Trang

Thứ Hai, 2 tháng 4, 2012

Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh (2012)




Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh (2012)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế, bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho  Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, bài đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
      Cv 10: 34a, 37-43
      Bài đọc I nhắc nhở cho chúng ta rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, thủ lãnh của Giáo Hội, được nêu bật  trong đoạn văn sách Công Vụ nầy.
      Cl 3: 1-4
      Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Phục Sinh và mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.
      Ga 20: 1-9
      Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống. Đây là câu chuyện khai mào đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
    
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)
Sách Công Vụ được trình bày như phần tiếp theo sách Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô, mà chúng ta không biết rõ tiểu sử của nhân vật này.
    
Thánh Lu-ca ôm ấp nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; cũng vậy, trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô; còn trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
    
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.
1. Cuộc kinh lý mục vụ của thánh Phê-rô:
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “kinh lý mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), thời kỳ lắng dịu đã xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ tạm yên nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
2. Thánh Phê-rô lần đầu tiên bước vào nhà một người ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô đang ở tại nhà ông Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
    
Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà của một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật; lệnh cấm nầy phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh tất cả tiêm nhiễm tôn giáo, nhưng dần dần lệnh cấm nầy được phổ biến và được tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.
3. Bài diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn văn mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ chứng minh cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vì ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những “chứng nhân” về những hoạt động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, “chứng nhân” về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là “chứng nhân” về cuộc Phục Sinh của Ngài. Có một ít người được diễm phúc gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh và sống thân mật với Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã trao cho họ sứ mạng làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử người sống cũng như kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói thêm rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
    
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến nổi Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô Phục Sinh.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân trình bày cho chúng ta chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh cách sâu xa.
1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết với Đức Ki-tô”. Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh Phao-lô thường sử dụng: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần, từ đó cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
2. Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây, thánh Phao-lô định nghĩa người Ki-tô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, được dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ thực trạng tinh thần này của người Kitô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới”. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi; đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Kitô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Kitô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; chúng ta chắc chắn có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
    
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm: “Ngôi mộ trống” và “Những lần Đấng Phục Sinh hiện ra”. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn.
    
Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên, chúng ta dám nói kinh nghiệm về sự “trống rỗng”; kinh nghiệm nầy đã mở mắt họ sáng ra và đã khai mở lòng trí của họ để hiểu Kinh Thánh.
    
Tiếp đó, vào cùng ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống; tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm cũng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng với một niềm xác tín tuyệt đối cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.
    
1. Ngày thứ nhất trong tuần:
Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một bài tường thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, bài tường thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết vén mở những ý nghĩa sâu xa.
    
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua; ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.
    
2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài (Lc 8: 1-3). Cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem thi thể Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng chỉ cho thấy rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
    
Ở đây, thánh Gioan chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, theo chính bản văn, dường như có các người phụ nữ khác (hay ít ra một người phụ nữ khác) cùng đồng hành với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Quả thật, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1); còn thánh Mác-cô lại kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1); thánh Lu-ca còn nói đến nhiều người phụ nữ hơn nữa (Lc 24 : 1). Nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh và đặt ở hàng đầu.
    
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà đã là nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó); và vì chính bà đã được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng tường thuật.
    
3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan:
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng của biến cố Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng nầy.      
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn thánh Gioan, vì thế, ông không thể chạy theo kịp thánh Gioan. Thánh Gioan đến mồ trước, nhưng không vào chỉ đứng bên ngoài liếc nhìn vào bên trong. Để tỏ lòng kính trọng, thánh Gioan chờ đợi thánh Phê-rô đến và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước. Thánh Gioan nhận ra ở nơi thánh Phê-rô quyền lãnh đạo các Tông Đồ. Trong Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô được xác nhận chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên biển hồ Ti-bê-ri-a: “Hãy chăm dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15-17), nhưng thật ra đã hàm chứa trong việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho vị Tông Đồ nầy rồi: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô: Ga 1: 42). Cả hai người đều cùng thấy hiện trường. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.
    
4. Khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi.    
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, hai ông còn thấy băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này càng đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi rồi. Thế mà, mọi sự vật đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.
    
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến việc La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44), còn Đức Giê-su khi sống lại thì hoàn toàn tự do, không còn bị băng vải liệm buộc chặt thân thể Ngài hay khăn che đầu phủ mặt Ngài, biểu tượng xích xiềng Tử Thần, được chứ? Như vậy, ông La-da-rô dù được sống lại nhưng vãn còn bị xích xiềng Tử Thần trói buộc nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi Tử Thần từ nay không có quyền hành gì trên Đức Giê-su nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại Tử Thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ nầy và bị xao động đến mức ông đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.
    
Ánh sáng bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” nầy trước ngôi mộ trống và băng vải liệm cùng khăn che đầu cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nếu trước đây đức tin của thánh nhân đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy mình, thì tình yêu của ông đã chẳng hề suy giảm như ông đã cho thấy khi theo từng bước chân của Thầy lên cho đến đồi Can-vê và chứng kiến giây phút sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này đã dẫn ông đến niềm tin ngay tức khắc. Chính cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính ông là người đầu tiên nhân ra Thầy mình trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương mờ buổi sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên ông lại “tin tối đa”. Độ nhạy bén của con tim này hỗ trợ cho ông thấu hiểu con người và sự vật.
    
5. Theo lời Kinh Thánh.                                                                                                
Nhờ độ nhạy bén của con tim “quen hơi bén tiếng”, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, ông cũng cần lý trí soi sáng. Lời ghi nhận “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết” ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (Ga 14: 26; Lc 24: 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông…Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31).
Quả thật, chúng ta đọc trong Tv 16 những hàng nầy : “Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ”. Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng  Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a.
Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ trống với hai yếu tố cần thiết cho niềm xác tín của họ: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh tiên báo.

Nguồn: kinhthanh.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét