Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

7 điều bất ngờ xảy ra khi bạn cầu nguyện với chuỗi Mân Côi thường xuyên hơn

 

7 điều bất ngờ xảy ra khi bạn cầu nguyện với chuỗi Mân Côi thường xuyên hơn


Nếu bạn thấy khó cầu nguyện khi lần chuỗi mân côi hay khó giữ việc lần chuỗi thường xuyên, thì bạn hãy đọc để khám phá bảy điều bất ngờ nhất xảy ra trong đời sống của bạn khi bắt đầu cầu nguyện bằng việc lần chuỗi mân côi thường xuyên hơn.

  1. Bạn sẽ bớt ích kỷ hơn

Bạn từng cảm thấy thế nào khi yêu mến ai đó hay một điều gì đó với trọn con tim và cảm thấy thực sự bị lôi cuốn về người ấy hay những sự vật ấy, nhưng phải chăng đôi khi lại thật khó để hành động vì lòng mến đó? Cảm nhận của tôi về chuỗi mân côi cũng giống như vậy. Tôi yêu mến việc lần chuỗi và tôi yêu mến điều ấy như một món quà được trao tặng. Tôi thực sự tin vào sức mạnh của nó. Nhưng còn việc phải dành riêng thời giờ để lần chuỗi  thì sao? Để thực hiện, bản thân tôi phải hy sinh và từ bỏ một khoảng thời gian và năng lực cho riêng mình, và thay vào đó là suy niệm về những mầu nhiệm. Việc cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi giúp chúng ta quy hướng về Đức Kitô, Đấng có thể đưa ta ra khỏi mình, giải thoát ta khỏi tội lỗi, và giúp ta liên tục kiếm chế sự thỏa mãn tính ích kỷ của mình.

  1. Bạn sẽ kỷ luật hơn

Khi càng cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi bạn sẽ càng muốn cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi hơn. Ơn kỷ luật được trui rèn trong những lần tâm trí bạn bình lặng để tập trung, cầu nguyện ngay cả khi bạn mệt mỏi hay tắt điện thoại để lần chuỗi trước khi ngủ. Những hành vi kỷ luật này tác động lên mọi lãnh vực trong đời sống của bạn. Kỷ luật tương tự như tập thể dục, bạn không thể trở thành một vận động viên marathon trong lần chạy đầu tiên được. Nhưng bạn có thể tập tành từng chút một theo thời gian. Chuỗi Mân Côi giúp bạn thực hiện những bước đi của một đứa trẻ hướng tới việc làm cho Thiên Chúa được ưu tiên hơn trong cuộc sống của mình. Ngay cả những ngày (hay những mùa) khi bạn không có được sự an ủi về cảm xúc hay thiêng liêng nào, việc gắn bó với chuỗi Mân Côi là một cách thức tuyệt vời để duy trì sự trung tín, hoàn thành nghĩa vụ với Thiên Chúa và Đức Mẹ, và theo một “nguyên tắc nhỏ” trong ngày sống của bạn.

  1. Đức Mẹ vén mở cho bạn một lối nhìn thấu đáo

Tôi biết rằng, nếu bạn đã phải khổ sở lúc còn bé khi được giới thiệu một cách sơ sài về chuỗi Mân côi với việc bị ép buộc lần chuỗi  bởi những thầy cô hay cha mẹ và bạn cho rằng chuyện này hết sức nhàm chán thì khó có thể hiểu rằng làm thế nào mà chuỗi Mân Côi có thể đem đến bất cứ điều gì tốt đẹp hay siêu việt trong lúc lần chuỗi, ngay cả khi bạn thực sự tin vào hiệu năng mạnh mẽ của chuỗi Mân côi. Nhưng tôi thực sự tin rằng khi lần chuỗi Mân côi thường xuyên, những điều sâu xa giấu ẩn sẽ được vén mở. Khi thường xuyên suy niệm về từng mầu nhiệm, Đức Mẹ, với Đức Kitô , sẽ có những điều gì đó trao ban cho bạn. Có lẽ đó là một lối nhìn sâu sắc về một lãnh vực trong đời sống mà bạn đang phải vật lộn với nó. Có thể là một sự thần hoá  qua một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống của Đức Kitô mà sẽ thực sự nâng đỡ bạn. Có lẽ chính đó là kinh nghiệm có thể xảy ra sâu xa trong khi cầu nguyện mà bạn cảm nhận được, trong khoảnh khắc của chính mầu nhiệm ấy. Luôn có những điều mới mẻ để khám phá và luôn có điều gì đó tốt đẹp cần được vén mở.

  1. Bạn sẽ can đảm hơn

Khi bạn đặt trọn niềm tin tưởng và đời sống, thậm chí cả chính tâm hồn bạn nơi bàn tay Đức Maria qua chuỗi Mân côi, bạn bắt đầu hiểu cách thức thực hành rất rõ ràng, đơn giản và đầy đủ trong những giải pháp của Mẹ. Đức Mẹ chỉ muốn đưa chúng ta đến với Đức Kitô và Mẹ yêu thương chúng ta rất nhiều, với sự dịu dàng thực sự của một người mẹ hoàn hảo. Khi chúng ta dâng những khó khăn của chúng ta cho Mẹ, chúng ta tôn vinh Mẹ. Sự can đảm bắt đầu nhuần thấm trong một đời sống mà luôn luôn hướng về mẹ Maria để xin Mẹ giúp đỡ và tin rằng Mẹ sẽ ban cho. Bạn có thể có được sự can đảm khi biết rằng Đức Maria luôn ở bên bạn! Thánh Maximialô Kollbe từng nói: “ tôi gặp gỡ Mẹ Maria ở mọi nơi. Tôi chẳng còn gặp khó khăn nào nữa.”

  1. Ngày sống của bạn trở nên êm đềm hơn

Đây là những gì mà một trong số các tác giả của chúng ta nói về việc cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi hằng ngày: “Việc lần chuỗi làm cho toàn bộ ngày sống của tôi bình an hơn, như Đức Mẹ đang cùng tôi chiến đấu với những điều tồi tệ.” Mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Tôi ý thức hơn sự hiện diện của Thiên Chúa.” Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi không xóa đi nỗi đau trong đời sống của bạn, nhưng nó thực sự đưa tới cho bạn vũ khí mạnh mẽ hơn nhiều để chiến đấu với những khó khăn ấy.

  1. Bạn ý thức hơn trước cơn cám dỗ

Một trong số mười năm lời hứa về chuỗi Mân côi là: “việc lần chuỗi sẽ giúp phá bỏ những thiếu sót, giảm tội lỗi và đánh bại dị giáo.” Theo kinh nghiệm của tôi, khi tôi cầu nguyện thường xuyên với chuỗi Mân côi, tôi thấy rằng khoảnh khắc trước khi tôi phạm tội chậm xuống. Theo đó, chẳng hạn nếu tôi muốn trì hoãn hay nói chuyện phàm tục, tôi không làm nó một cách tự động nữa. Tôi nhận thức rằng những hành vi ấy bắt đầu với một cuộc đối thoại trong đầu tôi. Tôi ý thức hơn về cám dỗ trước khi hành động và có thêm thời gian để suy xét tôi có thực sự muốn làm nó hay không. Và khi cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, tôi bắt đầu nhìn đời sống của mình qua một lối nhìn liên kết với Thiên Chúa và bắt đầu thấy những gì Người muốn cho tôi là tốt lành và tôi cũng muốn cùng một điều Người muốn.

  1. Bạn bắt đầu sống biến cố Nhập Thể

Sức mạnh của chuỗi Mân côi nằm ở trong sự đơn giản của nó. Nó quá đơn giản đến nỗi mà dường như có thể ngu ngốc đối với những bộ óc thông minh. Vậy nên chúng ta thường nghĩ rằng, chúng ta cần phải tìm những giải pháp phức tạp, thông thái và đòi hỏi kiến thức tổng hợp để giải quyết những vấn đề phức tạp, khó khăn. Chúng ta tập trung vào vực thẳm của những vấn đề của mình và tự hỏi làm sao có thể tìm thấy giải pháp với một vấn đề quá lớn như vậy. Chúng ta không cần phải như thế. Thiên Chúa đến thế gian như một em bé nhỏ nhắn, yếu đuối và đơn độc khi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo. Kinh Mân côi quá đơn giản tới mức mà nó có thể cầu nguyện trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là vũ khí mạnh mẽ nhất của đời sống cầu nguyện mà chúng ta có.

Chẳng có vấn nạn nào mà chúng ta lại không thể được giải quyết bởi chuỗi Mân côi, dầu có khó khăn đến đâu, dẫu là vấn đề thuộc thế gian hay trời cao, trong đời sống cá nhân hay gia đình.” Sr. Lucia (một trong các thị nhân Đức Mẹ Hiện ra tại Fatima).

Tác giả: Ruth Baker

Joseph Trần Ngọc Huynh, S.J. chuyển ngữ

Nguồn: http://catholic-link.org/2017/08/30/7-surprising-things-happen-rosary-often/

Thế giới do NGẪU BIẾN hay do SÁNG TẠO

 

Thế giới do NGẪU BIẾN hay do SÁNG TẠO


Hoành Sơn, S.J.

Sách Sáng thế ký của Do Thái giáo (mà Kytô-giáo coi là thuộc Cựu Giao ước của mình) dạy : Gia-vê tự Ngài đã làm nên trời đất và mọi loài trong đó. Riêng con người được tạo ra sau cùng, một cách càng trực tiếp hơn nữa: Ngài tự tay lấy đất nặn thành, rồi thổi vô mũi một hơi sinh khí để hắn sống động lên (2.7). Một lối diễn tả thật tượng hình và sinh động, mà người bình dân dễ hiểu, hiểu rằng : do Thiên Chúa mà có tất cả, riêng loài người được đối xử đặc biệt, nó có gì thiêng liêng, bởi giống hình ảnh Ngài (1.26-27), “nhân linh ư vạn vật” như Phương Đông chúng ta quen nói!

Cho đến cách nay một thế kỷ, Kytô-giáo vẫn hiểu đoạn Kinh thánh trên theo nghĩa đen, điều khiến các nhà khoa học Tân đại (moderne) nghe chói tai, trong khi Công giáo và Tin lành chính quy thì lại nổi xung khi thấy thuyết tiến hóa chủ trương: do tương tác với môi trường mà có biến đổi, từ đó xuất hiện dần những chủng loại khác nhau, cả loài người cũng thế.

Ngày nay, khi mà KTG chấp nhận học thuyết tiến hóa rồi, coi đó như một cách sáng tạo cao siêu hơn của Thiên Chúa, thì nhiều nhà sinh học lại quả quyết : chẳng có sự can thiệp từ bên trên bằng một chương trình (phần mềm) cài sẵn nào cả, mà chỉ có ngẫu nhiên làm việc thôi.

Thật ra, những chủ trương Tự tạo (vật chất tự biến hóa mà làm nên tất cả) chẳng mới mẻ gì : từ muôn xưa, bên Đông cũng như bên Tây, thuyết ấy đã sẵn có, y như thuyết Thiên tạo vậy.

Những thuyết Thiên tạo và Tự tạo thời xưa

Theo triết lý Cổ Hy Lạp, tạo nên thế giới là Dêmiourgos, Hóa công. Hóa công không phải là thần duy nhất hay cao nhất, mà chỉ là một trong vô số những vị thần.

Hóa công trong tín ngưỡng Cổ Ba Tư, là Thượng thần Ahura Mazda thuộc thế giới Ánh sáng, đối nghịch với Ác thần Angra Mainyu của Vực thẳm tối tăm. Riêng gốc và nền của vũ trụ lại là Con người nguyên sơ Gaya Maretan, bắt đầu được Hóa công tạo nên tốt đẹp hoàn toàn, nhưng sau đó bị Thần bóng tối chích nọc độc vô khiến sinh đói khát, dịch bệnh…, để rồi từ xác chết của Con người đã xấu đi này mà mọc lên trời đất và muôn vật trong đó.[1] Và như thế, cả Thần ác lẫn Thần lành đều có phần trong tạo thế.

Dù chịu ảnh hưởng của văn hóa Ba Tư qua ông tổ Abraham xuất thân từ vùng này, nhưng do niềm tin riêng, tác giả Sáng thế ký chủ trương chỉ có một Hóa công là Gia vê lành thánh, và Ngài tạo nên tất cả, lại tất cả đều tốt đẹp[2].

Đó là một số những học thuyết Thiên tạo tiêu biểu. Cùng với những học thuyết này, ngay thời ấy cũng xuất hiện nhiều học thuyết Tự tạo : vật chất tự biến hóa mà sinh ra tất cả. Có điều để có dịch biến và những kết quả tốt, thì tự nhiên ai nấy đều tin rằng: một mình vật chất mù quáng không đủ, mà phải có cái gì thiêng liêng hơn, cái Lý được lồng vô.

Bên Hy Lạp, cái Lý ấy là Logos theo Héraclite và Zénon. Còn bên Ấn Độ, đó là Purusa hay Tinh thần. Vâng, theo học thuyết Sâmkhya, Prakrti hay Bản nhiên (vật chất sơ nguyên) phải có Tinh thần hiện diện như chất xúc tác, thì mới phân thành Tâm-Vật và Âm-Dương (chính là Âm-dương-lực), để âm dương đun đẩy nhau mà có biến hóa.

Trong trường phái Âm-dương-luận Trung quốc, vật chất sơ nguyên là Khí. Khí cũng phải nhờ Lý mới có biến dịch được. Lại cả Khí và Lý đều phân thành âm dương : về phía Khí thì mọi vật đều “cõng âm bồng dương”,  về phía Lý thì nguyên tắc “nhất âm nhất dương” chi phối. Vì âm dương tiềm tàng cả trong Lý lẫn Khí, nên chẳng những có “âm dương tương thôi nhi sinh biến hóa”, mà sự biến hóa ấy còn thành ổn định, điều hòa, như Đạo đức kinh nói :”Vạn vật đều cõng Âm bồng Dương, do Xung nhau mà có được Hòa” (ch.42).[3]

*

Như thế, không phải thuyết Thiên tạo đã ngự trị trong thời tiền khoa học, để rồi nay nó phải nhường chỗ cho chủ trương Tự tạo của loài người văn minh. Vâng, thuyết Tự tạo đã có từ rất xa xưa rồi, nhất là bên Phương Đông chúng ta. Do đó, nếu thuyết Tiến hóa khai sinh bên Nam Á và Đông Á, thì hẳn nó đã được tiếp đón nồng nhiệt ngay từ đầu rồi. Ngày nay, sau khi Tòa thánh đã nhìn nhận vai trò văn hóa trong trước tác Kinh thánh, và Vatican II đã coi con người cũng là “tác giả thật sự của Kinh thánh” nữa (Dei Verbum, số 11), thì thuyết Tự tạo chẳng còn là ta-bu đối với chúng ta.[4] Trái lại, như nhà vật lý thiên văn không Kytô-giáo Trịnh xuân Thuận cho thấy, chính sáng tạo bằng tiến hóa mới chứng tỏ Thiên Chúa là nhà thiện xạ đại tài, đã từ khoảng cách 15 tỷ năm (vận tốc) ánh sáng, bắn chỉ một phát mà trúng ngay cái hồng tâm 1cm là con người chúng ta! Vâng, viết với kiến thức khoa học của thời ấy, tác giả Sáng thế ký chỉ có ý xác định : Tất cả những gì chúng ta thấy hôm nay đều do Thiên Chúa mà có!

Từ thuyết Tiến hóa đến thuyết Ngẫu biến hôm nay

Thuyết tự tạo mới ở Âu Tây ra đời vào thế kỷ XIX với Lamarck và Darwin dưới danh xưng Tiến hóa.

Jean Baptiste Lamarck (1744-1829), một nhà tự nhiên học người Pháp, nghĩ rằng : Chính sự tương tác với môi trường đã khiến cơ thể biến đổi. Theo ông, khi gặp môi trường sống mới, phần cơ thể ứng phó được sẽ hoạt động nhiều lên, nhờ đó phát triển mạnh, trong khi phần không sử dụng đến nữa sẽ teo chột dần và có thể biến mất.

Charles Darwin (1809-1882), vì có phương tiện khảo sát sinh vật ở những vùng trời cách xa nhau trên thế giới, nên học thuyết Tiến hóa của ông có những chứng liệu xác minh. Nhận xét của nhà kinh tế học Anh Thomas Robert Malthus (1766-1834) : -Dân số tăng theo cấp số nhân, thức ăn tăng theo cấp số cộng, khiến cho cuộc sống ngày thêm khắc nghiệt-, nhận xét ấy gợi ý cho Darwin xướng xuất nên nguyên lý “Đấu tranh để sống còn”, theo đó thì môi trường sống ngày thêm khắc nghiệt chỉ cho phép những cá thể đủ khả năng ứng phó tốt mới tồn tại nổi, cũng như chỉ những con đực khoẻ mới có thể giành con cái mà để lại giống. Và đây là “Chọn lọc tự nhiên”. Những thay đổi ở cơ thể bắt đầu còn nhỏ, sẽ lớn dần và biến hóa hẳn để sinh ra những giống loại mới sau nhiều thế hệ. Sở dĩ thay đổi tồn tại được là nhờ di truyền. Sự di truyền này sẽ được chứng minh sau đó bởi nghiên cứu của Mendel.

*

Trên nguyên tắc, thì đây mới chỉ là Biến hóa (transformation). Nhưng vì để tồn tại thì phải khoẻ và ứng phó tốt, nên thay đổi cũng là tiến về phía hoàn thiện. Mà thật sự có tiến hóa như thế đấy, chẳng những nơi sự sống, mà nơi vật chất nói chung. Y như thể đã có mục tiêu nhắm trước, một chương trình cài đặt sẵn nơi cái Lượng tử ban sơ (Quantum initial).

Ấy thế mà nay vẫn có người nghĩ khác, rằng chẳng có gì nhắm trước, mà chỉ có Ngẫu nhiên làm việc, khiến những gì có đó hôm nay chỉ là do hú họa mà thành thôi.

Nếu nhìn gần và nhìn vào một số biến đổi, thì xem ra có như vậy thật. Cứ xem hiện tượng rất thông thường là sinh sản sẽ thấy ngay. Cả triệu tinh trùng mà chỉ có một tới được một noãn nào đó để một thằng nhóc da vàng mũi tẹt sinh ra. Để rồi vài năm sau cùng một may mắn hay “hú họa” như thế tái diễn, và một con nhãi mắt xanh, da ngăm ngăm đen chả hạn ra đời. Vâng, cách hành động “gặp chăng hay chớ” của thiên nhiên đã là nguyên nhân cho những khác biệt ở kết quả, không chỉ khác biệt ở hình dáng và giới tính, mà còn khác biệt ở từng cơ quan, từng nhân tế bào với những sợi nhiễm sắc thể. Và sự đa dạng vô cùng phong phú ấy, tác giả của nó không thể không là Ngẫu nhiên.

Chẳng những có ngẫu nhiên ở sự gặp gỡ của một giao tử đực nào đo (giữa hằng bao triệu giao tử đực khác) với một giao tử cái, mà trước khi ấy, còn sự trao đổi hú họa trong nhân tế bào giữa ba vạn gen với nhau.

Như ai nấy đều biết, trong mỗi nhân tế bào thường, có 23 nhiễm sắc thể đến từ bố và 23 nhiễm sắc thể đến từ mẹ. Nhưng riêng ở tế bào giới tính, chỉ còn 23 nhiễm sắc thể, tức bản sao của một nửa hệ di truyền thôi. Để làm nên tế bào giới tính (tức giao tử đực hay cái) như thế, trong một tế bào (với đủ 23 cặp thể nhiễm sắc), 23 thể nhiễm sắc đến từ bố và 23 đến từ mẹ phải trao đổi loạn xạ với nhau những đoạn gen của mình trước khi phân chia thành hai tế bào trong tiến trình gọi là giảm phân (meiosis). Vì sự đổi trao và phân đôi phải thực hiện hai lần, nên các “quân bài” gen được tráo đi đảo lại quá nhiều khiến cơ cấu di truyền thiên biến vạn hóa, không còn y hệt nhau giữa các giao tử từ đó thành hình. Nhờ vậy, khả năng giống hệt nhau giữa những cá thể sinh ra chỉ còn là 1 trên 70 vạn tỷ (1/7.1013) thôi. Trong khi ấy thì hành tinh chúng ta mới chỉ có 6 tỷ người, khiến ai nấy đều là duy nhất trên đời cả. Chính sự đa dạng trong cơ cấu bên trong ấy bảo vệ rất tốt cơ thể chúng ta, như trong hệ các kháng thể chúng có thể biến hóa rất đa dạng để đối phó với vi khuẩn và vi rút vốn cũng đa dạng và ngày càng đa dạng không kém[5]. Cái tốt của sự đa dạng rõ rệt nhất tìm thấy ở cấm kỵ loạn luân. Vâng, hai anh em, vì còn gần nhau về mặt di truyền, nếu lấy nhau sẽ tai hại cho con cái trên bình diện tâm sinh lý. Vâng, ở đây không chỉ có tai hại về mặt luân lý!

Phải chăng chỉ có ngẫu biến, chứ không còn sắp đặt?

Những người chủ trương chỉ có ngẫu nhiên thôi, đã nhìn nhận sự ngẫu nhiên ấy là cần, để từ đó có sự đa dạng vô cùng khẩn thiết cho sự sống. Nếu ngẫu nhiên quả là đúng thứ cần đến, lại quá thích hợp nữa, thì phải chăng nó cũng được tiên liệu (hay “bố trí”) trên thực đơn tiến hóa ngay từ đầu rồi? Nhất là đối với loài người, trong đó không chỉ có vấn đề chủng loại, mà còn vấn đề bản vị (hữu thể học), nó khiến mỗi người phải là chính mình, hoàn toàn độc đáo, khiến ta không thể hy sinh một người dù để cứu vãn cả xã hội, giống như thiêu hết bầy gà nhiễm H5N1 trong một vùng vậy.

Bản vị hữu thể học này cần được biểu hiện ở thân xác trước tiên để có sự khác nhau về thể trạng và di truyền, và từ căn bản ấy xây nên sự đa dạng hoàn hảo hơn nữa về mặt tâm lý và nhân bản (do giáo dục và văn hóa, cũng như do tu luyện bản thân). Có thế mỗi người mới thành duy nhất trên đời ngay cả ở biểu hiện nữa!

Về mặt thân thể, để có một đa dạng lớn lao như thế, “sự ngẫu nhiên” phải bố trí tới mấy lần tráo đảo các quân bài trong giảm phân. Thế nhưng tại sao lại có đúng sự tráo đổi gen cần thiết trước giảm phân như thế? Nhất là có đúng hiện tượng giảm phân để giao tử chỉ giữ lại nửa số nhiễm sắc thể, nhờ đó đực cái bù trừ đúng cho nhau để làm nên một cá thể mới với tế bào đủ cả 46 thể nhiễm sắc. Hơn nữa, trong tiến trình thành người mới này, còn biết bao buớc đi, mà chỉ cần một bước lệch thôi đủ hỏng luôn chuyến tàu. Nghĩa là bên cạnh cái ngẫu nhiên, phải có bao cái được sắp đặt, và đây là những quy luật. Ai dám bảo sự sống không bị cai trị bởi những quy luật nhỉ?

Mà không chỉ bên trong sự sống. Còn những bước tiến từ khoáng chất sang sinh vật nữa chứ. Quả vậy, nếu từ nhiều tỷ độ C, vật chất không nguội đến dưới 70 độ, thì sinh chất albumin sao khỏi bị đông cứng? Và nếu không có môi trường biến động điện từ quanh các vì sao cùng với những chất cần thiết như hơi nước, khí các bô ních, nát ri, mêthan,v.v., thì làm sao nảy sinh các acid amin; cũng như nếu không có sẵn môi trường nước và đất thó, thì sao cả triệu acid amin có thể trùng kết (polymérisation) thành viên gạch của sự sống là các đại phân tử protein?

Lại còn những chuẩn bị xa và rất xa là khác. Cần phải có “âm dương tương thôi, nhi sinh biến hóa”, phải có đủ bốn lực cơ bản : lực hạt nhân mạnh (để cố kết các quarks thành protons, neutrons, rồi thành hạt nhân), lực hạt nhân yếu, lực hấp dẫn và lực điện từ ( để cố kết électron dấu âm lại với hạt nhân dấu dương) cùng với hai hằng số được tính toán chi ly[6] để cuối cùng xuất hiện các phân tử chúng là nền tảng thứ nhất từ đó xây nên sự sống.

Vâng, sự sống -mà đỉnh cao là con người- xem như đã được nhắm trước ngay trong cái lượng tử ban sơ (quantum initial), đúng như nhận xét của nhà vật lý thiên văn không Kytô giáo Trịnh xuân Thuận khi ông ví Hóa công với một nhà thiện xạ đã đứng từ khoảng cách 15 tỷ năm (vận tốc) ánh sáng mà nhắm bắn cái hồng tâm 1cm là con người, thế mà chỉ một phát trúng ngay.

*

Quả thật, nếu chỉ có ngẫu nhiên thì sao có những kết quả kỳ diệu đến thế. Cứ mang cả sấp chữ cái mà đổ ào xuống mặt bàn, và thử rất nhiều lần như vậy đi, xem có bao giờ chúng xếp thành cả một Truyện Kiều hoàn chỉnh được không? Thế mà từng đã có biết bao Truyện Kiều được tạo nên giữa lòng thiên nhiên như thế đó.

Truyện Kiều trước tiên, đó là quá trình tiến hóa ăn khớp với nhau để cuối cùng có sự sống, và giữa sự sống : loài người! Truyện Kiều tiếp theo, đó là chính vũ trụ này, ở hiện trạng của nó, với các hành tinh và vệ tinh xoay chuyển nhịp nhàng quanh tinh đẩu chính để làm nên thái dương hệ, đó là các thái dương hệ hợp thành tinh hà, và các tinh hà dù vẫn di chuyển, nhưng di chuyển trong trật tự để làm nên cái vũ trụ bao la với bề rộng gần hai mươi tỷ năm ánh sáng của chúng ta!

Còn nơi sự sống? Các sinh vật phân thành ức triệu chủng loại, thứ này cần thiết cho thứ kia để bổ túc cho nhau và để cùng tồn tại với nhau! Và nơi từng cá thể, các cơ quan và chức năng phối hiệp với nhau càng vô cùng chặt chẽ để có một sự sống thống nhất hoàn toàn. Lại không chỉ có Truyện Kiều ở cái tổng thể là cá thể đó, mà mỗi chương của Truyện Kiều cá thể cũng là những tổng thể diệu kỳ ở một phạm vi hẹp hơn. Và đây là từng bộ phận của cơ thể đó.

Chúng ta hãy lấy làm thí dụ : Con mắt. Có cả trăm thành phần cấu tạo nên mắt, cái nọ bổ túc hay hỗ trợ cho cái kia.

Nên nhớ, có hằng chục thứ mắt khác nhau, mỗi thứ phù hợp cho hoạt động của một loại động vật khác nhau. Như tôm cua và côn trùng, mà nguy cơ rình rập tư bề trên từng bước đi, thì mắt của chúng do cả ngàn mắt con hợp lại, có khả năng phát hiện những cử động dù nhỏ nhặt của kẻ thù từ bất cứ chỗ nào quanh mình. Như loài chim vì bay nhanh nên võng mạc kéo dài về phía sau hầu có thể nhìn ra ngay những chướng ngại khi chúng còn ở xa.

Và sau đây là mắt người, mà chúng ta có chung với loài có xương sống.

Mắt người là một máy chụp hình siêu đẳng, mà thấu kính là thủy tinh thể, mà cửa điều sáng (diaphrame) là  con ngươi với những cơ giúp mở to hay co hẹp lại,. Khác với thấu kính của máy chụp, thủy tinh thể gồm bởi nhiều lớp chồng lên nhau, với hai đầu có những cơ (muscle) khiến thấu kính có thể tự dẹp xuống hay nở tròn hầu chỉnh lại tiêu cự (focal length) cho vừa đúng để nhìn rõ bất cứ vật thể nào dù gần hay xa. Bộ phận tiếp nhận tia sáng ở võng mạc cũng được cấu trúc rất phức tạp và tinh xảo bằng những tế bào thần kinh hình nón và hình que : hình nón từng cái một tập trung ở giữa nhiều nhất để ghi đậm nét hình ảnh; hình que hợp thành từng cụm xung quanh cho một hình ảnh mờ dần, nhưng tế bào hình que lại cho thấy rõ hơn trong tối. Nhiều loại cơ khác sẽ tự động điều chỉnh để hình ảnh được thấy rõ ở những điểm khác nhau khi ta chú ý đến (điểm ấy).

Khác hẳn máy chụp, mắt có thể giúp ta, không chỉ thấy hình của vật thể, mà còn ước lượng được độ lớn và khoảng cách của vật thể này. Càng kỳ diệu hơn khi mà, cùng với hình ảnh thấy, nhờ sự phối hiệp của lý trí, chúng ta có thể nhận ra tính xác thực (certitude) hay không của vật thể trước mắt, điều mà hình chụp không làm được.

Đó là những bộ phận chính của cơ quan thị giác. Chúng ta bỏ qua hệ thống bảo vệ như lông mi để cản bụi và côn trùng, như nước mắt làm trôi bụi đi, như khả năng chớp mắt tự động để chống lại những tấn công bất ngờ. Và chúng ta cũng chưa đả động tới hệ thống thần kinh, nó được bố trí rất phức tạp và tinh tế để tiếp nhận và phối  hợp các ký hiệu hầu tạo ra hình ảnh trong đầu, cũng như sự liên kết của thị giác này với các giác quan khác và với những hoạt động khác của chúng ta.

*

Dĩ nhiên là, trong thiên nhiên ấy, bên cạnh những biệt định cũng diễn ra biết bao bất định. Bất định năng gặp nhất là trong lãnh vực vật lý lượng tử. Cho một nắm hạt cơ bản vào chạy trong máy gia tốc (cyclotron) và cho chúng đập vô một tấm chắn bằng đồng. Có hạt sẽ đi xuyên qua và có hạt dội lại bằng một góc 145, mà không thể đoán trước hạt nào lọt, hạt nào hồi phản. Thế nhưng trong cái bất định này vẫn có một biệt định, và đó là : chỉ một  trong hai trường hợp, chứ không phải ba, bốn,v.v., lại nữa nếu đây là phản hồi thì góc hồi phản nhất định là 145 độ, chứ không khác được. Y như đặt một khúc xương trước mắt chó, với một chướng ngại vật ở chính giữa. Không thể nào đoán trước chó sẽ chọn đường  bên trái hay bên phải, nhưng chắc chắn thế nào nó cũng chạy đến và đến bằng một trong hai con đường bằng nhau ấy.

Sự bất định càng lớn hơn nơi con người, vì nơi con người còn ý chí tự do. Có điều ai dù thánh đến đâu cũng không thể không có những yếu đuối, trong khi phần đông lại không thánh, nên sống theo bản năng là chuyện thường gặp ở loài người. Cho nên vẫn xác định được cách phản ứng của xã hội nói chung bằng phép tính xác xuất (vốn chỉ áp dụng cho những con số lớn), nhờ đó mới có thể làm thống kê và mở hãng bảo hiểm.

Quả thật, nếu nhìn chung cuộc thì xem ra không thể không chấp nhận một sắp đặt trong thiên nhiên, một nhắm đích trong tiến hóa từ lượng tử ban sơ đến con người. Thế nhưng nhìn sâu vào từng bước tiến, lại không thể phủ định rất nhiều những bất định và ngẫu nhiên. Có điều thường khi những bất dịnh và ngẫu nhiên ấy lại là cần thiết. Cho nên phải đi đến giả định là ngẫu nhiên cũng nằm trong quy luật, mà một trong những bằng chứng là các tham số (paramètre) m trong rất nhiều công thức vật lý.

Để dung hòa giữa ngẫu nhiên và biệt định, tôi xin trở về với ý kiến của tôi đã được trình bày trong nguyệt san CGvDT năm 2002 như sau:

-“Cái khối Energy-mass (Năng lượng-khối lượng) ấy, với tất cả sự năng động của nó do sự Nhắm đích (của Thiên Chúa) đã hằn ghi thành Hướng đích (ở vật chất), sẽ dò đường tìm lối cho mình. Mỗi khi tìm ra lối đi hướng về phía đích, nó liền để Vết lại, và đây là quy luật, một thứ “tập quán” mà mọi thành phần vật chất sau đó cứ thế mà làm, mà “lặp lại” (répétition)…”[7]

Chính vì Thiên Chúa chỉ nhắm đích một cách chung chung, nên vật chất luôn bước theo một cách ngẫu hứng, -vâng, không phải ngẫu nhiên, mà ngẫu hứng-. Và do đó quy luật (ở vật chất) vừa xác định, vừa không thể xác định hoàn toàn và về mọi mặt, và điều ấy là cần thiết cho sự tồn vong và tiến hóa của vật chất, nhất là của sự sống nói chung. Cho nên quy luật vật lý quá cứng nhắc của Newton rồi sẽ được chỉnh lại bởi quy luật “tương đối” của Einstein vốn mềm dẻo hơn. Ngay quy luật thiêng liêng là đạo đức cũng vậy. Hướng nhắm của đạo Trời, mà phản ảnh ở đạo người (trong lương tri chúng ta) chỉ là sự thiện (hay Đạo) một cách tổng quát, sự thiện (hay Đạo) ấy rất sâu xa và tinh tế, nên không thể xác định bằng những quy luật luân lý quá rõ, nên thường cũng quá cứng nhắc như vẫn thấy xưa nay. Đúng như suy nghĩ của Đạo đức kinh, là phải “mất lễ mới còn nhân nghĩa, mất nhân nghĩa mới còn đức, và mất đức mới còn Đạo”![8]

 


[1] Xx. Hoành sơn Hoàng sĩ Quý, Le mythe indien de l’Homme cosmique dans con contexte culturel et dans son évolution, trong Revue de l’Histoire des Religions, Avril-Juin 1969, tr.134-136.

[2] Mỗi khi tạo thành cái gì, Gia vê đều “thấy là tốt đẹp” (Stk, ch.1).

[3] Xx. Hoành sơn, Tính dục nhìn theo Phương Đông, NXB Trẻ, 2006, tr.33.

[4] Xx. Hoành sơn, Tương tác Lời Chúa-lời người, CGvDT th.5/2006, tr.43-54.

[5] Xx. E. Rauscher, trong Science et Vie, th.8/2007, tr.49.

[6] Nếu hằng số hấp dẫn mạnh quá, thì các vì sao co hẹp nhanh, không kịp để vật chất tiến hóa và phức tạp hóa; bằng như ngược lại, nếu hằng số hấp dẫn hơi nhỏ, thì các thiên thể không suy sụp được để tạo nên các vì sao, ở đó hình thành những nguyên tố nặng làm nền cho sự sống.

[7] Hoành sơn, Một Tạo thế quan mới cho những giải đáp sinh đức, CGvDT, số 87, th.3/2002, tr. 32.

[8] Trong thực hành, khi bắt đầu tu thân, chúng ta cần đến một kỷ luật nghiêm khắc để sửa mình. Nhưng khi đã đức hạnh rồi, thì phải ngày càng bớt những hình thức bên ngoài để tinh thần có thể bay nhảy thong dong.

Thánh Tiến Sĩ thứ 38 là ai?

 

Thánh Tiến Sĩ thứ 38 là ai?

YouTube player

“Sống là thay đổi. Hoàn thiện là thay đổi thường xuyên”.

 

Lời mở đầu của bài viết là lời của thánh tiến sĩ thứ 38. Nhưng ngài là ai vậy? Đó là một vị thánh khá đặc biệt đến từ nước Anh. Ta đọc lại lời giảng của ngài trong thánh lễ mừng kính các thánh vào năm 1832:

 

Chắc chắn ngay cả toàn thế giới cũng không thể chứa hết những ghi chép về tình yêu của Chúa, và lịch sử của tất cả các thánh nhân là các đám mây nhân chứng đức tin’ (Dt 12,1), mà chúng ta cử hành trong thánh lễ hôm nay. Tài sản và gia đình của Thiên Chúa được nhân lên dồi dào trong mọi thời đại. Hôm nay, chúng ta tập hợp tất cả các thánh nhân lại với nhau; trong ký ức ngắn ngủi của một giờ đồng hồ chúng ta tập hợp tất cả những việc làm tốt lành nhất, những cuộc sống thánh thiện nhất, những công việc cao cả nhất, những đau khổ quý giá nhất mà mặt trời từng thấy (John Henry Newman. Predigten II, 32, Schwabenverlag, Stuttgart 1950, 432).

 

Đó là lời thánh John Henry Newman. Vào ngày 31.7.2025 Đức Thánh Cha Lêô XIV đã phê chuẩn quyết định tuyên bố Thánh John Henry Newman, một cựu linh mục Anh giáo sống vào thế kỷ XIX đã cải đạo sang Công giáo, trở thành thánh Tiến sĩ. Và ngày 01.11.2025 này, Đức Thánh Cha Lêô XIV chính thức công bố ngài là vị thánh tiến sĩ thứ 38 của Hội Thánh.

 

Chúng ta cùng tìm hiểu dung mạo của vị thánh tiến sĩ mới, John Henry Newman.

 

John Henry Newman sinh tại Luân Đôn ngày 21 tháng 2 năm 1801, là anh cả trong gia đình có 6 anh em. Thân phụ người là chủ ngân hàng, và thân mẫu thuộc dòng dõi Huguenot. Được gửi học trong một trường có nền giáo dục cao tại Luân đôn, Newman chịu ảnh hưởng của một mục sư tin lành Calvin và năm 1816 theo Tin Lành. Năm sau đó anh gia nhập đại học Oxford, và năm 1824 trở thành phó tế tin lành. Năm 1828 mục sư Newman được chỉ định trông coi giáo xứ đại học St. Mary, đồng thời theo học triết và thần học tại đại học Oxford. Chính trong thời gian này mục sư thành lập “Phong trào Oxford” để chống lại chủ thuyết duy tự do tôn giáo đang lan mạnh trong các môi trường đại học lúc bấy giờ.

 

“Chuyến đi Ý năm 1832 đã đào sâu hơn sự tìm kiếm nội tâm của ngài. Ngài mang trong lòng một khát khao được biết đến chiều sâu của Chúa, “Ánh sáng nhân từ” của Người, điều đối với ngài cũng là ánh sáng của Chân lý – chân lý về Chúa Kitô, bản chất đích thực của Giáo hội, và truyền thống của những thế kỷ đầu, khi các Giáo phụ nói với một Giáo hội vẫn còn chưa bị chia rẽ” (Theo Vatican News. Ngày 01.8.2025).

 

Giữa các năm 1833-1841 Newman cùng với các bạn của phong trào cho phổ biến 90 bài khảo luận liên quan tới tình hình của Giáo hội Anh giáo cũng như nhiều vấn đề của Kitô giáo nói chung. Trong bài khảo luận cuối cùng mục sư Newman đề nghị một kiểu giải thích “30 khoản về tôn giáo” phù hợp với giáo lý công giáo của Công đồng chung Trento. Lập tức mục sư bị đại học Oxford và 42 Giám mục Anh giáo kết án.

 

Sau biến cố đó, mục sư Newman từ chức cha sở đại học, và năm 1842 rút lui về Littlemore, và bắt đầu viết tác phẩm “Sự phát triển của giáo lý Kitô”, nghiên cứu nguồn gốc Kitô giáo. Tác phẩm được in năm 1845, trong đó mục sư Newman kết luận rằng Giáo hội Công giáo ở bên phía có lý.

 

Ngày mùng 9 tháng 10 cùng năm 1845, mục sư được Linh mục Domenico Barberi, dòng Khổ Nạn, tiếp nhận vào Giáo hội Công giáo. Sau này ngài viết về khoảnh khắc đó: “Giống như việc cập bến sau một vùng biển động; và niềm hạnh phúc của tôi về điều đó vẫn còn mãi cho đến ngày nay” (Theo Vatican News. Ngày 01.8.2025). Sau đó, Newman rời Oxford để về sống tại Birmingham. Sau một thời gian suy tư, Newman xin gia nhập dòng Thánh Philippo Neri, và năm 1847 được thụ phong linh mục Công giáo tại Roma.

 

Sau đó, cha Newman thành lập tại Edgbaston gần Birmingham và tại Luân Đôn hai cộng đoàn đầu tiên của dòng thánh Philippo Neri bên Anh quốc. Năm 1851 các Giám mục Công giáo Anh chỉ định cha Newman làm viện trưởng đại học Công giáo mới thành lập tại Dublin, thủ đô Ailen. Cha đã giữ chức vụ này giữa các năm 1854-1858. Sau đó cha trở về Anh quốc để nghiên cứu và làm việc mục vụ.

 

Năm 1879, lúc cha Newman được 80 tuổi, Đức Leo XIII vinh thăng ngài làm Hồng Y.  Khẩu hiệu hồng y của ngài nói lên con người của ngài: Trái tim nói với trái tim (cor ad cor loquitur). Trong diễn văn nhận tước Hồng Y, Đức Hồng Y Newman mạnh mẽ lên án chủ thuyết duy tương đối và duy tự do trong lãnh vực tôn giáo, và người định nghĩa đó là “một tai ương lớn”, “một lầm lạc đang lan tràn như một bẫy sập chết người trên toàn thế giới”.

 

Đức Hồng Y John Henry Newman tiếp tục viết lách cho tới năm 1885. Giáng Sinh năm 1889 người cử hành thánh lễ cuối cùng, và qua đời năm 1890 tại Edgbaston, Birmingham. Trên mộ, ngài yêu cầu chỉ khắc tên mình và một câu ngắn gọn tóm tắt chặng đường phi thường của 89 năm cuộc đời: “Ex umbris et imaginibus in Veritatem – Từ bóng tối và hình ảnh đến Chân lý”.

 

Là thần học gia và triết gia lỗi lạc, Đức Hồng Y Newman được coi là một trong các nhà văn và là người bênh vực đức tin nổi tiếng nhất trong lịch sử Anh quốc. Vì sự độc đáo trong tư tưởng thần học và triết học, người được coi là một trong các “người cha không có mặt” của Công đồng chung Vatican II.

 

Ngoài ra, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI nói như sau: “Newman, Giáo phụ của thế kỷ sắp đến!” Một câu được bà giáo sư Pascale Vincette Học viện Bernardins (Paris) trích trong lời giới thiệu chân phước hồng y John Henry Newman (1801-1890) viết cho độc giả Zenit nhân ngày Vatican công nhận một phép lạ thứ nhì, mở đường cho việc tuyên thánh cho Newman. Bà nhấn mạnh đến sự kiên trì của Đức Hồng y Newman về chỗ đứng của giáo dân trong Giáo hội và vai trò của ngài trong Công đồng Vatican II.

 

Cha Michael Paul Gallagher trong tác phẩm Bản Đồ Đức Tin đã viết về thánh John Henry Newman như sau: “Từ lúc còn sinh thời, Đức Hồng Y Newman đã được xem là một trong những người khổng lồ của thời đại mình. Nhưng những lời vinh danh vào năm 1890 cũng công nhận ngài là một nhân vật tâm linh vĩ đại, người mang lại minh triết mới cho chất vấn về sự dấn thân lòng đạo. Chẳng hạn như một bài bình luận rộng rãi đến ngạc nhiên của tờ Người suy nghĩ tự do (Freethinker), một tạp chí định kỳ của người vô thần:

 

“Newman là văn phong trong sáng nhất và là thần học gia vĩ đại nhất của ngôn ngữ của chúng ta. Tài hùng biện hoàn hảo của ngài đã thu hút được cả những người đối lập khó tính nhất… một người vô thần triệt để nhất hẳn sẽ hối tiếc vì đã phải bất đồng với ngài… Chúng ta tự nói với nhau, “Đây còn hơn cả người Công giáo, hơn cả thần học gia, đây là người có đời sống nội tâm mãnh liệt, một trong số ít những người hiểu được tâm hồn nhân loại, một người đã lần theo được các dấu vết vi tế nhất trong tâm hồn con người, giúp cho độc giả hiểu được chính bản thân mình”.

 

Đức Biển Đức XVI tuyên phong chân phước cho ngài vào ngày 19.9.2010, và Đức Phanxicô tuyên ngài lên hàng hiển thánh vào ngày 13.10.2019.

 

John Henry Newman là vị thánh tiến sĩ thứ 38 có tất cả mọi tiêu chuẩn để trở thành vị thánh “hợp thời” nhất của thời buổi chúng ta. Vô số tài năng đáng kinh ngạc cũng như các nét đặc biệt nhân cách của ngài, đã làm cho ngài trở thành vị thánh không tử đạo người Anh đầu tiên, được phong thánh từ 500 năm nay, một gương mẫu thiêng liêng ngoại hạng cho thời buổi chúng ta.

 

Linh mục Juan Rodrigo Vélez, chuyên gia nghiên cứu về cuộc đời và tư tưởng của Thánh Newman, nhấn mạnh rằng Thánh Newman “trước hết, là một vị thánh nói với chúng ta về sự thánh thiện cho mọi người”, bởi vì ngài đã dạy, đặc biệt là với giáo dân, rằng “họ được mời gọi nên thánh, như Thánh Giusemaría Escrivá, Thánh Gioan Phaolô II và nhiều vị thánh khác”.

 

Do đó, cha bày tỏ niềm vui và lòng biết ơn trước quyết định của Đức Thánh Cha Lêô: “Đây là ngày tạ ơn Thiên Chúa và cũng là dịp để chúng ta nghiêm túc hơn trong việc học hỏi đức tin và Giáo lý”, bởi Thánh Newman đã “cho thấy tầm quan trọng của việc học hỏi Kinh Thánh và giáo huấn của Hội Thánh”.

 

Ngoài ra, theo cha Vélez, có những lý do khiến Đức Thánh Cha chính thức tuyên phong Thánh Newman là Tiến sĩ Hội Thánh. Một trong những lý do có thể là:

 

“Hội Thánh có những giáo huấn tuyệt vời, nhưng cần có những nhà thần học và giáo sư để giảng dạy đức tin (…). Việc loan báo Tin Mừng đòi hỏi phải trình bày đức tin, và đó chính là điều Thánh Newman đã thực hiện”. Cha Vélez cũng nói thêm: “Việc trao tặng danh hiệu này sẽ giúp ích cho Hội Thánh và công cuộc loan báo Tin Mừng tại Anh quốc, nhưng cũng cả ở những quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha”.

 

Cha Vélez khuyến khích đọc các tác phẩm của Thánh Newman, vì “ngài còn rất nhiều điều muốn nói với chúng ta” (Di sản sống động của thánh John Henry Newman. Vatican News 20.8.2025).

 

Thay lời kết, ta cùng đọc một vài tâm tình của vị thánh tiến sĩ mới nhất của Hội Thánh cùng lời cầu nguyện nổi tiếng nhất của ngài:

“Hãy trỗi dậy, hỡi linh hồn yếu đuối của tôi, hãy can đảm lên; hãy nắm bắt khoảnh khắc ngắn ngủi này, nơi sự sống và ý thức vẫn còn ở bên bạn. Hãy chuẩn bị đón Chúa! Khi cơn bão kinh hoàng khủng khiếp này dần lắng xuống, và trước khi sự hủy diệt lại giáng xuống trên ta, hãy sử dụng thời gian cho thật tốt!” (Der Traum des Gerontius. S.7).

 

“Những con đường dẫn đến sự hoàn thiện rất khác nhau; những phương thuốc mà mỗi tâm hồn cần cũng không hề giống nhau. Chúa thường dẫn chúng ta đi trên những con đường lạ lẫm; chúng ta biết Ngài muốn chúng ta hạnh phúc; nhưng hạnh phúc của chúng ta là gì và con đường nào dẫn đến đó, chúng ta không biết. Chúng ta mù quáng; khi tự mình chúng ta sẽ lạc lối; chúng ta phải phó thác mọi sự cho Chúa”. (John Henry Newman, Betrachtungen und Gebete. Leselicht: Paul Bernhard Wodrazka. Be&Be – Verlag Heiligkreuz 2022. S.58).

 

“Khi cái nóng, cơn sốt, tiếng ồn của buổi trưa kết thúc, khi ánh sáng nhạt dần và cảnh vật gợi lên nỗi khao khát, khi bóng tối kéo dài và thế giới bận rộn trở nên yên lặng – thì lúc đó chúng ta cần quay lưng lại với mọi loại bóng tối: bóng tối của giác quan, bóng tối của sự đúng sai và tranh luận, những bóng tối làm tổn hại trí tưởng tượng và cảm nhận của chúng ta.

Cần phải thấu hiểu những rối loạn của thế giới này và chỉ hướng đến điều quan trọng nhất đối với chúng ta, như tiên tri Mikha nói:

‘Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt,
điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn’ (Mk 6,8)”.

(John Henry Newman. Dem Licht folgen. Jahreslesebuch. Patris Verlag. Vallendar 2011. S.209).

 

“Ước gì mỗi mùa Giáng Sinh mới lại tới, thời điểm mà biến cố Chúa đã mặc lấy thân phận của một em bé vì ích lợi chúng ta được sống động lại, giúp cho chúng ta ngày càng giống Chúa hơn: sống giản dị và khiêm nhường hơn, thánh thiện và yêu thương hơn, tận tụy và hạnh phúc hơn, trên hết là tràn đầy Chúa hơn”. (John Henry Newman. Dem Licht folgen. Jahreslesebuch. Patris Verlag. Vallendar 2011. S.237).

 

Để kết, mời bạn cùng tôi cầu nguyện với lời nguyện cũng là bài thơ nổi tiếng nhất của thánh John Henry Newman với tựa đề “Lead, Kindly Light – Ôi Ánh Sáng dịu dàng xin dẫn lối”:

 

“Ôi Ánh Sáng dịu dàng,

xin hãy dẫn bước,

xin hãy dẫn bước con trong vòng xoay của đêm tối.

Đêm đen đã xuống thật sâu, và quê hương còn xa xôi lắm,

xin hãy dẫn bước con!

Xin hãy che chở bước chân con.

Con không muốn đốt thời gian

để đi nhanh qua đoạn đường thật dài,

mỗi bước chân là đủ cho con rồi.

Lạy Chúa, trước đây con không ý thức cầu xin Chúa,

giờ đây con ý thức và con xin Chúa:

Xin hãy dẫn bước con!

Trước đây con thường hay xem xét đường đi

và chọn đường nào mà con thích.

Nhưng giờ đây lạy Chúa,

Xin hãy dẫn bước con!

 

Con đã thích thú những ngày rực rỡ trong đời con,

và có những năm tháng

sự kiêu hãnh đã làm chủ trái tim con.

Vâng, mặc dù có nhiều sợ hãi,

nhưng con đã quên những gì đã qua.

Sức mạnh của Chúa đem lại phúc lành

theo bước con từ lâu lắm rồi,

chắc chắn Chúa tiếp tục dẫn bước con đi,

qua đầm lầy và ruộng nương,

qua các vách đá và

qua những vực thẳm bên thác nước,

cho đến khi đêm đen qua đi,

để nhường cho ánh bình minh lại đến.

Lúc đó các Thiên Thần

đang nở những nụ cười toả sáng ở cánh cửa,

những nụ cười mà con rất yêu thích,

nhưng trên đường đời con đã đánh mất. Amen”.

(J.H.Newman. Gott – das Licht der Welt. Gebete und Betrachtung. Freiburg 2023. S.39).

 

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, S.J.