguyện cho anh em, những người phải lao tác giữa dân Thiên Chúa được trao phó cho anh em, và nhiều người trong anh em phải làm việc ở những nơi bị bỏ rơi hay nguy hiểm. Các linh mục thân mến, sự mệt mỏi của chúng ta cũng giống như nén hương bay lên Trời cách âm thầm (x Tv 140,2, Kh 8,3-4). Sự mệt mỏi của chúng ta bay đến tận thánh tâm của Cha.

Anh em hãy chắc chắn rằng Mẹ Maria biết rõ những mệt mỏi này của chúng ta và Mẹ đã ngay lập tức nhắc Chúa lưu ý đến điều này. Mẹ, hệt như một người mẹ, hiểu được khi nào những đứa con của mình mệt mỏi và Mẹ không nghĩ đến điều gì khác ngoài việc, [nói] “đến đây, nghỉ ngơi một chút đi, con trai của ta. Chúng ta sẽ nói chuyện sau… Chẳng phải có mẹ ở đây sao, mẹ là mẹ của con đây?” – Mẹ luôn nói với chúng ta như thế mỗi khi chúng ta đến với Mẹ (x Evangelii Gaudium, 286). Và Mẹ sẽ nói với Con Mẹ, như tại Cana: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3).

Cũng có thể xảy ra trường hợp, mỗi khi chúng ta cảm thấy nặng nề trong công việc mục vụ, chúng ta thường có cám dỗ muốn nghỉ ngơi theo cách thức nào đó, như thể việc nghỉ ngơi không phải là một điều đến từ Thiên Chúa. Đừng rơi vào cám dỗ đó. Sự nhọc mệt của chúng ta có giá trị trong mắt Đức Giêsu, Đấng đón nhận chúng ta và nâng chúng ta dậy: “Hãy đến cùng ta hỡi những ai mệt mỏi và mang gánh nặng nề, và ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (x. Mt 11,28). Khi có ai đó đang mệt muốn chết đi được, nhưng biết rằng mình có thể phủ phục thờ lạy và nói rằng : “Lạy Chúa, hôm nay thế là đã đủ cho con”, và dâng trót mình cho Chúa Cha, người ấy cũng sẽ biết rằng mình không quỵ ngã nhưng được đổi mới, vì ai xức dầu cho dân Thiên Chúa thì cũng được Thiên Chúa xức dầu: “thay tro bụi thành khăn đại lễ, tang chế thành dầu thơm hoan lạc, tâm thần sầu não thành bài ca (x Is, 61,3)

Hãy luôn nhớ rằng mấu chốt của sự phong nhiêu trong đời linh mục hệ ở việc chúng ta nghỉ ngơi như thế nào và cảm thấy như thế nào về việc Chúa đối xử với sự mệt mỏi của chúng ta. Thật khó để học cách nghỉ ngơi! Niềm tin của chúng ta và việc nhớ rằng chúng ta cũng là những con chiên đóng một vai trò quan trọng. Một vài câu hỏi sau đây có thể giúp chúng ta về điều này.

Tôi có biết nghỉ ngơi qua việc đón nhận tình yêu, lòng biết ơn và tất cả tình cảm mà dân Chúa trao gửi tôi không? Hay, sau công việc mục vụ, tôi tìm kiếm sự nghỉ ngơi tao nhã, không phải của những người nghèo, nhưng là những thứ mà xã hội hưởng thụ này cung cấp? Thánh Thần có thực sự là “sự nghỉ ngơi lúc mỏi mệt” của tôi không, hay Người chỉ đơn giản là Đấng bắt tôi làm việc? Tôi có biết cầu xin sự giúp đỡ nơi một vị linh mục khôn ngoan không? Tôi có biết nghỉ ngơi khỏi chính tôi, khỏi những đòi hỏi tôi đặt ra cho chính mình, khỏi việc thỏa mãn mình và khỏi việc chỉ quan tâm đến chính mình? Tôi có biết thưa chuyện với Giêsu, với Chúa Cha, với Mẹ Maria, với Thánh Giuse, với các thánh bảo trợ của tôi để nghỉ ngơi trong những đòi hỏi của họ, (vốn rất êm ái và nhẹ nhàng), trong sự thỏa mãn của họ (họ cũng muốn đồng hành với tôi), trong những bận tâm và chuẩn mực của họ (những người này chỉ hứng thú làm vinh danh Chúa hơn)…? Tôi có biết nghỉ ngơi khỏi những kẻ thù nghịch tôi dưới sự che chở của Chúa? Tôi có bận tâm đến việc mình nên nói gì, làm gì không, hay tôi phó thác chính mình cho Thánh Thần, Đấng sẽ dạy tôi biết điều tôi cần nói trong từng hoàn cảnh? Tôi có lo lắng và tôi có bận tâm một cách thái quá không hay như thánh Phaolô, tôi tìm kiếm sự nghỉ ngơi và nói rằng: “Tôi biết tôi đang tin vào ai” (2 Tm 1,12)

Chúng ta hãy cùng trở lại một chút những dấn thân của người linh mục, mà phụng vụ ngày hôm nay nói với chúng ta: mang tin vui đến cho người nghèo, loan báo cho người bị giam cầm biết họ được tha và chữa lành người mù, đem tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Isaia cũng nói đến việc chữa lành những ai có con tim tan vỡ và an ủi người đang sầu buồn.

Đây không phải là những việc dễ làm, bên ngoài, như những công việc chân tay – xây một phòng giáo xứ mới, hay kẻ vạch sân bóng đá cho giới trẻ của giáo xứ…; những công việc mà Đức Giêsu nói tới ám chỉ đến khả năng thương cảm của chúng ta, chúng là những công việc đòi hỏi con tim của chúng ta phải biết “rung lên” hay được đánh động. Chúng ta vui với những cặp cưới nhau, chúng ta cười với đứa trẻ được mang đến lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy; chúng ta đồng hành với giới trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân và gia đình; chúng ta đau buồn với những ai lãnh bí tích Xức Dầu trên giường bệnh; chúng ta khóc với những ai vừa chôn cất một người thân… Rất nhiều cảm xúc, nhiều tình cảm khiến con tim người mục tử mỏi mệt. Đối với chúng ta là những linh mục, những câu chuyện của giáo dân mình không phải là tin tức: chúng ta biết giáo dân của mình, chúng ta có thể đoán được điều đang diễn ra trong tim họ; và chúng ta, trong khi cùng chịu đau khổ với họ, chúng ta cũng bị xé toạt mình ra, chia mình ra thành nghìn mảnh, và đó chính là cảm thương và có khi dường như mình bị họ “ăn tươi nuốt sống”: [anh em hãy] cầm lấy mà ăn. Đây chính là lời mà vị linh mục Giêsu đã thì thầm liên tục khi Ngài chăm lo cho các dân của mình: cầm lấy mà ăn, cầm lấy mà uống… Và như thế, đời sống linh mục của chúng ta được trao ban trong sự phục vụ, trong việc gần gũi với dân Chúa… vốn là một điều luôn làm ta mệt mỏi.

Tôi xin phép chia sẻ với anh em một vài kiểu mệt mỏi mà tôi đã suy niệm.

Có những cái ta có thể gọi là “sự mệt mỏi của dân, sự mệt mỏi của đám đông”: đối với Chúa, cũng như đối với chúng ta, nó là những cái làm chúng ta kiệt sức – Tin Mừng đã nói điều đó -, nhưng đây là một sự mệt mỏi tốt đẹp, một sự mệt mỏi đầy hoa trái và niềm vui. Đám dân đi theo Giêsu, các gia đình mang con của họ đển để được chúc lành, những người được chữa lành mang bạn bè của mình đến, các bạn trẻ say mê vị Rabbi… họ không để Ngài có giờ để ăn uống. Nhưng Chúa không bao giờ không ở với đám dân. Ngược lại, dường như Ngài được thêm sức (x. Evangelii Gaudium, 11). Sự mệt mỏi này giữa những hoạt động của chúng ta chỉ có thể là một hồng ân mà các linh mục có thể kín múc (x ibid., 279). Điều tuyệt vời hệ ở điều này: người dân yêu mến, khao khát và cần vị mục tử của họ! Giáo dân không bao giờ để chúng ta rảnh rỗi, trừ phi chúng ta trốn trong văn phòng hay ngồi trong xe hơi đeo kính mát. Sự mệt mỏi này là một sự mệt mỏi tốt đẹp và lành mạnh. Đó là một sự mệt mỏi của vị linh mục mang mùi chiên trên người…, nhưng luôn có nụ cười của một người cha vui nhìn con cái mình, cháu chắt mình. Chẳng có gì để làm ngoài việc chỉ biết nhìn những người sực nứt mùi nước hoa đắt tiền và nhìn bạn từ đàng xa hay từ trên cao (x. Ibid., 97). Chúng ta là những người bạn của Tân Lang, đây là niềm vui của chúng ta. Nếu Đức Giêsu đang chăm sóc cho đoàn chiên ở giữa chúng ta, thì chúng ta không thể là những người mục tử với khuôn mặt hung ác, thiểu não, hay tệ hơn, là một mục tử buồn chán. Mùi của con chiên và nụ cười của một người cha… Vâng, rất mệt mỏi, nhưng cũng là niềm vui của người nghe được lời Chúa nói: “Hãy đến với ta, hỡi những kẻ được cha ta chúc phúc” (Mt 25,34)

Cũng có sự mệt mỏi mà chúng ta gọi là “sự mệt mỏi của kẻ thù”. Ma quỷ và những kẻ theo nó không bao giờ ngủ và, vì tai chúng không nghe lời của Chúa, chúng hoạt động không biết mệt mỏi để khiến lời ấy bị im bặt hay bị bóp méo. Ở đây, quả thực là rất mệt mỏi khi phải đối diện với những điều ấy. Không chỉ làm điều tốt với tất cả sự mệt mỏi mà nó mang lại, nhưng còn phải bảo vệ đàn chiên và bảo vệ mình khỏi sự dữ (x. Evangelii Gaudium, 83). Sự dữ thì láu cá hơn chúng ta và có khả năng phá hủy trong một phút chốc những cả những gì chúng ta đã xây dựng với sự kiên trì trong một thời gian dài. Cần phải xin ơn Chúa để học biết cách vô hiệu hóa nó: vô hiệu hóa sự dữ, không làm hại đến lúa tốt, không giả vờ bảo vệ như những siêu nhân những gì chỉ có Thiên Chúa mới có thể bảo vệ. Tất cả những điều này giúp đỡ chúng ta không buông tay trước cái dày cộm của điều xấu xa, trước những lời chế nhạo của những người tàn ác. Lời Chúa dành cho những tình huống mệt mỏi này là: “Anh em hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian!”

Cuối cùng – để bài giảng này không làm cho anh em mệt mỏi – cũng có “sự mệt mỏi của chính mình” (x. Evangelii Gaudium, 277). Đây có lẽ là điều nguy hiểm nhất. Vì hai cái mệt mỏi kia đến từ việc bung ra bên ngoài, từ trong mình đi ra để xức dầu, để chiến đấu (chúng ta là những người chăm lo cho người ta). Nhưng, loại mệt mỏi thứ ba này thì quy chiếu về chính mình hơn: đây là một sự chán nản của chính mình mà không thấy biểu lộ trên khuôn mặt, không phải như người nhận ra mình là tội nhân và cần được tha thứ. Những người này cần được giúp đỡ và tiến tới. Tôi đang nói tới kiểu mệt mỏi “muốn mà không muốn”, bỏ hết mọi sự ra đi nhưng vẫn còn thèm củ hành củ tỏi ở Ai Cập, ảo tưởng muốn trở thành một cái gì đó khác. Sự mệt mỏi này, tôi muốn gọi là “chơi đùa với sự trần tục thiêng liêng”. Và khi người còn lại một mình, người ta nhận ra biết bao điều trong cuộc sống đã bị thấm nhiễm bởi tính trần tục này, và thậm chí, chúng ta thấy là không sao có thể tẩy sạch được. Đây là một sự mệt mỏi tồi tệ. Lời của sách Khải Huyền nói với chúng ta nguyên do của sự mệt mỏi này: “Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu.” (Kh 2,3-4). Chỉ có tình yêu mới giúp an nghỉ. Cái gì không yêu thì mệt mỏi và sẽ làm mệt mỏi tồi tệ.

Hình ảnh sâu sắc và mầu nhiệm của việc Thiên Chúa đối xử với sự mệt mỏi mục vụ của chúng ta chính là “Người vẫn yêu những kẻ thuộc về mình và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1): cảnh rửa chân cho các môn đệ. Tôi thích chiêm niệm cảnh này như là một việc rửa sạch của hành trình theo Người. Chúa đã thanh tẩy con đường người môn đệ đi. Ngài tự “dính dáng” với chúng ta (Evangelii Gaudium, 24), nhận trách nhiệm là người đầu tiên tẩy sạch mọi vết bẩn, những sương bụi cuộc đời và nhơ nhớt dính vào chúng ta trên hành trình chúng ta đang bước đi vì danh Người.

Chúng ta biết rằng chỉ cần nhìn vào chân, người ta có thể nhìn thấy được toàn bộ thân xác như thế nào. Cũng như chỉ cần nhìn vào con tim, người ta sẽ biết ta theo Chúa như thế nào. Vết thương của bàn chân, những bong gân vì mệt mỏi là dấu chỉ cho biết chúng ta đang theo Người, trên con đường tìm kiếm những chiên lạc, và dẫn đàn chiên trở về đồng cỏ xanh và suối nước an lành (x. Ibid., 270). Chúa rửa sạch chúng ta và thanh tẩy chúng ta khỏi những điều bám bên đôi bàn chân của chúng ta trong hành trình theo Người. Đây là điều rất thánh thiêng. Đừng để chân mình bị dơ bẩn. Người hôn chúng như hôn những vết thương của chiến tranh, Người lau sạch những vết bẩn trong công việc của ta.

Hành trình theo Chúa Giêsu đã được chính Chúa tẩy rửa để chúng ta có thể nghiệm thấy ngay “niềm vui”, “sự đong đầy”, “không còn nỗi sợ hay tội lỗi” và như thế, chúng ta có dũng lực để đi ra và đi đến tận cùng thế giới, đến các biên cương” mang Tin Mừng đến cho những ai bị bỏ rơi, mà lòng luôn biết rằng “Chúa luôn ở với chúng ta, mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta hãy biết học cách trở nên mệt mỏi, nhưng là một sự mệt mỏi tốt lành!

Nguồn: dongten.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Dầu ngày 17.04.2014 - Được xức bằng dầu hoan lạc

Anh em linh mục thân mến!

Ngày thứ năm Tuần Thánh hôm nay, ngày mà Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta đến tột cùng (Xc Ga 13,1), chúng ta tưởng niệm ngày hạnh phúc Chúa lập chức linh mục và ngày chúng ta chịu chức linh mục. Chúa đã xức dầu cho chúng ta trong Đức Kitô, Ngài xức bằng dầu hoan lạc và việc xức dầu này mời gọi chúng ta hãy đón lấy và lãnh nhận hồng ân cao cả này: niềm vui, niềm hoan lạc linh mục. Niềm vui của chức linh mục là một thiện ích quí giá không những cho đương sự nhưng còn cho toàn thể dân trung thành của Thiên Chúa: dân trung thành mà linh mục được kêu gọi đến giữa họ để được xức dầu và được sai đi để xức dầu cho dân.

Được xức bằng dầu hoan lạc để đi xức cho người khác bằng dầu hoan lạc. Niềm vui linh mục có nguồn mạch từ Tình Thương của Chúa Cha và Chúa muốn rằng niềm vui của Tình Thương này ở “trong chúng ta” và “được viên mãn” (Ga 15,11). Tôi vui mừng nghĩ đến niềm vui khi chiêm ngắm Đức Mẹ: Đức Maria, “người Mẹ của Tin Mừng sinh động, là nguồn vui cho những người bé nhỏ” (Tông huấn 'Niềm Vui Phúc âm', 288) và tôi tin là chúng ta không nói quá khi khẳng định rằng linh mục là một người rất bé nhỏ: hồng ân cao cả vô biên được ban cho chúng ta để thi hành sứ vụ, xếp chúng ta vào số những người bé nhỏ nhất trong loài người. Linh mục là người nghèo nàn nhất trong nhân loại nếu Chúa Giêsu không làm cho linh mục được phong phú nhờ cái nghèo của Ngài; linh mục là người đầy tớ vô ích nhất nếu Chúa Giêsu không kiên nhẫn giáo huấn như Ngài đã làm với thánh Phêrô; linh mục là người yếu thế nhất trong số các Kitô hữu nếu vị Mục Tử Nhân Lành không củng cố linh mục giữa đoàn chiên. Không ai bé nhỏ hơn một linh mục bị bỏ mặc cho sức riêng của mình; vì thế kinh nguyện của chúng ta để chống lại mưu chước của ma quỉ chính là kinh nguyện của Mẹ chúng ta: tôi là linh mục vì, trong lượng nhân lành của Ngài, Chúa đã nhìn đến sự bé nhỏ của tôi (Xc Lc 1,48). Và từ sự bé nhỏ ấy chúng ta đón nhận niềm vui của mình. Niềm vui trong sự nhỏ bé của chúng ta!

Tôi tìm thấy 3 đặc tính đầy ý nghĩa trong niềm vui linh mục của chúng ta: đó là một niềm vui xức dầu cho chúng ta (không làm cho chúng ta trở thành yểu điệu, khoe khoang và tự phụ); đó là một niềm vui không bị hư nát; và là một niềm vui thừa sai, niềm vui chiếu tỏa và thu hút tất cả mọi người, bắt đầu từ những người xa xăm nhất.

- Một niềm vui xức dầu chúng ta. Nghĩa là sự xức dầu ấy thấu nhập tận thâm tâm chúng ta, uốn nắn con tim chúng ta và củng cố bằng bí tích. Các dấu hiệu phụng vụ lễ truyền chức nói với chúng ta về một ước muốn từ mẫu mà Giáo Hội muốn chuyển đạt và thông truyền tất cả những gì mà Chúa đã ban cho chúng ta: cử chỉ đặt tay, xức dầu hương thảo, mặc phẩm phục thánh, tham gia ngay vào việc truyền phép đầu tiên.. Ơn thánh làm cho chúng ta được tràn đầy và lan tỏa toàn vẹn, dồi dào và sung mãn nơi mỗi linh mục. Được xức dầu đến tận xương tủy.. và niềm vui của chúng ta, trào ra từ nội tâm, chính là âm vang của sự xức dầu ấy.

Một niềm vui không thể bị hư hỏng. Hồng ân toàn vẹn mà không ai có thể tước mất hoặc thêm thắt, chính là nguồn mạch không ngừng mang lại niềm vui: một niềm vui không thể hư mất, mà Chúa đã hứa là không ai có thể tước đoạt (Xc Ga 16,22). Niềm vui ấy có thể 'ngái ngủ' hoặc bị tội lỗi hoặc những lo lắng bận bịu của cuộc sống bóp nghẹt, nhưng xét cho cùng niềm vui ấy vẫn còn nguyên vẹn như than hồng dưới lớp tro, luôn luôn có thể được khơi dậy. Lời nhắn nhủ của thánh Phaolo với Timothê vẫn luôn có tính chất thời sự: Cha nhắc nhở con hãy khơi dậy ngọn lửa hồng ân của Thiên Chúa trong con do việc đặt tay của cha (Xc 1 Tm 1,6).

- Một niềm vui thừa sai. Đặc tính thứ ba này tôi muốn chia sẻ và nhấn mạnh một cách đặc biệt: niềm vui của linh mục được đặt trong quan hệ thân mật với dân thánh trung thành của Thiên Chúa vì đó là một niềm vui có đặc tính truyền giáo cao độ. Việc xức dầu cho linh mục là để xức dầu dân thánh trung thành của Thiên Chúa: để rửa tội và thêm sức, để săn sóc và thánh hiến, để chúc lành, để an ủi và loan báo Tin Mừng.

Và vì là một niềm vui có ảnh hưởng khi vị mục tử ở giữa đoàn chiên - (kể cả trong kinh nguyện thinh lặng, vị mục tử thờ lạy Chúa Cha giữa đoàn chiên của mình)- là một “niềm vui được chính đoàn chiên của mình bảo tồn”. Cả trong những lúc buồn sầu, khi mọi sự dường như trở nên u tối và sự cô lập choáng váng cám dỗ chúng ta, trong những lúc lãnh đạm và chán nản mà nhiều khi chúng ta gặp phải trong đời linh mục (và tôi cũng đã trải qua những lúc như thế), cả trong những lúc ấy, dân Chúa có khả năng bảo tồn niềm vui, có khả năng bảo vệ linh mục, an ủi, giúp linh mục cởi mở con tim và tìm lại được một niềm vui.

“Niềm vui được đoàn chiên bảo tồn” và cũng được canh giữ nhờ 3 người em quây quần, bảo vệ và bênh đỡ: người em khó nghèo, người em trung thành và người em vâng phục.

Niềm vui linh mục là một niềm vui có người em là đức thanh bần. Linh mục nghèo niềm vui phàm tục: linh mục đã từ bỏ rất nhiều! Linh mục là người đã cho tha nhân rất nhiều, và vì nghèo, nên linh mục phải xin niềm vui ấy từ Chúa và từ dân trung thành của Chúa. Linh mục không được tự ban cho mình niềm vui ấy. Chúng ta biết rằng dân của chúng ta thật là quảng đại trong việc biết ơn các linh mục vì những cử chỉ ban phúc lành bé nhỏ nhất, đặc biệt là các bí tích. Khi nói về cuộc khủng hoảng căn tính linh mục, nhiều người không để ý rằng căn tính ấy giả thiết phải có sự thuộc về ai. Sẽ không có căn tính - và vì thế không có niềm vui sống - nếu không có thái độ tích cực thuộc về dân trung thành của Chúa (Xc “Niềm vui Phúc Âm”, 268). Linh mục nào tự phụ mình tìm được căn tính linh mục bằng cách nhìn vào nội tâm của mình mà thôi, thì có thể sẽ không tìm được điều gì khác ngoài những dấu hiệu bảo “hãy ra ngoài”: ra khỏi chính con người của bạn, hãy ra ngoài để đi tìm Thiên Chúa trong sự thờ lạy, hãy ra ngoài và trao cho dân điều đã được ủy thác cho bạn, và dân của bạn sẽ lo liệu cho bạn cảm thấy và nếm hưởng bạn là ai, bạn tên là gì, đâu là căn tính của bạn, và dân sẽ làm cho bạn vui mừng gấp trăm lần như Chúa đã hứa cho các tôi tớ của Ngài. Nếu bạn không ra khỏi chính mình, thì dầu sẽ bị ôi và việc xức dầu không thể mang lại kết quả phong phú. Ra khỏi chính mình đòi phải từ bỏ mình, và bao hàm sự thanh bần.

Niềm vui linh mục là một niềm vui có em là lòng trung thành. Không phải theo nghĩa tất cả chúng ta sẽ trở nên “không vết tỳ ố” (Ước gì chúng ta được như vậy nhờ ơn Chúa!) vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng đúng hơn theo nghĩa một sự trung thành luôn mới mẻ đối với vị Hôn Thê duy nhất là Giáo Hội. Đây chính là chìa khóa của sự phong phú. Các con cái tinh thần mà Chúa ban cho mỗi linh mục, những người mà linh mục rửa tội, những gia đình mà ngài chúc lành và giúp họ tiến bước, những bệnh nhân mà linh mục nâng đỡ, những người trẻ mà linh mục dạy giáo lý và huấn luyện, những người già mà linh mục cứu giúp .. họ là “vị Hôn Thê” mà linh mục vui mừng đối xử như người yêu ưu tiên và duy nhất và luôn luôn chung thủy. Đó là Giáo Hội sinh động, với tên tuổi, mà linh mục chăm sóc trong giáo xứ hoặc trong sứ vụ được ủy thác, chính Giáo Hội ấy mang lại niềm vui cho linh mục khi linh mục trung thành, khi linh mục làm tất cả những gì phải làm và bỏ đi tất cả những gì phải bỏ miễn là ở lại giữa đoàn chiên mà Chúa đã ủy thác cho linh mục: “Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Ga 21,16.17).

Niềm vui linh mục là niềm vui có người em là đức vâng phục. Có thể nói đó là vâng phục Giáo Hội theo phẩm trật được ban cho chúng ta không những trong lãnh vực bên ngoài nhất của đức vâng phục: giáo xứ mà chúng ta được gửi đến, các năng quyền của sứ vụ, trách vụ đặc thù.. cả sự kết hiệp với Thiên Chúa Cha, từ đó nảy sinh mọi tình phụ tử. Cả sự vâng phục Giáo Hội trong việc phục vụ: sẵn sàng và mau mắn phục vụ tất cả mọi người, luôn luôn và theo thể thức tốt đẹp hơn, theo hình ảnh “Đức Mẹ sẵn sàng (Xc Lc 1,39) chạy đến giúp đỡ bà chị họ và quan tâm đến cả việc bếp núc ở tiệc cưới Cana trong đó rượu bị thiếu. Sự sẵn sàng của linh mục làm cho Giáo Hội trở thành căn nhà có những cánh cửa mở rộng, là nơi mương náu cho những người tội lỗi, là tổ ấm cho những người sống ở đường phố, là nhà săn sóc các bệnh nhân, nơi cắm trại cho người trẻ, là nơi học giáo lý cho các trẻ em lớp xưng tội rước lễ lần đầu.. Nơi nào dân Chúa có ước mong hoặc nhu cầu, nơi ấy có linh mục biết lắng nghe, và cảm thấy một mệnh lệnh yêu thương của Chúa Kitô, Đấng sai linh mục đến đáp ứng, với lòng từ bi, những nhu cầu hoặc nâng đỡ những ước muốn tốt lành với lòng bác ái sáng tạo.

Người được gọi hãy biết rằng trong thế giới này có một niềm vui chân thành và viên mãn: niềm vui được đón nhận nơi dân mà linh mục yêu thương và để được sai đến với họ như người ban phát các hồng ân và sự an ủi của Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất, đầy lòng từ bi thương xót đối với mọi người bé nhỏ và bị gạt ra ngoài lề trên trái đất này, những người vất vả và bị đè nén như những con chiên không người chăn dắt; Vị Mục Tử ấy đã muốn cho nhiều người được tham gia sứ vụ của Ngài để ở lại và hoạt động như chính Ngài trong các linh mục, để mưu ích cho dân Ngài.

Trong ngày thứ năm của chức linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu làm cho nhiều người trẻ khám phá thấy một tâm hồn nồng nhiệt khiến họ có được một niềm vui bừng cháy vừa khi một người can đảm mau mắn và vui mừng đáp lại tiếng Chúa gọi.

Trong ngày Thứ năm linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu bảo tồn ánh mắt vui mừng của các tân linh mục, họ ra đi để tận tụy phục vụ thế giới này, để bị tiêu hao giữa dân trung thành của Thiên Chúa, xin Chúa cho các linh mục ấy vui mừng dọn bài giảng đầu tiên, thánh lễ mở tay, cử hành bí tích rửa tội đầu tiên, giải tội lần đầu tiên... Đó là niềm vui được kinh ngạc chia sẻ kho tàng Phúc Âm lần đầu tiên trong tư cách là những người được xức dầu và cảm thấy rằng đối lại, dân trung thành xức dầu cho linh mục theo một thể thức khác: họ cúi đầu xin linh mục chúc lành cho họ, xiết tay linh mục, đưa con cái họ đến gần linh mục và xin đặt tay trên chúng.. Xin Chúa giữ gìn nơi các linh mục trẻ niềm vui được khởi hành, làm mọi sự như điều mới mẻ, niềm vui tiêu hao cuộc sống vì Chúa.

Trong ngày thứ năm linh mục này, tôi cầu xin Chúa củng cố niềm vui linh mục nơi những người đã thi hành sứ vụ này trong nhiều năm trời. Niềm vui ấy không biến mất khỏi đôi mắt, đậu trên vai của những người đang vác gánh nặng của sứ vụ, những linh mục đã bắt mạch công việc, đang dồn toàn lực và tái võ trang: “họ đổi không khí” như các thể tháo gia vẫn nói. Xin Chúa gìn giữ sự sâu xa và sự trưởng thành khôn ngoan của niềm vui nơi những linh mục đứng tuổi. Chúng ta hãy biết cầu nguyện như ngôn sứ Neemia: niềm vui của Chúa là sức mạnh của tôi (Xc Ne 8,10).

Sau cùng, trong ngày thứ năm linh mục này, tôi xin Chúa Giêsu làm cho niềm vui của các linh mục cao niên, lành mạnh hay yếu đau, được chiếu tỏa rạng ngời. Đó là niềm vui của Thập Giá, xuất phát từ ý thức mình có một kho tàng không thể hư nát trong một bình sành dễ bị vỡ. Chúng ta hãy biết an vui trong bất kỳ nơi nào, cảm thấy niềm vui về sự vĩnh cửu trong sự mau qua của thời gian (Guardini). Họ hãy cảm thấy niềm vui vì được chuyển ngọn đuốc cho người kế tiếp, niềm vui được thấy cảc con cái của các con cái lớn lên, và cảm nghiệm những lời hứa, trong nụ cười và dịu dàng, trong đó niềm hy vọng không làm thất vọng.

Nguồn: archivioradiovaticana.va


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét