Trang

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2015

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 5 MC B



VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 5 MC B
Tin Mừng thánh Gioan 12,20-33



20 Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp.21 Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su."22 Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su.23 Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy."


27 "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa! "29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm! " Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy! "30 Đức Giê-su đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi."33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

20  Now there were some Greeks among those who had come up to worship at the feast.

21  They came to Philip, who was from Bethsaida in Galilee, and asked him, "Sir, we would like to see Jesus."

22 Philip went and told Andrew; then Andrew and Philip went and told Jesus.

23  Jesus answered them, "The hour has come for the Son of Man to be glorified.

24  Amen, amen, I say to you, unless a grain of wheat falls to the ground and dies, it remains just a grain of wheat; but if it dies, it produces much fruit.

25 Whoever loves his life  loses it, and whoever hates his life in this world will preserve it for eternal life.

26 Whoever serves me must follow me, and where I am, there also will my servant be. The Father will honor whoever serves me.

27 "I am troubled now. Yet what should I say? 'Father, save me from this hour'? But it was for this purpose that I came to this hour.

28 Father, glorify your name." Then a voice came from heaven, "I have glorified it and will glorify it again."

29 The crowd there heard it and said it was thunder; but others said, "An angel has spoken to him."

30 Jesus answered and said, "This voice did not come for my sake but for yours.

31 Now is the time of judgment on this world; now the ruler of this world will be driven out.

32 And when I am lifted up from the earth, I will draw everyone to myself."

33 He said this indicating the kind of death he would die.

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 12,24
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .



II. TRẮC NGHIỆM

01. Ông Philípphê là người thuộc miền nào? (Ga 12,20)
a.       Miền Galilê.
b.      Miền Giuđê.
c.       Miền Samaria.
d.      Miền Thập tỉnh.

02. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ làm gì? (Ga 12,26)
a.       Quý trọng người ấy.
b.      Ban hạnh phúc Nước Trời cho người ấy.
c.       Gìn giữ họ khỏi tay ma quỷ.
d.      Yêu thương họ.

03. Hạt giống nào gieo vào lòng đất mà không chết đi thì thế nào? (Ga 12,24)
a.       Sinh nhiều hoa trái.
b.      Mục nát.
c.       Bơ vơ.
d.      Vẫn trơ trọi một mình.

04. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được điều gì? (Ga 12, 25)
a.       Sự sống đời đời.
b.      Tình yêu của Thiên Chúa.
c.       Hạnh phúc vĩnh cửu.
d.      Gia nghiệp Nước Trời.

05. Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ điều gì? (Ga 12,33)
a.       Ngài phải chết cách nào.
b.      Con rắn đồng trong sa mạc.
c.       Cái chết của ông Phêrô.
d.      Cái chết của những người kitô hữu.



III. Ô CHỮ


Những gợi ý


01. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ làm gì? (Ga 12,26)

02. Khi dân chúng nghe có tiếng từ trời vọng xuống, họ bảo đó là tiếng của ai nói với Đức Giêsu? (Ga 12,29)

03. Ông Philípphê là người thuộc miền nào? (Ga 12,20)

04. Những người Hy lạp gặp ai xin muốn gặp Đức Giêsu? (Ga 12, 21)

05. Những người Hy lạp lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa muốn gặp ai? (Ga 12,21)

06. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được sự sống như thế nào? (Ga 12, 25)

07. Hạt gì được gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác? (Ga 12,24)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?



IV. CÂU THÁNH KINH  HỌC THUỘC LÒNG
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.
Tin Mừng thánh Gioan 12,25





Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT V MC B

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề :
Gieo Vào Lòng Đất

* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 12,24
 Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.

II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM

01. a.          Miền Galilê (Ga 12,20)
02. a.          Quý trọng người ấy (Ga 12,26)
03. d.          Vẫn trơ trọi một mình (Ga 12,24)
04. a.          Sự sống đời đời (Ga 12, 25)
05. a.          Ngài phải chết cách nào (Ga 12,33)

III. Lời giải đáp Ô CHỮ

01. Quý trọng (Ga 12,26)
02. Thiên thần (Ga 12,29)
03. Galilê (Ga 12,20)
04. Ông Philípphê (Ga 12, 21)
05. Đức Giêsu (Ga 12,21)
06. Đời đời (Ga 12, 25)
07. Hạt lúa (Ga 12,24)

Hàng dọc : Thập Giá


GB. NGUYỄN THÁI HÙNG


Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 5 Mùa Chay - Năm B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Hạt giống nảy mầm
Vào một đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa chay sắp kết thúc, những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại trong vinh quang với Ngài.

Giờ Chúa đến
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.

Hạt lúa mục nát
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?

Hạt lúa trơ trọi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen. 

Tôi sẽ lôi kéo mọi người
Yvon Daigneaut
Mở đầu.
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh thập giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá. Vì không có thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Biến cố thập giá.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Thập giá là nguồn mạch sự sống.
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại và với tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn vâng phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực hiện được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình yêu Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh nặng ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
Trái lại, nếu Ai Đó có thể giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa, vì Ngài và vì chúng ta hết thảy, bằng việc đón nhận trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, dù là trong một biến cố đầy thử thách như biến cố thập giá, lúc đó ta sẽ tìm lại được tình thân hữu với Thiên Chúa. Lòng chúng ta sẽ có khả năng thương yêu và giao hòa, có khả năng vui vẻ đón nhận ơn sự sống. Sự sống sẽ tuôn trào từ thập giá cách tràn trề đến nỗi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Nhờ chấp nhận thập giá của loài người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống mà Chúa Cha đổ tràn trên Ngài trong cuộc Phục Sinh: thông ban Thánh Thần; ân sủng; sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa; qui tụ loài người thành một cộng đoàn mới; hoàn tất việc tạo dựng trong công chính, bình an và tự do.
Kết luận.
Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ lôi cuốn hết thảy mọi người!”. Ảnh hưởng của thập giá luôn luôn lan rộng. Không nỗi đau khổ nào của loài người được tách rời ra khỏi thập giá, không niềm hy vọng nào nảy sinh trong lòng lại bị chối bỏ. Thập giá của Chúa Giêsu làm cho thế giới này được sống. Như từ một nguồn suối, sự sống đang tuôn trào từ thập giá, đang thấm nhuần và biến đổi thế giới này.

Chúng ta đang sống ở giờ nào?
Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến “giờ” của Người. Giờ của Người đây, tức là lúc Người đạt tới đỉnh sự mệnh Cứu thế của Người, nghĩa là cuộc Khổ nạn và sự Sống lại của Người. Không nên tách rời hai việc đó. Cái chết là sự vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, như sự Phục Sinh đem lại cho nó một ý nghĩa bằng cách đề cao và tăng thêm sự sống. Giờ của Chúa Giêsu vừa là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là ngày Chúa Nhật Phục Sinh và giờ đó, ngày nay vẫn tiếp trong mỗi người Kitô hữu là một kẻ cũng bị đóng đinh và Phục Sinh. Ở đây, Chúa Giêsu dùng dịp mấy người ngoại giáo đến gặp Người để nói về Giờ của Người. Những người ngoại giáo này là những người “Hy lạp” có cảm tình với đạo Do Thái. Họ đến Giêrusalem để hành hương, mặc dầu họ chưa thuộc về dân của Abraham. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nói đến Giờ của Người, tức là sự Cứu chuộc, cũng dành cho người này. Tại sao vậy? Người nói đến sự Cứu chuộc bằng cách đem so sánh với hạt lúa gieo xuống đất chết đi trổ lên thành bông khác. Hạt giống chết đi, chính là Người, Đức Giêsu. Những hạt lúa được tăng gấp lên trong bông lúa là tất cả các dân tộc, hết thảy mọi người, tất cả những người “ngoại giáo” sẽ trở thành tín hữu.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nêu lên ba đề tài suy tư:
1) Hết thảy mọi Kitô hữu được kêu gọi sống “Giờ của Chúa Giêsu”. Chúng ta phải lưu ý điểm này là trong Phúc Âm của thánh Gioan, hai tiếng Vinh quang, và Chết rất gần nhau, hầu như nhập làm một. Điều này gợi lên cho chúng ta hai ý: thứ nhất, người Kitô hữu không được miễn trừ việc khai tử nơi mình, những gì chống lại sự sống thật. Phép rửa tội đã dấn thân họ trong một mầu nhiệm của sự chết. Họ không hơn Thày họ. Họ phải chết về thể xác, song họ cũng phải qua một cái chết tinh thần nào đó. Cái chết tinh thần được mệnh danh là sự từ bỏ chính mình. Thứ hai, họ có được phép vì thế, mà phải tỏ ra vẻ khắc khổ và buồn sầu không? Trái lại là khác, họ cũng đồng thời phải sống mầu nhiệm Phục Sinh-Vinh quang và hoan lạc. Sự từ bỏ của người Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp nhất với cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, trong việc bắt chước Chúa Giêsu. Đức Giêsu Kitô đã liên kết trong “Giờ” của Người cái thực tại bất khả phân của sự đau khổ và sự tôn vinh của Người. Người Kitô hữu, người của sự từ bỏ cũng vậy, họ cùng lúc phải là người của sự hoan lạc tinh thần. Phải chăng “Giờ” của Chúa Giêsu là đánh dấu mỗi giờ trong cuộc đời chúng ta?
2) Mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo xuống đất. Điều này làm nên phần riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay không, mỗi người Kitô hữu do sự kết hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham gia vào việc cứu rỗi hết mọi người anh em mình. Nếu họ không thể hành động được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán dương mà của lễ thầm kín của sự cầu nguyện, đau khổ và cái chết của người đó kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu họ có sứ mệnh hoạt động thì họ phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình tùy thuộc trước hết và trên hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
3) Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống mình thì mất nó, còn ai ghét sự sống mình đời này thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!” Điều quan trọng là phải hiểu Đức Kitô muốn nói gì. Đây không phải là chuyện tương phản giữa yêu và ghét. Chúa Giêsu nói bằng ngôn ngữ đó, sự tương phản nhiều khi chỉ là 1 cách so sánh. Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống đời này hơn số phận vĩnh cửu của mình sẽ mất hết.
Vậy để được sống đời đời, phải biết từ bỏ ít nhiều thỏa mãn thế tục. Như vậy người ta gặp lại ở đây đề tài: phải biết chết cho mình, để đạt tới đời sống đích thật. Người Kitô hữu theo Chúa Giêsu trong sự đau khổ và trong cái chết của Người, nghĩa là trong lễ tế của Người, và cũng theo sát Người trong cuộc Phục Sinh và Vinh quang Người, trong lúc chờ đợi thực hiện cho mình lời hứa của Thày Chí Thánh: Ta ở đâu, môn đệ Ta cũng sẽ ở đấy (Gio 14,3).

Quy luật sự sống
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.

Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.

Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt
Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho "được gặp ông Giêsu".
Chúa Giêsu trả lời họ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới "được gặp Đức Giêsu", được lãnh ơn cứu độ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán... Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy". Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.

Hạt lúa
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn tả:
- Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình. 

Chết đi
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà thôi. 

Chết để sống
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”. 

Hy sinh
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng như cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh vừa sống sộng lại vừa gần gũi để nói lên sự thật trên.
Ngài nói:
- Một hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái, bằng không thì nó chỉ trơ trụi một mình, làm mồi cho chuột bọ mà thôi. Chính sự mục nát ấy đã làm phát sinh ra sự sống mới.
Trong lãnh vực con người cũng thế. Để chúng ta được khôn lớn cho tới ngày hôm nay, thì cha mẹ chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu gian khổ. Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta từng giờ, từng phút. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng ca tụng:
- Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng đã cảm nhận được kinh nghiệm ấy. Chẳng hạn như ngày hôm nay, các em nhỏ phải cắp sách tới trường. Việc học hành đòi hỏi các em phải siêng năng, phải chăm chỉ, phải cố gắng. Tất cả những kiến thức các em vất vả thu lượm được, sẽ là như một số vốn để các em đầu tư cuộc đời của mình và mai ngày sẽ đem lại cho các em những thành công rực rỡ.
Từ những thí dụ cụ thể trên chúng ta đi vào cuộc sống của Chúa Giêsu, và thấy được những gì?
Nếu đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu bỏ trời xuống đất, mặc lấy thân phận con người, đã sống một cuộc đời nghèo túng và nhất là đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu nhằm tới những gì qua những hy sinh gian khổ ấy?
Tôi xin thưa, với những hy sinh gian khổ ấy Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài thật bao la. Khi suy gẫm về mầu nhiệm thập giá, thánh Phaolô đã phải kêu lên:
- Chúa đã yêu thương tôi, và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Chúng ta thường ca tụng những người dám hy sinh mạng sống mình vì kẻ khác.
Chẳng hạn cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho một bạn tù được sống. Cha Đamiêng đã hy sinh đến sống với những người phong cùi ở Molokai. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài đến sống với chúng ta và chết vì chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã chấp nhận những hy sinh gian khổ ấy là để cho chúng ta được sống và được sống vĩnh cửu. Trong Phúc Am có lần Ngài đã phán:
- Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Trong bữa tiệc ly Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Này là Mình Ta sẽ nộp vì các con. Này là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Với cái chết ô nhục trên thập giá, Ngài giao hòa chúng ta với Thiên Chúa, tẩy xóa mọi dấu vết của tội lỗi, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Thiên Chúa, cũng như quyền được thừa hưởng phần gia nghiệp nước trời.
Chính vì thế, chúng ta hãy suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta phải làm gì để đáp trả tình yêu thương bao la ấy. 

Từ bỏ
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách một người con của Chúa. 

Đức Giêsu loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không?
3. Lời Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, mà theo kiểu hình «sin» hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: «Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!» Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác». Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời».
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của những chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời». Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muốn trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, bèn dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: «Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương» (Tv 126,6). «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời», tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: «Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng» (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cũng nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.

ÁNH SÁNG CỦA THẬP GIÁ
Chú giải của Lm. Vũ Phan Long.
Đã đến “giờ”. “Giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến nhận định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người và của các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát là “muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con Người được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án “thế gian” này với thủ lãnh của nó.
- tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này (x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của Ngôi Lời để làm cho nhân tính này sống lại và lên trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26): Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn” (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chúng không thể “nghe” được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần. Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi “tôn vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã biến truyền thống về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31): Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống “thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian” không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32): Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ tể của Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đức Chúa được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người này đã đến với Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lời rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người (c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga 20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các môn đệ (“đã đến giờ”, 23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người được “tôn vinh” (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ” của Người đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải qua thử thách nào và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết của Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì cả nếu trước đó không có một cái chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông. Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống mà người ta phải “ghét” và chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách riêng. Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha”. Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu là “những gì sẽ xảy ra vào lúc ấy”)[1], giờ mà Người hết sức mong mỏi và cuối cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm Nhập Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống trần thế với tất cả chiều sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để sống trọn cuộc sống này cho tới chết, không phải cho bản thân Người mà là cho những người khác. Khi Đức Giêsu chấp nhận “giờ” này, Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới cuối cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng trước cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mc 14,32-42). Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng không vì thế mà Người đi đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính Người cũng sợ hãi tránh né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết của mình. Vì Người có sự nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha cất cho Người bước đường này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng mình, Người muốn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (c. 28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của định mệnh của Người, như Thiên Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều này làm mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho thấy rõ những gì nằm ở trong tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã nghiêng quá mức thế nào về phía con người, nên mới ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên hiển nhiên, cho dù Người biết rằng điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là chiến thắng vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và không còn có một vị trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia lìa con người khỏi Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân loại. Được giương cao trên thập giá như là biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng của Người. Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những người muốn gặp Người.
+ Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện. Sứ mạng này tiêu biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống của Người hướng về đó. Khi đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy ra giữa loài người một cuộc “tách biệt” (krima) do người ta tin hay không tin vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chọn lựa này đảm bảo cho một số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt và cái chết đến cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng có nhiệm vụ làm trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế, chính chúng ta đã phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta cũng ghi nhận những tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại cần có Anrê để có thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu...
2. Những người Hy Lạp đây đại diện cho tất cả những người ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới thiệu với Người về họ.
3. Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của chúng ta. Chỉ những ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo Người hôm nay, sau này chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh sáng cho mọi người (1,9). Khi Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi Người sẽ phát ra ánh sáng chói chang huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính chân thật nhất: Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong việc hiến mình không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ bị thua trong quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc sống chúng ta như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích cho người khác, cũng phải chấp nhận thân phận “hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi”. Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước tiên, người Kitô hữu không thể tránh giết chết trong mình những gì chống lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ chính mình); đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan (= niềm vui thiêng liêng).
----------------------------------------------
[1] Phép métonymie: gọi một điều bằng một từ khác.

Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU (12,20-36)
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương 11. Giờ tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện thực. Trong 11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới việc mở rộng sứ vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái sinh sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo mới theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12 lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê (người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện ở phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp. Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật, Thầy bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như trong Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương quan với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
*****
GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của Chúa Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con chưa đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó (7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những người ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến (12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.
*****
Tâm trạng xao xuyến, tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất phải có sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có. Trong khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì quá chú ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố và phân tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ ngữ và những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người nói về Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể so sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong Gioan (trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và biến hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn của Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu (nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi “một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất của Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng thực của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là cách phê chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn một phần nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một thử thách đầy vinh quang.

Chú giải của Noel Quesson
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” .
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. "Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết . Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!". Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người "Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin "gặp" Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người "Hy Lạp" này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! "nó mang lại nhiều hoa trái"; "Nó lôi cuốn mọi người". Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh".
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: "Này đây, giờ đã đến" (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ "ưu việt" đó chính là giờ thập giá: Giờ "tôn vinh" Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ "xét xử và cứu độ" thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp" đến xin "gặp" Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: "Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh"; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: "Và đây xuất hiện thập giá". Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, "hình tướng" về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ "chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài .
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.

Chú giải của Fiches Dominicales
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP…
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề "những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề "Giờ của Chúa" (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, "có mấy người Hy lạp" muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm "gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ "lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được.
"Ông Philipphê đi nói với ông Anrê" cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh em" cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau "trơ trọi một mình" và "sinh được nhiều hạt". Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
X. Léon-Dufour quảng giải thêm: "Cuộc sống có thể được coi như là "của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự "chết" ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời". Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy" (Lecture de l'evangile selon Jean", quyển II, Seuil, trang 464).
3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời "Thầy xao xuyến" cũng như lời nguyện cùng Cha "Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này" được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: "Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược "kinh Lạy Cha" vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha" (O.C. trang 169) .
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây ngài nhắc đến "có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng "đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: "Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy" (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: "Giờ Con chưa đến", thế mà Người cũng "đã tỏ vinh quang" Người cho các môn đệ. Giờ đây, "Giờ đã đến" lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. "Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ "đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ "kéo mọi người lên theo với Người" và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
X. Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn "gặp" Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống". Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) "Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản"
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
"Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những "người đề nghị" đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5, 16).
2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như "bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người.
- Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và từ thiện nữa.
3) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm.
Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).

Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này": Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt 6,24; Lc 16,13; 14,26).
"Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa": Chữ “tôn vinh" thứ nhất ở đây quy về các "dấu chỉ" Chúa Giêsu đã thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ "tôn vinh" thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm": Khó mà hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó ("tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi"). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng nói trên.
"Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này": Giờ của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ chối Chúa Giêsu vào "giờ” này thì bị liệt vào phe của "đầu mục thế gian", đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
"Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài": Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước hiệu "đầu mục thế gian này". Các giáo sĩ cũng gọi nó là "sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự "thế gian" (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. "Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất": Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ "nâng đầu lên": đầu của viên chánh chước tửu sẽ "được nâng lên cao" và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng "được nâng lên cao" nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan "được nhắc cao" và "được tôn dương". Có lẽ đây là nguồn gốc chữ "được tôn vinh" và “được giương cao" trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ" của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, "giờ" này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc "phán xét" (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến "giờ" của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.
2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp" này là những kẻ có cảm tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả "lương dân" sẽ trở thành tín hữu.
3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ "vinh quang" và "sự chết" rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.
4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: "Không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi".

Muốn Ðược Phải Ðành Mất
Ga 12,20-33
An Phong, OP
Tin mừng hôm nay đưa chúng ta vào bối cảnh tuần lễ cuối cùng sứ vụ công khai của Ðức Giêsu. Ðức Giêsu đang tiến đến "giờ" của Người, giờ thực hiện mầu nhiệm Vượt Qua để giải thoát nhân loại. Ðức Giêsu dùng một hình ảnh rất thực tế để diễn tả sứ mệnh của mình: "Hạt lúa mì rơi xuống đất, có thối đi mới sinh cây kết trái". Với hình ảnh đó, Người cũng muốn đưa ra một "định luật" cho cuộc sống.
Xem ra sứ điệp Kitô giáo có nhiều nghịch lý: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất" (Mt 16,25a); "Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa" (Mt 5,39); "Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5,44), v.v… và cái nghịch lý đối với lẽ thường đó lại trở thành một qui luật tất yếu củ Kitô giáo, qui luật "đành mất để nhận được". Có người thấy Kitô giáo có nhiều đòi hỏi khó khăn như: hy sinh, hãm mình, khổ chế, chịu khó… và họ tưởng Kitô giáo là một chủ trương bi quan, yếm thế, nhát đảm. Nhưng không phải thế, Kitô giáo khởi đi từ sự kiện Ðức Giêsu đã chết và đã phục sinh, để tìm ra một quy luật: "Sự sống phát xuất từ cái chết". Thập giá không phải là tận điểm. Giống như hạt lúa mì rơi xuống đất, thối đi, nẩy mầm, thành cây, rồi đâm bông kết trái; thì thập giá đau khổ cũng dẫn đến phục sinh vinh quang.
Trong Ðức Giêsu, người kitô hữu sống "sự sống phát xuất từ cái chết"; họ sống theo qui luật nghịch lý của đời sống Kitô giáo; họ can đảm vác thập giá của mình mà bước theo Ðức Kitô; nghĩa là họ đang chuyển tải vào trong cuộc sống mình chính mầu nhiệm cứu độ của Ðức Kitô.
Hơn thế nữa, người kitô hữu khám phá ra rằng: qui luật nghịch lý này cũng là qui luật tất yếu của tình yêu và tự do đích thực. Ðức Giêsu đã chấp nhận cái chết vì vâng phục Chúa Cha và yêu thương con người. Cũng thế, người kitô hữu tìm thấy trong sự nghịch lý ấy điều hết sức "hợp tình hợp lý": tìm thấy giá trị tích cực trong sự hy sinh; tìm thấy cái "được" trong cái "mất"; tìm thấy tình yêu trong sự cho đi; tìm thấy tự do trong sự vâng phục Thiên Chúa; giống như một sinh viên, muốn đạt được bằng cấp thì cần phải hy sinh, học tập vậy.
Như thế, mùa Chay chỉ là con đường đưa đến niềm vui phục sinh và màu tím mùa chay mới thật sự là màu trông đợi trong hân hoan.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con còn sợ khó,
 
cũng như Chúa đã từng xao xuyến trước cái chết.
Nhưng với hết lòng tin tưởng, 
chúng con nguyện bước theo chân Chúa đến cùng.
Xin Chúa ban thêm sức mạnh 
và thêm tình yêu cho chúng con.

NẾU HẠT GIỐNG CHẾT ÐI
Ga 12,20-33
Như Hạ, OP
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Ðó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau khổ ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người. Thân phận con người cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Ðau khổ và sự chết của Ðức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, "muốn gặp Ðức Giêsu"(Ga 12:21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. "Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Ðức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết"(Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Ðức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Ðúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Ðó là lý do tại sao Ðức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12:26). Thầy leo lên khổ giá, môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12:32). Nghĩa là "Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người" (Thánh Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: "Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời" (Ga 12:25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó ? Hi sinh như thế có thực tế không ? Theo Thầy làm gì cho khổ ? Phục vụ Thày có được lợi gì đâu ?
Nhưng Ðức Giêsu nói: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy" (Ga 12:26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức là bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Ðó là điều quả quyết: "Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy" (Ga 12:26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha ? Ðó là nguồn suối duy nhất phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Ðức Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi "giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài !" (Ga 12:31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Ðức Giêsu cũng vẫn là con người. Ðứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống cuống. "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ?" (Ga 12:27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một tiếng nổ long trời (Ga 12:29). "Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: 'Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !' (Ga 12:28). Ðó là tiếng Chúa Cha trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Ðức Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người" (Dt 5: 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu tan. "Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này" (Ga 12:31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác thần. Thật là khủng khiếp !
Ðối với những ai vâng phục như Ðức Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31:31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: "Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31:33). Như thế một tương quan mới đã được thiết lập. "Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của Ðức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan mới" (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Ðức Giêsu quả thật như "bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương" (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Ðức Giêsu đã trỗi dậy, "đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới" (Disciples in Mission 1999:23). Ðó là một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Ðức Giêsu là một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12:24) là cộng đoàn các Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga 15:5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Ðức Giêsu chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ côi.Không có những gương hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng "cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với Thiên Chúa" (xc. Gr 29:11; 32:38-40) (Life Application Study Bible 1991:1345). Họ đang học vâng lời như Ðức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo hay trưởng thành như Ðức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền tảng trên Ðức Kitô (Dt 8:6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải "từ bỏ luật lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm" (Life Application Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Ðấng giải thoát con người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh.
Rời xa trung tâm đó, con người chìm vào những tham vọng ngông cuồng. Dominic Kataribabo, người lãnh đạo giáo phái Tái lập Mười Ðiều Răn bên Uganda, đã "dùng những thủ đoạn thô bạo tống tiền và đòi hỏi tuyệt đối vâng lời những người lãnh đạo của giáo phái" (VietCatholic 28/3/2000). Cuối cùng ông dồn hằng trăm người vào chỗ chết bằng cuộc sát hại tập thể. Ðau khổ như thế có dẫn tới vinh quang không ? Hạt giống đã chết đi, nhưng hoa trái nào đã sinh ra ?

Thụ Khổ Để Cứu Khổ
Ga 12, 20-33
Fr. Jude Siciliano, OP
Thưa quí vị.
Ðáng lý, khi khách khứa đến thăm thì chúng ta phấn khởi, vui mừng. Nhưng trường hợp của Chúa Giêsu lại khác. Mấy người Hy-lạp muốn gặp Chúa Giêsu, qua trung gian của Philipphê và Anrê, thì lại là cơ hội để Ngài bộc bạch tâm hồn buồn thảm của Ngài. Ngài nói rất nhiều đến cái chết tại Giêrusalem và lợi ích của nó. Hình như số phận Ngài được Thiên Chúa định sẵn: Sinh ra để chết cho thế gian được sống: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." Triết lý này cũng phải là bài học nằm lòng của các môn đệ Chúa Giêsu qua mọi thời đại. Buồn đấy, nhưng hồng phúc thì vô kể.
Thực ra, xét về hình thức, yêu cầu của các người Hy-lạp: "Chúng tôi muốn gặp ông Giêsu." Và nội dung câu trả lời của Ngài chẳng ăn nhằm gì với nhau. Ông xin gà, bà cho vịt. Nhưng nhìn kỹ chúng chặt chẽ liên kết với nhau: Gặp gỡ Ðức Giêsu là phải học chết cho chính mình. Chẳng còn con đường nào khác. Ai từ chối chết là chưa thực sự gặp Ðức Kitô! Cho nên bài huấn từ Ngài ban cho mấy người Hy-lạp muốn gặp Ngài chí phải, thâm trầm và đúng lúc. Hội thánh muốn các tín hữu đọc đoạn Tin mừng này trong mùa thương khó là cũng một ý ấy. Chúa Giêsu không chạy trốn, nhưng cương quyết đối diện với đau khổ và sự chết của mình. Ðây là giây phút vinh quang của Thiên Chúa, bởi lẽ chỉ qua cái chết Thiên Chúa mới được hiển vinh trong biến cố Phục sinh. Ngày nay nếu chúng ta tiếp tục nhìn mọi sự theo chiều hướng này thì chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm được cánh tay Thiên Chúa cứu chữa nhân loại, cứu chữa mỗi cá nhân trong cộng đồng giáo xứ, đúng như Ngài đã cứu chữa Ðức Kitô khỏi thần chết thuở xưa.
Ðiều cần lưu ý là người Hy-lạp muốn gặp Chúa Giêsu. Văn hoá Hy-lạp chẳng mấy khi nói đến liều chết và hy sinh cho kẻ khác. Triết lý của họ đa phần theo phái khắc kỷ, tìm hạnh phúc tuyệt đỉnh bằng tập luyện và bỏ qua những nhu cầu cấp thấp. Tóm lại là ích kỷ. Còn Phúc âm nhất lãm nhắc đi nhắc lại ý tưởng của Chúa Giêsu: Hy sinh hằng ngày và chết dần mòn vì bác ái, Chúa Giêsu cũng nhắc cho mấy người Hy-lạp chuyện đó hôm nay. Ðối với họ thật mới lạ, không nằm trong truyền thống của mình. Nhưng ví dụ hạt lúa thối đi để mang nhiều hoa trái rất cụ thể, dễ hiểu trong trường hợp này. Họ phải vất bỏ lối suy nghĩ "hợp lý" kiểu thế gian của các triết gia Hy-lạp mà tin tưởng vào Lời Ngài, cho dù Lời đó xem ra có mâu thuẫn với thực tế.
Hẳn các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các nhà tư vấn hiểu quá rõ về sự cần thiết phải hy sinh bản thân để cho thế hệ tương lai phát triển. Bằng không, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Những người Hoa Kỳ chính gốc hãy nhìn vào các di dân mới đến tức khắc hiểu ra điều đó. Họ hy sinh chính bản thân, làm việc lâu giờ, không ngại khó khăn vất vả, tiền lương thấp để cho con cháu có cơ hội thăng tiến. Nhờ những hy sinh đó, thế hệ thứ hai của các di dân đã thực sự đạt được kết quả mỹ mãn. Cho nên, những cha mẹ tốt, như những hạt lúa, phải chết hằng ngày, rơi xuống đất thối đi mới có thể mang nhiều hoa trái cho con cháu, máu mủ của mình. Ðó là biện chứng tự nhiên. Nhưng chẳng tự nhiên chút nào khi Chúa Kitô kêu gọi như vậy, không phải cho máu mủ mình mà thôi, mà còn cho bất cứ những ai cần đến sự hy sinh của chúng ta: cho ngoại kiều, khách lạ, khác màu da, chủng tộc, kẻ thù địch, sì ke, ma tuý, đĩ điếm, người nghèo khổ, phạm pháp. Trước mắt thế gian, những công việc như thế quả là của một người điên khùng. Dốc toàn lực hy sinh mà không đòi đáp trả. Nhưng đối với môn đệ Chúa Giêsu lại là điều bắt buộc, nếu như muốn theo Ngài.
Và chẳng điên khùng chút nào khi dõi theo giao ước mà Thiên Chúa ký kết với nhân loại trong bài đọc 1 hôm nay. Giao ước mới tiên tri Giêrêmia táo bạo hứa hẹn sẽ được viết bằng xương thịt: "Ðây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó, sấm ngôn của Ðức Chúa, Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta." Chính Chúa Giêsu là giao ước này, trong Ngài mọi người sẽ được kết hợp với Thiên Chúa bởi đường lối yêu thương của Ngài. Do đó, máu mủ kiểu thế gian không còn mấy ý nghĩa, mọi người đều là ruột thịt với nhau trong tinh thần loại mới, để thực hiện giao ước yêu thương của Ðức Kitô: "Khi nào được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng Tôi." Giao ước này là vĩnh viễn. Nó cứu nhân loại khỏi tội lỗi và bảo đảm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Qua cái chết, Chúa Giêsu đã trông thấy chiến thắng vinh quang . Mọi người sẽ được ban cho đời sống mới, đời sống thứ tha và trở nên con cái Thiên Chúa. Mùa Chay đúng là mùa thích hợp để chúng ta suy nghĩ về điều này.
Nếu dùng văn chương Nhất Lãm, chúng ta sẽ có thành ngữ: "Ghét sự sống mình ở đời này, để được sự sống vĩnh cửu đời sau." Cùng một tư tưởng trong hai đường lối diễn tả khác nhau. Nếu chúng ta muốn sống cuộc đời tôi tớ như Ðức Giêsu, nhất định chúng ta phải tự nguyện chết đi trong nhiều phương cách khác nhau: Ví dụ, chết cho ý riêng mình, chết cho tiền tài chức quyền, chết cho tham vọng cá nhân, chết cho những dự định bất chính, tính toán ích kỷ v.v… Có trăm ngàn cái chết hằng ngày chúng ta phải suy gẫm để có thể trung thành với đường lối Chúa Giêsu.
Bằng những đau khổ cùng cực trên thánh giá Ngài nói với nhân loại phải trung thành với Thiên Chúa như thế nào? Ðồng thời, tình yêu của Thiên Chúa đối với họ ra sao? Từ chối khổ đau chúng ta không thể là môn đồ của Ngài, bởi tôi tớ chẳng thể hơn Thầy, được bằng Thầy thì đã khá lắm rồi. Cho nên phải theo Ngài trong gian truân, thử thách. Tự nó đau khổ không có giá trị, chẳng vậy Ngài chữa lành bệnh tật, nuôi kẻ đói khát để làm gì? Nhưng đau khổ là điều không thể tránh khỏi trên con đường theo Chúa. Chúng giúp chúng ta nên một với Ngài. Vậy thì theo Ngài là sẵn sàng chấp nhận khổ đau, hy sinh. Trong một thế giới đầy tội lỗi và bạo lực, chúng ta không thể làm khác đi được: Thụ khổ để cứu khổ. Xuống nước để cứu người chết đuối. An toàn trên cạn làm sao cứu nổi ai ? Không thụ khổ làm sao cứu khổ ? Sống sung sướng mà cứu được thiên hạ là điều vô lý. Vậy thì cây thánh giá trên cuộc đời mỗi người theo Chúa nói lên sự phục sinh vinh hiển của người đó, dù còn sống hay đã qua đời. Giống như trong vườn Cây Dầu của Nhất lãm, Chúa Giêsu đã suy tư nhiều về điều này. Người la to: "Bây giờ tâm hồn Thầy lo âu ! Biết nói gì đây ? Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này !" Rồi chữa lại ngay: "Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha, chính vì giờ này mà Con đã đến." Ðây cũng phải là thái độ của mỗi tín hữu trước những đau khổ của trần gian. Allah is great (Thiên Chúa thật vĩ đại) nếu chúng ta sống trong tâm tình của Ðức Kitô: Hy sinh bản thân vì tha nhân !
Trong Tin mừng hôm nay, tiếng từ trời vang xuống, không phải vì Chúa Giêsu mà để những người đứng gần Ngài nghe thấy và để cho chúng ta hôm nay cũng nghe nữa. Theo Thánh kinh tiếng đó là biểu tượng cho sự hiện diện của Thượng đế, hay của một thiên sứ nào đó. Nó xác định rõ ràng con đường của Ðức Kitô được Thiên Chúa chứng giám, và các thính giả phải đặt hết tin tưởng vào những điều Chúa Giêsu tuyên bố: Sự sống vĩnh hằng chỉ có thể đến qua cái chết xác thịt. Nhiều người sẽ được lôi cuốn vào vương quốc của Ðức Kitô bằng chân lý này. Nhưng cũng lắm kẻ khước từ, không loại trừ tín hữu và tu sĩ. Có một câu châm ngôn trong thương mại: "Bạn hãy trở nên mọi sự khi có thể được" (Be all that you can be). Xin mượn câu này để thay lời Chúa Giêsu mời gọi mọi người. Ngài đã khai mở một con đường mới, khác hẳn với thế gian: Hãy nghe lời Ngài! Chúng ta sẽ được hạnh phúc chân thật!
Mấy người Hy-lạp là những kẻ tìm kiếm chân lý thật lòng. Họ chưa thuộc hẳn vào cộng đồng Do thái, nhưng cũng lên Giêrusalem dự lễ vượt qua. Trong ngôn ngữ súc tích của thánh Gioan từ "gặp" còn mang ý nghĩa "tìm thấy" bằng lòng tin. Sự hiện diện của Anrê và Philipphê gợi nhớ lại lúc khởi đầu của Phúc âm, khi thánh Anrê và Gioan, hai môn đệ của Gioan tẩy giả đi theo Chúa Giêsu. Họ cũng đã tin khi Chúa mời gọi. Còn chúng ta thì sao? Có một cụm từ nổi tiếng trong Tin mừng theo thánh Gioan là "giờ tôi chưa đến" (2,4; 7,6; 7,30; 8,20). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý ám chỉ về ngày giờ theo lịch thời gian (chronos) mà đặc biệt theo một khoảnh khắc vĩ đại của ơn thánh (kairos) khi Ngài trở về với Thiên Chúa Cha qua đau khổ, cái chết và sự phục sinh. Lúc này "giờ của Ngài" đã đến. Ngài trở thành nguồn ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Những người Hy-lạp đến yêu cầu "gặp" Chúa Giêsu. Họ có đại diện cho những người khác qua mọi thời đại, cùng với Anrê, Philipphê, Maria, Martha tin tưởng vào Ngài? Ngài nói rõ, muốn có đức tin đầy đủ, thì phải trải qua tiến trình "gặp gỡ" Ngài, trước hết, trong đau khổ, cái chết và sự phục sinh sắp tới. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi….
Phúc âm theo thánh Gioan không có trình thuật lại giờ hấp hối tại vườn Cây Dầu. Tuy nhiên Ngài cũng phải trải qua xao xuyến và sầu khổ. Ngài biết trước số phận dành cho Ngài và cương quyết đi theo đường lối đó. Nếu không, ngày nay chúng ta có một sứ điệp khác hẳn. Ðại khái như thế này: Người tôi tớ "đau khổ" của Thiên Chúa chỉ phục vụ tới một thời điểm nào đó thôi, với một chút bất tiện cá nhân, rồi kết thúc cuộc đời trên chiếc giường êm ái như bao nhiêu "thầy dạy" khác của thế gian. Những kẻ theo Ngài chẳng cần khó nhọc gì cả, chỉ một chút "tu thân" là đủ. Thiên Chúa không đòi hỏi toàn bộ cuộc sống của họ trong yêu mến và phục vụ, chỉ một phần nhỏ thôi! Hai tuần lễ sắp tới, chúng ta sẽ được chứng kiến Chúa Giêsu phục vụ ra sao: Dâng hiến toàn thể cuộc sống cho Ðức Chúa Cha vì nhân loại, và Ngài mời gọi mọi người theo gương.
Thế gian sẽ được tuyên án ra sao bởi Ðấng bị giương lên cao? Hoặc người ta chấp nhận Ngài, vì thấy cái chết của Ngài như hạt giống reo vào lòng đất, nảy sinh nhiều hoa trái, từ đó họ hoán cải cuộc sống. Hoặc từ chối Ngài như một kẻ điên khùng, phí phạm cuộc đời vào những chuyện viển vông. Do đó họ khước từ Ngài và dấu đường Ngài đã chỉ. Quyền bính thế gian ngự trị từ toà cao và sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu từ cây thập giá và kéo mọi người đến với Ngài bằng sự Phục sinh. Hôm nay cũng là ngày sửa soạn cho các tân tòng lãnh Bí tích rửa tội, hai tuần nữa, trong đêm Chúa sống lại. Họ là những dân "ngoại" đang tìm gặp Ðức Giêsu. Các cha mẹ đỡ đầu sẽ là những Philipphê và Anrê giúp đỡ họ đến diện kiến Thiên Chúa bằng lời dạy bảo và chứng tá cuộc sống của mình. Các tín hữu khác thì sao ? Có nêu gương cho họ không ? Có giúp đỡ họ tìm gặp Chúa Giêsu không ? Có chỉ cho họ con đường dấn thân phục vụ ? Có hy sinh cuộc đời để rao truyền tình thương Thiên Chúa cho họ ? Nhất là các nhà giảng thuyết có lôi kéo họ gặp gỡ Thiên Chúa bằng lời giảng và gương sáng của mình ?
Xin Chúa Giêsu thánh thể cứu giúp chúng ta. Ngài không phải nhân vật đóng băng trong quá khứ, cũng không phải tài sản riêng của cộng đoàn tín hữu thuở xưa. Ngài đã qua "giờ của Ngài" mà đến với giáo dân mọi nơi, mọi thời. Xin cho chúng ta được "gặp gỡ" Ngài trong đức tin, bởi Ngài đã hứa: "Phúc cho những ai không xem thấy mà tin" (20,29). Người đời thường nói: "Trông thấy để mà tin". Còn trong ánh sáng Phúc âm hôm nay, chúng ta nói: "Tin để mà xem thấy." Lạy Chúa Giêsu, xin giúp đỡ lòng tin yếu kém của chúng con. Amen.

Giúp đỡ Tha Nhân là Hoa Trái Dâng Chúa
Ga 12: 20-33
Lm. Jude Siciliano, OP (Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Tôi vừa giảng xong tuần tĩnh tâm ở một giáo xứ. Trong lúc trao đổi với giáo dân sở tại, tôi được nghe và thấy nhiều mẫu gương hy sinh đáng khâm phục: Một phụ nữ chăm sóc cho mẹ già tật nguyền đến khi mẹ mất, rồi bây giờ lại phải săn sóc người anh đang gần chết. Trong khi chăm sóc, người phụ nữ đó vẫn vui tươi. Chuyện một người sắp chết vì ung thư lại luôn an ủi những người đến thăm ông. Có người nói: "Ông ta không bao giờ than trách Chúa về nỗi bất hạnh của mình". Và ông luôn có vợ ở bên cạnh săn sóc. Một bà cụ lớn tuổi nhờ người đưa bà đến viện dưỡng lão để bà có thể giúp đẩy xe lăn cho những người trong viện, trong số đó có người còn trẻ hơn bà. Một phụ nữ trong giáo xứ tình nguyện làm người bênh vực cho những bệnh nhân bị bệnh tâm thần. Bà nói, những bệnh nhân đó khi nhập viện bị người ta cho thuốc quá nhiều, rồi lại gởi trả về nhà nên: "tôi bênh vực quyền lợi cho những bệnh nhân đó, vì không ai làm việc này cả".
Cũng như anh chị em, tôi thấy khâm phục những hy sinh cao cả ấy, hy sinh thời giờ, sức lực và tiềm năng của họ. Ngay cả những người đau yếu, họ vẫn chọn được cách sống phục vụ như họ muốn. Họ đã quyết định là sẽ vượt qua sự đau yếu như thế nào, nhờ vậy họ trở nên gương sáng cho kẻ khác. Tất cả những người tôi gặp không nghĩ những việc họ làm là điều quan trọng. Một người bảo: "Tôi không nghĩ đó là sự hy sinh. Mà chỉ là cách sống của tôi". Tuy thế, cũng có lúc những người nầy cảm thấy chán nản, mệt mỏi, và tuyệt vọng.
Tôi và anh chị em hẳn đã có lúc chúng ta gặp những người này, việc làm của họ như một sợi chỉ vàng vắt qua đời sống. Và họ cảm thấy được vinh dự, vui sướng khi làm những việc đó. Không chỉ là nụ cười thoáng qua "ha,ha,ha..", nhưng là cả một nỗi vui sướng tràn đầy ý nghĩa. Và lời Chúa Giêsu trong Phúc âm rền vang trong tâm trí chúng ta:"hạt lúa gieo vào lòng đất, phải chết đi mới sinh được nhiều hoa trái" cho người khác và cho chính chúng ta nữa.
Có những tấm gương khác về gia đình: Như một người cha hay mẹ không muốn thăng tiến thêm trong việc làm ăn để cho gia đình khỏi phải di dời chỗ ở.  Có đôi vợ chồng kia điều là cán sự xã hội, quyết định dọn nhà từ ngoại ô vào sống gần xóm lao động nghèo mà họ đang phục vụ. Người khác đứng ra bênh vực quyền lợi của một đồng nghiệp bị áp bức, làm bản thân bị mất dịp được tăng lương. Một giáo chức nhận mức lương thấp hơn để dạy ở trường công giáo của một giáo xứ có nhiều người di cư nghèo, v.v..
Nhìn thoáng qua những câu chuyện trên, chúng ta thấy chỉ là những trường hợp ít gian nan thử thách và không là những hy sinh cao cả. Tuy nhiên, chính hy sinh ấy đem lại hiệu quả như Chúa Giêsu nói "nhiều hoa trái", và giúp cho những người đó có được "sự sống đời đời". Trong Phúc âm thánh Gioan, thành ngữ "sự sống đời đời" không có ý nghĩa là sự sống đời sau, nhưng là sự sống đời này. Sự hy sinh đó hàm ý là chúng ta múc lấy nước từ nguồn sâu thẳm của sự sống và nhờ đó chúng ta cảm thấy niềm vui sướng khôn tả mà tự sức chúng ta không hề có được. Hạt lúa giống chết đi và sinh nhiều hoa quả. Nếu chỉ nghe qua lời Chúa Giêsu, chúng ta không thể hiểu được. Nhưng, những ai thực hiện được lời dạy đó thì mới hiểu trọn được ý nghĩa của lời Chúa.
Chúng ta có cảm nhận được hoa quả những hy sinh của cha mẹ, ông bà, bạn hữu và láng giềng chúng ta không? Những người làm việc miệt mài để giúp chúng ta có nơi trú ngụ, những người đã hy sinh thời giờ để giúp khi chúng ta cần đến họ?
Khi những người Hy-lạp tìm đến xin gặp Chúa Giêsu, Ngài đáp "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga.12:23). "Giờ" trong Phúc âm thánh Gioan  là giờ Chúa chịu khổ hình và được vinh quang. Để có thể hiểu được ý nghĩa từ "giờ" trong Phúc âm này, chúng ta hãy xét lại trong kinh nghiệm của mỗi chúng ta. Khi một người nói: "giờ" của ông đã đến chính là lúc ông ta bị mất việc khi ông báo cáo lên cấp trên việc lừa dối khách hàng của hãng bảo hiểm mà ông đã khám phá được. Một thiếu niên nói em không muốn bắt chước thói quen say sưa của các bạn. Kết quả: em đó mất bạn. Giờ ở đây không có nghĩa là sáu mươi phút. Giờ chúng ta đến, có nghĩa là khi việc chúng ta làm đến lúc được tiết lộ, khi chúng ta cần phải hy sinh, hay cần quyết định một việc gì khó khăn. "Giờ" thường chỉ lúc chúng ta không gặp may với người khác, và chúng ta phải quyết định đứng dậy hay chịu chết vì điều chúng ta tin tưởng.
Những người Hy-lạp tìm gặp Chúa Giêsu, có lẽ họ muốn biết về những điều họ nghe được. Phúc âm không nói rõ những người Hy-lạp đó là ai, họ là người Hy-lạp hay là người Do-Thái nói tiếng Hy-lạp? Họ có phải là những người đến tham quan, có thiện cảm với đạo Do-Thái, hay đến tham dự lễ hội của thành phố? Họ chính là chúng ta trong thế giới người ngoài, tìm đến Chúa Giêsu. Họ và chúng ta sẽ được gặp Chúa Giêsu trong "giờ" Ngài chịu khổ hình và vinh quang. Họ sẽ thấy Ngài không rút lui, nhưng Ngài tiến đến "giờ" của Ngài một cách tự do.
Ngay cả sự sợ hãi cũng không khuất phục được Ngài. Trong Phúc âm thánh Gioan, Chúa Giêsu kiên định mọi việc. Không có chuyện Ngài hấp hối trong vườn Giêt-sê-ma-ni. Nhưng tâm hồn Ngài có “xao xuyến" xúc động khi sự chết đến gần. Chúa Giêsu đang nhìn thẳng vào "giờ" vinh quang của Ngài, không phải là không biết sợ. Nhưng Ngài vẫn dấn bước theo đường Ngài đang đi, và "bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống.." xác nhận sự lựa chọn của Ngài. Chúng ta thừa hưởng việc vui lòng chọn "giờ" của Chúa Giêsu. Ngài sẽ đi vào và đi qua "giờ" hoàn toàn theo thánh ý Thiên Chúa và như người phục vụ cho chúng ta. Thế nên Ngài nói "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi".
Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không giảng dạy cho những người Hy-lạp tìm gặp Ngài. Họ tự tìm đến Ngài. Vậy việc gì đã lôi kéo họ đến với Ngài ?  Chúng ta cũng như những người đó được Chúa lôi kéo nên giờ này trở nên là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Một Đấng rất khoáng đạt, sẳn sàng ban tặng mọi sự cho chúng ta mà không giữ lại một tí gì cho mình. Ngài còn cho chúng ta thấy những phần thưởng ẩn sau những thất bại và ngay cả sự chết, khi chúng ta đến hồi sau hết và mất cả niềm tin. Ngài cho chúng ta hy vọng, ngay cả khi các cửa đều khép kín, khiến chúng ta muốn xuôi tay vì thất vọng và sẵn sàng theo vào cõi chết trong nấm mồ. 

Nảy Sinh Hoa Trái Từ Lòng Đất
Ga 12,20-33
G. Nguyễn Cao Luật, OP
Ðã đến giờ
Sau khi Ðức Giêsu long trọng tiến vào thành Giêrusalem (Ga 12,29), người Pha-ri-sêu đã đưa ra một nhận xét đầy chua chát: "Kìa thiên hạ theo ông ấy hết." Vào tuần lễ cuối cùng này, dường như Tin Mừng thứ tư muốn bắt đầu lại từ đầu: việc những người Hy-lạp muốn gặp Ðức Giêsu là hình ảnh cuộc gặp gỡ bên bờ sông Gio-đan của các môn đệ đầu tiên với Ðức Giêsu. Chính tại địa điểm này, Tin Mừng Gioan đã mô tả tuần lễ đầu tiên trong cuộc đời công khai của Ðức Giêsu.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan mô tả thái độ của Ðức Giêsu: đã đến giờ phải chọn lựa. Các tác giả khác trình bày thái độ này trong những sự kiện xảy ra tại vườn Cây Dầu.
Những người Hy-lạp
Thánh Gioan nhấn mạnh đến vai trò của những người Hy-lạp ; họ là những dân ngoại nhưng vẫn kính sợ Thiên Chúa. Vai trò này được nói đến qua việc họ nhờ đến những người trung gian: Phi-líp-phê là một danh từ Hy-lạp. Quê hương bản quán của ông là một thành phố vùng Ga-li-lê có nhiều giao tiếp với người Hy-lạp ; An-rê cũng là một danh từ Hy-lạp.
Có thể nối kết lời cầu xin của những người này với câu nói của Ðức Giêsu: "Ðã đến giờ ..." và "tôi sẽ lôi kéo mọi người lên với tôi." Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ Ðức Giêsu được giương cao lên khỏi mặt đất, được tôn vinh và lôi kéo mọi người lên với Người. Ðây là Giờ đầy nghịch lý, trong đó mọi thực tại sẽ thay đỗi: chết tức là sống, mất tức là được. Ðể sinh được nhiều bông hạt, hạt lúa vùi trong lòng đất phải chịu thối rữa. Xưa kia Kinh Thánh đã từng nói đến một đoàn người thuộc đủ mọi dân nước sẽ xuất hiện vào ngày cuối cùng. Này đây họ đang đến và ngước mắt nhìn lên cây sự sống.
Quả thật, đây là Giờ gặp gỡ giữa sứ mạng của Ðức Giêsu và lời thỉnh cầu của các dân nước. Cả hai gặp gỡ nhau và đi đến hổi chung cuộc. Từ giây phút này, tính cách phỗ quát đã được bày tỏ rõ ràng, để rổi được hoàn tất trên thập giá và ngôi mộ trống.
Tiếng nói
Thời điểm quan trọng này được chứng thực nhờ tiếng nói từ trời. Ðây là một hình thức về phép rửa mới mang chiều kích phỗ quát, mở đường cho phép rửa trong Thánh Thần.
Vinh quang của Thiên Chúa, chính là sự hiện diện của Chúa Cha trong Ðức Kitô. Ðức Giêsu tôn vinh Chúa Cha qua việc chọn lựa chấp nhận đi xuống đến tận cùng của cuộc sống. Chúa Cha tôn vinh Chúa Con qua cuộc Khỗ Nạn và Phục Sinh của Chúa Con.
Các công trình Ðức Kitô thực hiện cũng chính là công trình của Thiên Chúa. Cũng một vinh quang ấy đang đợi chờ tất cả những ai để cho mình được Ðức Giêsu lôi kéo. "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các ngươi." Ðến lượt mình, những công việc con người làm cũng sẽ trở thành công trình của Thiên Chúa.
Gặp Ðức Giêsu
Ðể gặp được Ðức Giêsu như những người Hy-lạp yêu cầu, cần phải bước theo Người đến thập giá và ngày Phục Sinh. Kể từ lúc đã đến giờ, người ta chỉ nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng chịu chết và phục sinh. Giáo Hội được trao sứ mạng mặc khải về Ðức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho những ai yêu cầu.
Chết để sống
Bản Tin Mừng hôm nay thật khó nghe và cũng thật khó hiểu. Trong trình thuật này, Ðức Giêsu nói về cái chết, về sự từ bỏ cuộc sống, về nỗi sợ của chính Người.
Người ta mong muốn rằng những lời này không đề cập đến họ: những lời này chỉ dành riêng cho Ðức Giêsu. Nhưng trong thực tế, người ta không thể trốn tránh được. Nếu như thánh Gioan nói đến sự có mặt của những người Hy-lạp, những người ngoại tại Giêrusalem vào thời điểm này, đó chính là vì muốn cho thấy rằng những lời nói của Ðức Giêsu là lời ngỏ với mọi người, với tất cả những ai muốn được gặp Ðức Giêsu.
Như vậy, có cần phải chết để được sống ? Có cần phải từ bỏ việc yêu mến cuộc sống ?
Nếu hiểu những câu nói này theo nghĩa đen, người ta sẽ nghĩ ngay đến những người, nam cũng như nữ, đang buổn phiền lo lắng tìm kiếm mọi đau khỗ và bất hạnh để có thể tin chắc rằng mình sẽ đi thẳng tới Thiên Ðàng.
Người ta đã hiểu thế nào về thành ngữ theo Ðức Kitô ? Không thể nào có quyền nghĩ rằng dân Thiên Chúa là một dân gổm những người đã chết mà đang sống. Không thể nói yêu mến Thiên Chúa và người khác mà lại chối bỏ cuộc sống.
Có lẽ người ta đã hiểu sai về ý nghĩa những từ ngữ chết và sống !
Phải chăng hạt lúa mì, hay bất cứ hạt giống nào khác, đã thực sự chết, theo nghĩa chấm dứt và hoàn toàn tiêu tan ?
Ðúng ra, người ta thấy hạt giống đó nảy mầm, bừng lên tất cả sức sống đang tiềm ẩn và làm nảy sinh một thứ phép lạ: một bông lúa trĩu hạt, vàng tươi ; một cây tươi tốt, xinh đẹp.
Theo lối diễn tả vừa rổi, chết có nghĩa là gì ? Ðiều này lại không có nghĩa là con người không được khép kín nơi chính mình, ngược lại phải luôn mở ra trước người khác, trước lời Chúa ?
Chết, phải chăng lại không phải là giải phóng tất cả sức mạnh tình yêu đang tiềm ẩn nơi mình và kìm hãm lại những nỗi sợ hãi, tính ích kỷ và thói tự mãn ?
"Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình !" Ai yêu cuộc sống của riêng mình với những chuyện nhỏ nhặt, những khước từ, những bạo lực, những xúc phạm, người ấy đánh mất cuộc sống của mình.
Còn những ai chấp nhận để mình bị vượt qua, bị xô đẩy, đôi khi bị chà đạp vì sự sống và tình yêu đối với người khác ; ai để cho mình bị đâm thấu vì tình yêu đầy thúc bách của Thiên Chúa ; tất cả những người ấy làm cho sự sống bừng nở, như mầm cây mọc lên từ lòng đất và vươn cao dưới ánh mặt trời.
Thật vậy, luôn có một hành trình trong bóng tối trước khi tiến đến trong ánh sáng. Hành trình đầy nguy hiểm này làm người ta sợ. Như Ðức Giêsu đã từng xao xuyến, người ta vẫn muốn tránh đoạn đường này. Vẫn còn đó một cám dôỵ mãnh liệt: muốn ở lại trong nơi êm ấm và an toàn của chính mình.
Thế nhưng, không có con đường nào dẫn đến sự sống mà không phải trải qua thập giá. Hơn nữa, niềm tin của người Kitô hữu không dừng lại ở ngày thứ Sáu Tuần Thánh, niềm tin ấy cắm sâu vào trong một ngôi mộ, một ngôi mộ trống, một ngôi mộ trước đây từng là nơi an nghỉ của Ðấng hiện đang sống, sống mãi mãi.
Hôm nay, ai là người giới thiệu ?
"Chúng tôi muốn được gặp Ðức Giêsu." Ðó cũng là lời thưa của chúng ta với Chúa Thánh Thần, khi bước vào những ngày kỷ niệm cuộc Khổ Nạn của Ðức Kitô. Ngày nay, ai sẽ là người giúp chúng ta gặp được Ðức Giêsu, đổng thời giúp chúng ta khám phá ra trong chính cái chết của Người, những hoa trái đầu mùa của việc Người được tôn vinh ? Ai sẽ là các ông Phi-líp-phê và An-rê để giới thiệu cho chúng ta biết con người được giương cao lên khỏi mặt đất cũng chính là người lôi kéo tất cả mọi người.
Và những người Hy-lạp của thời đại chúng ta, những con người thành tâm tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc đời của mình, liệu họ có tìm ra những người bạn của Ðức Giêsu để giới thiệu họ với Người không ? Chúng ta có phải là người dẫn họ đến gặp Ðức Giêsu không ?
Mỗi người tuỳ theo hoàn cảnh của mình vẫn có những cách để tiếp cận với mầu nhiệm Ðức Giêsu, miễn là họ luôn gặp gỡ, luôn chiêm ngắm thập giá, đổng thời dám tin vào cuộc phiêu lưu của hạt lúa được gieo trong lòng đất. Chúng ta thực sự tiến đến gần Ðức Giêsu vinh quang mỗi khi chúng ta chấp nhận sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thủng của Người.

Hạt lúa Giêsu
Ga 12, 20-33
Phaolô Nguyễn Văn Quý, OP
"Hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không thối đi thì nó chỉ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt".
Chuyện kể rằng, một người rất đau buồn vì sắp phải xa vợ và các con lên đường đi chiến đấu. Vì anh biết, khi vắng anh, vợ với sức khỏe ốm yếu không thể nào xoay xở để nuôi năm đứa con còn thơ dại. Trong lúc đang gặp vấn đề thật khó khăn như vậy, người bạn biết được điều đó và đã đề nghị với anh và chính quyền cho anh ta làm nghĩa vụ thay thế. Anh thật vui mừng và cảm động biết bao, vì không ngờ rằng mình lại có người bạn tốt đến như vậy. Nhưng oái ăm thay, trong cuộc chiến năm ấy, người bạn đã hy sinh. Nghe tin gia đình anh hết sức đâu buồn. Anh và gia đình đã vội lên đường, đến viếng trước mộ bạn với lòng cảm kích và biết ơn vô hạn. Ngày đó, anh đã khắc lên ngôi mộ của bạn mình với hàng chữ: "Anh đã chết cho tôi".
Thưa cộng đoàn ! Người bạn đã hy sinh cho anh em mình trong câu chuyện kể trên chính là hạt lúa gieo vào lòng đất đã thối đi để sinh nhiều hạt khác. Anh ta đã chết đi cho cả gia đình của bạn mình được sống.
Hôm nay, Ðức Giêsu dùng dụ ngôn hạt lúa mì gieo vào lòng đất để ám chỉ về Người.
Thực thế, hạt lúa Giêsu được Thiên Chúa Cha gieo vào lòng trần thế. Hạt lúa Giêsu - Con Một Thiên Chúa cao sang- Ðấng tạo dựng vũ trụ, sáng tạo muôn loài, giờ đây chịu cùng số phận của hạt lúa mì thối ruỗng. Từ ngày người thợ âm thầm gieo hạt lúa vào lòng đất để hạt lúa phải chịu cô đơn lạnh lẽo, phải chịu nắng, chịu mưa, chịu rét để rồi mục ruỗng đi như thế nào thì hạt lúa Giêsu cũng âm thầm chịu đau khổ từ ngày bước vào trần gian như vậy.
Hạt lúa Giêsu phải chịu cực, chịu khổ, chịu đau đớn, chịu nát tan bởi lẽ hạt lúa Giêsu cần thối ruỗng đi để tái sinh một mùa lúa mới, một mùa lúa dồi dào. Mùa lúa ấy là những chứng nhân trung thành theo gót Ðức Kitô là các thánh Tông Ðồ, các thánh tử đạo, các thánh và ngàn ngàn lớp lớp Kitô hữu chúng ta ngày nay.
Nhưng thử hỏi bởi đâu mà có cuộc tái sinh ấy ?
Có cuộc tái sinh ấy vì Giêsu đã sống trong vâng phục và sống trong nghèo khó.
Có cuộc tái sinh ấy vì Giêsu chấp nhận sống trong sự dị nghị và xua đuổi của mọi người, chịu người đời nhạo báng và ném đá.
Có cuộc tái sinh ấy vì Giêsu chịu mang tiếng là làm bạn với những người thấp cổ bé miệng, những người nghèo đói, bệnh tật và những người tội lỗi: quân thu thuế và bọn đĩ điếm.
Có cuộc tái sinh ấy vì Giêsu chịu nhiều đau khổ nơi thân xác và trong tâm hồn, chịu xỉ nhục và chịu đánh đập, chịu người thân và bạn bè phản bội.
Có cuộc tái sinh ấy vì Giêsu tận cùng phải chịu nát tan, chết tủi nhục trên cây thập giá.
Hạt lúa Giêsu phải chịu tan nát và chịu chết như vậy để thực hiện một cuộc biến đổi, để tái sinh một mùa lúa mới.
Hạt lúa Giêsu chịu khổ đau để đổi thành hạnh phúc, chịu tủi nhục để đổi thành vinh dự.
Hạt lúa Giêsu của biến đổi hận thù thành yêu thương, của biến đổi giận hờn thành tha thứ.
Hạt lúa Giêsu của biến đổi sự chết thành sự sống, của cho đi, mất đi tất cả để rồi được tất cả.
Hạt lúa Giêsu là thế đó.
Vì hạt lúa mì rất gần gũi, rất thân thương đối với người Do Thái, nên Ðức Giêsu đã lấy hình ảnh hạt lúa bay từ bàn tay người thợ vùi vào lòng đất phải thối đi, sinh một mùa bội thu để ám chỉ về Người mà mặc khải cho họ, là Ngài phải chết đi để sinh ơn cứu rỗi cho mọi người: "Khi con người khéo ta lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta".
Hôm nay nghe lại bài Tin Mừng này, hình ảnh hạt lúa mì thối ruỗng như là một lời cảnh tỉnh và kêu gọi mọi người chúng ta. Mỗi người chúng ta hãy tự nhìn lại chính bản thân mình đã là một hạt lúa mì mục nát chưa?
Hạt lúa mục nát là hạt lúa của hy sinh, của yêu thương, của tha thứ và của mọi người. Hạt lúa không phải là hạt lúa của riêng mình. Nếu hạt lúa của sự cất giữ, của tư riêng thì hạt lúa đó đang trở thành trơ trọi, chai cứng. Ðó chính là hạt lúa của ích kỷ, của ghen ghét, của hận thù, của chia rẽ và của sự chết.
Chúng ta có đang là hạt lúa chịu thối ruỗng để sinh một mùa bội thu, hay chúng ta lại là hạt lúa chỉ trơ trọi một mình không sinh ích lợi ?
Mùa chay thánh hôm nay Giáo Hội đang kêu mời chúng ta mỗi người hãy gẫm suy về hạt lúa mì được gieo vào lòng đất.
Chúng ta có dám can đảm như người bạn trong câu chuyện trên chấp nhận hy sinh tính mạng cho người anh em của mình. Hay Ðức Kitô có là tấm gương cho chúng ta học hỏi và sống ! Ðể hầu tuy ta đang chết nhưng thực sự ta lại đang sống. Như lời Chúa đã nói: "Ai tìm mạng sống mình sẽ mất và ai đánh mất mạng sống mình vì ta thì lại được sự sống đời đời".
Ðiều đó có khác đâu với câu nói mà kết thúc của báo Phụ Nữ viết về ông Phan Hiến- một cán bộ về hưu từng chắt chiu những đồng tiền để làm việc từ thiện: "Những gì chúng ta làm cho bản thân, sẽ lụi tàn khi chúng ta chết đi. Còn những gì chúng ta làm cho người khác và cho đời, sẽ là bất diệt" .
Vâng hạt lúa mì gieo vào lòng đất thối mục đi để sinh nhiều bông hạt vẫn là lời mời gọi liên lỉ đối với mỗi người tín hữu chúng ta khi bước theo Ðức Kitô - Hạt lúa gốc đã chết đi để tái sinh mùa lúa mới, đã chết đi để cứu rỗi mọi người.

Chết để sống
Ga 12,20-33
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu - ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng đến tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Na-da-rét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên…nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án…nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể, và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”.


Lời Chúa và Thánh Thể
Hạt lúa chết đi, sẽ sinh nhiều bông hạt
Ga 12, 20 – 33
Trong dòng người cùng tiến về Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Ngoài những người Dothái, còn có những người Hy Lạp. Đây là những người ngoại nhưng biết kính sợ Thiên Chúa. Nhân cơ hội này, họ đến Gierusalem để tìm cách được gặp Chúa. Họ muốn biết sự thật về con người có lời nói, việc làm uy quyền. Họ muốn được thấy vinh quang của Chúa. Do vậy, họ đến nhờ ông Philipphê và thưa rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp ông Giêsu”. Ông Philipphê cùng với ông Anrê đến gặp Chúa và kể lại như vậy ! Nhưng Chúa đã không trả lời trực tiếp điều họ muốn, mà lại muốn cho họ thấy, việc Chúa sẽ phải chết như thế nào để được vinh quang. Chính nhờ cái chết ấy, Con Người mới được tôn vinh: “Hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Chính vì yêu thương nhân loại chúng con, mà Chúa đã bỏ cả ngai vàng của mình để xuống thế gian trở nên con người phàm. Chúa muốn cho hạt giống lời Chúa được đâm chồi nảy lộc, nên Chúa đã tự gieo mình vào lòng đời để cùng chia sẻ với thân phận con người. Chính vì thế, Chúa đã không màng chi đến địa vị, chức tước của mình, nhưng chấp nhận thân phận con người thấp hèn để chia sẻ, đồng cảm với những ngừơi khổ cực, nghèo đói và tội lỗi. Lạy Chúa, ngày nay, Chúa cũng mời gọi chúng con bước theo con đường Chúa đã đi, để chúng con biết sẻ chia, nâng đỡ những con người bất hạnh. Thế nhưng, có lẽ ý nghĩa cao thượng ấy đã không còn thấm nhuần vào tâm trí của chúng con. Chúng con chẳng khác gì những người Hy Lạp xưa kia. Chúng con cũng đi tìm gặp Chúa, nhưng cũng chỉ là để được thấy vinh quang của Chúa. Chúng con cũng chỉ đi tìm cho mình những danh lợi, địa vị cho cá nhân mình. Thậm chí, đôi lúc cũng không ngần ngại chà đạp lên thân phận của người khác để có được vinh quang. Một sự hy sinh cho tha nhân đã trở nên nhạt nghĩa đối với chúng con.
Lạy Chúa, dường như đời sống hưởng thụ đã che khuất con mắt tâm hồn của chúng con. Đời sống vật chất đã làm lu mờ đi đời sống thiêng liêng của chúng con. Chúng con đã dần đánh mất đi giá trị sống của mình. Vì thế, chúng con không dám sống quên mình vì người khác, hy sinh mình cho tha nhân, như Chúa đã từng sống. Chúa đã tự ví mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, phải được mục nát, rồi mới vươn lên, sinh hoa kết quả. Thân xác của Chúa cũng bị chôn vào mồ, rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang. Chúa đã yêu thương chúng con bằng đời sống tự hiến như vậy, nhưng chúng con lại không nhận ra đựơc tình yêu của Chúa. Chúng con không cảm nghiệm được nỗi đau của Chúa. Chính vì yêu thương nhân loại, Chúa đã không hối tiếc gì đến cả mạng sống của mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập và cuối cùng phải chết nhục nhã trên cây Thập Tự.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể !
Mùa Chay đã đang dần về đích điểm là cuộc thương khó của Chúa, nhưng có lẽ bao nhiêu thời gian ấy cũng chưa làm cho chúng con thay đổi đựơc bao nhiêu. Xin cho mỗi người chúng con ý thức được thời gian quý báu còn lại, để chúng con cũng dám chấp nhận đi vào con đường khổ giá của Chúa. Xin cho chúng con cũng can đảm đón nhận những khổ đau mà Chúa gửi đến, để chúng con cũng biết sẻ chia, đồng cảm với những nỗi đau của người khác. Như vậy, chúng con mới có thể thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa. Ước chi, chúng con cũng dám can đảm hy sinh mình để phục vụ lợi ích cho tha nhân, như Chúa đã từng làm. Và mỗi ngày, chúng con biết sống đời mình như hạt lúa

Hạt lúa chấp nhận chết đi sẽ sinh nhiều bông hạt
Ga 12,20-33
Đaminh Nguyễn Ngọc Cảnh, OP
Đỉnh cao của những ngày Đức Giêsu thực hiện sứ vụ cứu độ là lúc người bị treo trên thập giá. Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ "hạt lúa chết đi mới sinh nhiều hạt khác". Như vậy, lúc Chúa bị treo lên cũng chính là lúc "Con người được tôn vinh" Ga (12, 23).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan hôm nay, Chúa đã dạy cho chúng ta giá trị của sự từ bỏ. Ngài ví mình như hạt lúa. Hình ảnh hạt Lúa gieo vào lòng đất, bừng lên đầy nhựa sống là biểu tượng mầu nhiệm Phục sinh và mùa bội thu đầy hứa hẹn sau này. Hạt gống không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình và không sinh hoa kết quả cho bản thân và tha nhân. Như vậy, mỗi người chúng ta có phải là hạt giống sẵn sàng chịu mục nát đi để hứa hẹn một mùa gặt bội thu cho chính mình và cho người khác không?
Chúng ta chuẩn bị bước vào tuần Thánh, tuần đặc biệt cử hành những biến cố cuối đời của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng Chúa Giêsu vác Thánh giá đời mình lên Giê-ru-sa-lem. Nơi đó, ta sẽ được chứng kiến một cuộc biến hình mới, một cuộc từ bỏ chính mình để dành lấy vinh quang.
Nhìn lại mình, có khi nào chúng ta giật mình đau buồn khi nhận thấy mình đang tích cực la ó đòi đóng đinh Chúa vào thập giá. Vì đã rất nhiều lần sám hối nhưng ngay sau đó là phạm tội  và luôn muốn làm quan tòa xét đoán, lên án người khác và không ít lần phủi tay nói lên mình hoàn toàn vô tội.
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người dám chấp nhận mục nát như hạt lúa kia. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng, là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng.
Trong cuộc sống không ít lần ta gặp những khó khăn lớn nhỏ. Khi đó, ta cùng ngước nhìn lên Chúa thì tâm hồn sẽ được ủi an. Vì khi xưa, Chúa cũng gặp sự cô đơn, xao xuyến, tủi nhục bởi những giờ phút thử thách và ngài đã phải thốt lên "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này." Thế nhưng vì yêu thương và muốn mọi người được hưởng hạnh phúc nên "phần tôi một khi được giương cao khỏi mặt đất tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" Ga(12,32)
Cả cuộc đời, Ngài chỉ dậy con người hai chữ "yêu thương" và ngài sống triệt để lời dậy của mình bằng lời dậy dỗ bảo ban, sống hết mình vì nhân loại và đỉnh cao là thập giá cứu chuộc.
Hôm nay, chúng ta đã học được gì nơi Chúa Giêsu. Có lẽ điều mong mỏi lớn nhất của Chúa là chúng ta đem chữ yêu thương vào trong cuộc sống. Bởi có yêu thương ta mới dám chết đi cái tôi ích kỷ, nhỏ nhen, và tội lỗi của mình để ta thành chứng nhân của tình yêu như Chúa hằng mong ước.
Lạy Chúa Giêsu thánh thể !
Chỉ ít ngày nữa, chúng con bước vào Tuần Thánh, tuần tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa. Chúa đã cho chúng con thấy tình yêu của ngài cao cả biết bao qua biến cố này. Xin cho chúng con cũng biết nhìn lên thập giá mỗi khi gặp gian nan thử thách để chúng con biết đón nhận và dâng lên Chúa như của lễ trong cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con thành gương sáng tình yêu, để mọi người nhận ra tình yêu của Chúa dành cho nhân loại. Khi đó, hết thảy nhân loại cùng chung sống dưới một mái nhà, một niềm tin, và một lời ca tụng tình yêu của Chúa. Amen



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét