MẸ HẰNG CỨU GIÚP
Một trong những bất đồng sâu
xa giữa Công Giáo ( Catholic
Church ) và các hệ phái Cải
Cách Giáo ( Reform
Church ) đó là
việc cầu nguyện cùng Đức
Maria. Theo họ thì Đức Maria không
bao giờ có thể là đối tượng
của cầu nguyện. “Về phần mình các
nhà Cải Cách bác bỏ mọi lời
xin cầu bầu ngỏ cùng Đức Maria
vì điều này giả thiết rằng
Ngài đóng vai trò làm dụng cụ hữu hiệu
cho nhiệm cục cứu chuộc hay
Ngài “ cộng tác” vào nhiệm cục ấy.
Zwingli cho rằng ta chỉ có
một Đấng Cầu Bầu, còn Bullinger
thì viết thêm: một Đấng cầu
bầu duy nhất. Calvin thì bác bỏ ý
niệm cho rằng Đức Maria là
người gìn giữ các ơn” ( Nguồn
Vietcatholic News – Lm. Vũ
Văn An, 17.6.2012. Một tầm nhìn đại
kết về vai trò của Đức Maria
trong kế hoặch Thiên Chúa và trong
hiệp thông các Thánh ).
Lý do khiến các nhà Cải Cách
bác bỏ việc cầu nguyện với Đức Mẹ là vì cho rằng đó là việc thái quá: “Các thái
quá này không kết thúc với các lạm dụng lớn lao của thế kỷ 16 nhưng luôn song
hành với
phong trào Thánh Mẫu cách này
hay cách khác. Những thái quá này khiến người ta có ý nghĩ rằng trong Đức Tin
Công Giáo vì các mục tiêu thực tiễn, Đức Maria được coi như một nữ thần thực
sự. Dù chưa bao giờ tuyên xưng cách thái quá như thế nhưng huấn quyền Công Giáo
cũng chưa bao giờ minh bạch chống lại chúng” ( Nguồn: Vietcatholic – Lm. Vũ Văn
An, tài liệu đã dẫn ).
Việc cầu nguyện của con người
nói chung đều được thúc đẩy bởi những nhu cầu thực tiễn. Cầu nguyện có thể mang
tính cá nhân như cầu cho hết bệnh, cầu được bình an, cầu cho ông bà cha mẹ tổ
tiên v.v… Hoặc mang tính tập thể như cầu cho quốc thái dân an, cầu cho hòa bình
thế giới v.v...
Tóm lại, cầu nguyện dù mang
tính cá nhân hay tập thể, tất cả cũng không ngoài mục đích để cho hết
khổ. Bệnh là khổ, cầu cho hết
bệnh là hết khổ. Giặc giã chiến tranh là khổ, cầu cho hòa bình là cầu cho hết
khổ vì nạn binh đao v.v…
Cầu cho hết khổ đó là nhu cầu
tự nhiên của con người; có khổ thì mới cầu cho hết khổ. Ngược lại, nếu không có
khổ thì cũng chẳng cần chi phải cầu ? Mặc dầu vậy có ai sống trên đời mà lại
không khổ, họa chăng chỉ có hai hạng; một là hạng trẻ con ăn chưa no lo chưa
tới, và hai là loại khùng điên vô trí. Bản chất của cầu nguyện là cầu để thoát
khổ. Tuy nhiên vấn đề ở chỗ là người ta có nhận thức được nỗi khổ của mình hay
không ?
Phân tích hai chữ “Đau” và
“Khổ” ta thấy nó thuộc hai lãnh vực khác nhau. Đau thuộc thể xác còn khổ thuộc
tinh thần. Đau về thể xác nhưng không khổ về tinh thần thì đó không phải đau
khổ. Ngược lại, khổ về tinh thần còn thân xác không đau nhưng vẫn là khổ. Có
biết bao người giàu có khỏe mạnh, vật chất đủ đầy nhưng vẫn cứ khổ: khổ vì tình
phụ, khổ vì con cái bạc đãi, khổ vì lo giữ của, không biết mình chết đi ai sẽ
hưởng gia tài này đây v.v… và v.v… ?
Về những nỗi khổ đau của con
người, truy nguyên ra ta thấy tất cả đều do tinh thần. Thân xác dù có đói ăn
rách mặc nhưng tinh thần
luôn bình an thư thái thì nào
đâu có khổ ? Chính do bởi tinh thần
là cái quyết định, thế nên có
câu chuyện kể về một thanh niên được Đức Mẹ chữa lành.
Vào khoảng năm 1100, bên Đức
có một gia đình sang trọng đạo đức sinh được con trai đặt tên là Herman. Herman
lọt lòng với một hình thù vừa xấu lại vừa tàn tật: thấp lùn, mồm méo, lưng
còng, ăn
nói ngập ngọng, lại thọt một
chân. Thân xác đã vậy còn tâm trí thì u mê tối tăm ngờ nghệch. Mãi đến năm 12
tuổi, cha mẹ thương hại đón một thầy Dòng về dạy ròng rã trong hai năm trời mà
cũng chỉ biết được vài lẽ Đạo cần thiết: Một Thiên Chúa Ba Ngôi dựng nên trời
đất, tội tổ tông truyền, Ngôi Hai xuống thế làm người trong lòng Trinh Nữ Maria
chịu chết trên Thánh Giá chuộc tội thiên hạ….Herman lên 16 tuổi mới đủ trí khôn
nhận thấy mình tàn tật và kém chúng bạn nên sinh buồn bã, than thân tủi phận.
Thầy Dòng thấy học trò mình buồn bã đêm ngày như thế bèn khuyên bảo cậu hãy
chạy đến van nài cùng Mẹ Maria. Herman vâng lời thầy, cầu xin Đức Mẹ trong ba
năm trời mà chẳng thấy kết quả gì. Mặc dầu vậy, cậu vẫn không ngã lòng và tiếp
tục cầu nguyện.
Một ngày kia Herman cảm thấy
mình sầu khổ hơn mọi khi liền đến trước bàn thờ Đức Mẹ van xin rằng: "Lạy
Mẹ là Nữ Vương trời đất, là Mẹ nhân ái, là sức sống, là nguồn vui, là hy vọng
của con.
Con là cháu con khốn nạn của
Evà ở chốn khách đày đau khổ, kêu van xin Mẹ ghé mặt thương xót. Đến giờ sau
hết xin cho con được về Trời xem thấy Chúa Giêsu, Con Mẹ…" Sau mấy lời kêu
van thống thiết, Herman thấy Đức Mẹ hiện ra sáng láng tốt đẹp và bảo:
"Herman con yêu của Mẹ, Mẹ đã nghe lời con cầu xin. Mẹ cho con chọn một
trong hai điều này: một là khỏi bệnh tật phần xác, hai là được trở nên thông
thái, con muốn điều nào tùy ý”.
Herman bấy lâu khổ cực vì
bệnh tật cũng như đau lòng vì trí khôn thấp kém. Cậu nghĩ ngợi một lúc rồi quả
quyết trả lời: "Con xin Mẹ trí thông minh." Điều Herman xin rất đẹp
lòng Mẹ, bởi vậy Mẹ cho Herman được trí thông minh, lại cho khỏi các bệnh tật
phần xác nữa. Từ đó Herman chăm chỉ học hành, nổi tiếng thông minh vượt hẳn
chúng bạn. Về sau, Herman trở nên một nhà tu hành thông thái, chép nhiều sách
đạo đức có giá trị. Để tạ ơn Đức Mẹ, thầy Herman đặt lại Kinh Lạy Nữ Vương mà
tín hữu chúng ta vẫn còn tụng đọc cho mãi tới ngày nay” ( Theo sách Tháng Đức
Bà – Nxb. Hiện Tại, 1969 ).
Chàng thanh niên không xin
cho khỏi tật bệnh phần xác nhưng xin trí thông minh. Điều đó rất đẹp lòng Mẹ
Maria bởi lẽ trí thông minh ấy không phải là loại thông minh thế gian, nhưng là
thông
minh siêu xuất thế gian: Đến
giờ sau hết được về Trời xem thấy Chúa Giêsu, Con Mẹ. Giả dụ như Herman chỉ xin
cho được khỏi tật nguyền thân xác thì chắc Đức Mẹ cũng nhận lời như đã hứa. Thế
nhưng điều đó hoàn toàn chẳng những chẳng ích lợi gì cho anh, trái lại, chỉ đem
đến thêm nhiều khổ đau khác nữa, và khổ đau này sẽ là vô tận một khi chấm dứt
cuộc sống thế trần này trong Hỏa Ngục đời đời.
Kinh Lạy Nữ Vương ( Salve
Regina ) tín hữu chúng ta vẫn còn đọc cho tới tận ngày nay chính là lời cầu
khẩn thống thiết của chàng thanh niên tật nguyền xưa kia. Điều kiện tiên quyết
của bất cứ lời
nguyện xin nào là phải có sự
kết hợp giữa lòng tin và sự kiên trì. Có tin thì mới cầu, đồng thời lòng tin ấy
phải được thể hiện bằng sự kiên trì. Ngược lại nếu không có sự kiên trì thì
lòng tin ấy không đủ mạnh.
Lý do lòng tin và sự kiên trì
phải đi đôi với nhau bởi vì lời cầu thoát khổ ở đây là thoát khỏi nỗi khổ bất
tận ở đời sau vô cùng.
Người ta viện cớ rằng chỉ có
một Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Kitô thế nên việc cầu khẩn với Mẹ Maria là
hoàn toàn vô ích. “Năm trước khi qua đời, Luther nói rằng: Cung cách trắng trợn
đang tràn đầy mọi sự liên quan tới việc thờ lạy các Thánh theo kiểu ngẫu thần…
và Đức Maria cũng đang được mọi người thờ lạy như đấng trung gian và cứu giúp
trong mọi tình huống khó khăn” ( Nguồn Vietcatholic – Lm. Vũ Văn An, 16.3.2010
– Thánh Mẫu Học của Martin Luther và các hệ luận của nó đối với một Thánh Mẫu
Học đại kết ).
Người Công Giáo không bao giờ
thờ lạy các Thánh hoặc Mẹ Maria, nhưng cũng đúng như Luther xác nhận: Chúng ta
xin các Thánh và Mẹ cứu giúp trong mọi tình huống khó khăn. Khẩn cầu xin Mẹ cứu
giúp trong mọi tình huống khó khăn là việc rất nên làm chứ sao lại không ? Tuy
nhiên việc khẩn cầu ấy hoàn toàn không phải là cầu với một thứ ngẫu thần nào
đó, nhưng là cầu với Đấng là Mẹ Thiên Chúa. Cầu nguyện với Mẹ Thiên Chúa là lời
cầu cổ xưa nhất do tín hữu thành Côrintô khởi xướng.
Vào khoảng thế kỷ thứ tư, bè
rối do Giám Mục Nestorio ( 380 – 440 ) khởi xướng, cho rằng chỉ nên gọi Đức Nữ
Trinh Maria là Mẹ Chúa Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa. Chủ trương này đã
bị Công Đồng Êphêsô ( 431 )
kết án và Thánh Cyrillo đưa ra 12 đề tài tuyên vạ tuyệt thông, đồng thời nêu rõ
mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể theo truyền thống của Học viện Alexandria.
Chính vào đêm 22 tháng 6 năm
đó, toàn thể Giáo Dân thành Ephêsô đã chào mừng Công Đồng bằng một cuộc rước
đèn vĩ đại tung hô Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng
tôi là kẻ có tội” ( Lm. Bùi Đức Sinh, O.P – Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo ). Lời
cầu của tín hữu thành Êphêsô này về sau đã được sử dụng trong Kinh Mân Côi là
Kinh được Đức Mẹ truyền dạy cho Thánh Đa Minh với mục đích là để cứu khổ cứu
nạn cho con người và nhất là để chống lại các lạc thuyết, lạc giáo.
Suy cho đến tận cùng về những
nỗi khổ đau bất tận của nhân loại thì không có chi khổ bằng ngu si không biết
đường. Khổ vì bệnh hoạn ốm đau, khổ vì đói nghèo, khổ vì áp bức bất công… chưa
thật sự là khổ mà duy chỉ có
sự ngu si mới là khổ. Tại sao vậy ? Bởi vì bệnh hoạn mà biết tìm phương chữa
trị sẽ khỏi. Đói nghèo mà biết cố gắng làm việc sẽ hết nghèo… Trái lại, với
người ngu thì dù cho có bệnh đó nhưng lại cho là khỏe. Nghèo đói đó lại cứ
tưởng mình giàu. Bị lạc đường đó nhưng lại cứ tưởng mình đang về tới đích. Một
khi đã lạc đường thì càng đi càng lạc, càng cố gắng bao nhiêu thì càng xa lạc
bấy nhiêu, và một khi đã lạc thì cái việc sa hầm sụp hố, chìm đắm giữa biển
khơi mịt mùng là điều không sao tránh khỏi !
Kinh Mân Côi ra đời trong
hoàn cảnh hết sức nhiễu nhương thời đó ( Thế kỷ 12 ). Các bè rối lạc giáo nổi
lên chống phá Giáo Hội cách dữ dằn. Tuy nhiên đó chỉ là cái mặt nổi của tảng
băng chìm
là Thuyết Duy Lý đã đột nhập
vào Âu Châu qua con đường của các triết gia Hồi Giáo là Averroes ( 1126 – 1198
). Gs. Siger Brabant ( 1235 – 1285 ) và Boecio xứ Dacia đã chủ trương nhiều vấn đề trái nghịch
với Giáo Lý Công Giáo về nguồn gốc thế giới, linh hồn và sự tự do” ( Lm. Bùi
Đức Sinh, tài liệu đã dẫn ).
Thuyết Duy Lý hoàn toàn trái
ngược với Đức Tin và đỉnh điểm của nó là cuộc Cách Mạng Pháp 1789 với việc tôn
thờ Lý Trí như một vị thần. Vương Cung Thánh Đường Notre Dame de Paris biến
thành đền thờ thần Lý Trí… Cũng bởi vì tính chất nguy hại của Thuyết Duy Lý mà
Giáo Hội đã lâm phải những cơn khủng hoảng vô cùng ghê gớm.
Trong Thông Điệp Supremi
Apostolatus ban hành ngày 1.9.1883, Đức Thánh Cha Lêô XIII viết: "Những
thử thách mà Giáo Hội hàng ngày phải đương đầu: Lòng đạo đức Kitô Hữu, nền luân
lý chung sa sút. Không những thế ngay cả chính Đức Tin, sự Thiện tối cao và đầu
mối của mọi nhân đức hàng ngày bị đe dọa tàn lụi đi một cách thảm khốc nhất” (
Cao Tấn Tĩnh – Bí Mật Kinh Mân Côi ).
Trong hoàn cảnh Giáo Hội bị
thử thách như thế, Đức Mẹ rất nhiều lần đã hiện ra để củng cố Đức Tin cho con
cái. Năm 1858 với Bernadette, năm 1917 với ba em Luxia, Giaxinta và Phanxicô.
Trước sau tất cả những lần hiện ra ấy Đức Mẹ chỉ gặp gỡ và trao truyền Sứ Điệp
cho những trẻ em và phụ nữ, những con người chưa tiêm nhiễm thứ duy lý độc hại.
Chẳng những Mẹ hiện ra để
khuyên nhủ bảo ban chỉ dạy con đường lành cần theo để được cứu rỗi mà còn khóc,
thở than với chính con cái của mình: “Với chị Julia Kim ( Naju – Nam Hàn ),
Thánh tượng Mẹ khóc tổng cộng 700 ngày. Chị kể lại: Đức Mẹ khóc và nói với
giọng thật buồn như than thở: "Con ơi, thật chua xót khi nhìn vào tình
trạng bi thảm gây nên bởi nhiều con cái yêu dấu của Mẹ, những con người vì mù
quáng giả điếc để đồng lõa với Con Rồng Đỏ, kẻ thù của chúng ta. Thế giới đã
nên như bãi sa mạc, những tai họa lớn lao đang xảy ra đó đây chính là những lời
cảnh cáo. Mẹ buồn phiền lo lắng khi phải nhìn cảnh nhân loại chịu đau khổ gây
nên bởi những cảnh cáo này. Do đó hỡi con, khi Mẹ phải năn nỉ van xin các con
mục đích là giữ cho các con khỏi rơi vào cạm bẫy của ma quỷ” ( Nguồn Linh Hồn –
Xin cứu các linh hồn ).
Ôi ! Có lòng mẹ nào yêu
thương con cái đến nỗi đã phải khóc chảy cả máu mắt để ngăn cho chúng khỏi phải
sa vào chốn khốn nạn Hỏa Ngục đời đời như Mẹ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp ?
PHÙNG VĂN HÓA
EPHATA 574
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét