Tĩnh tâm Mùa Chay 2022 cùng Giáo triều Rôma – Bài suy niệm thứ nhất của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa: Phụng vụ Lời Chúa
Trong gần 100 năm qua, các Đức Giáo Hoàng đã dành thời gian cho một khóa tĩnh tâm hàng năm kéo dài gần một tuần. Đầu tiên là đầu Mùa Vọng, sau này được đổi lại là vào đầu Mùa Chay. Khoá tĩnh tâm này chỉ dành cho Đức Thánh Cha và các nhà lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh.
Bên cạnh đó, mỗi thứ Sáu hàng tuần trong Mùa Vọng và Mùa Chay còn có một sinh hoạt khác có nhiều người tham dự hơn là nghe giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng trình bày các bài suy niệm. Những người được mời tham dự là các Hồng Y, các giám mục, thành viên của Giáo triều Rôma, của Phủ Giáo hoàng, của giáo phận Rôma, Bề trên Tổng quyền của các Dòng tu.
Các bài thuyết giảng Mùa Chay năm 2022, do Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa OFM, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng trình bày, tập trung vào Bí tích Thánh Thể trong lịch sử cứu độ, nêu bật tầm quan trọng của công việc của Chúa Thánh Thần trong Phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể.
Lúc 9g sáng ngày thứ Sáu 11 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, đã có bài thuyết giảng đầu tiên cho Mùa Chay năm 2022 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục ở Vatican. Chủ đề của bài giảng này là “Phụng vụ Lời Chúa”.
Nguyên bản tiếng Ý và các ngôn ngữ khac có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Bên cạnh rất nhiều tai ương mà đại dịch Covid đang gây ra cho nhân loại, từ quan điểm của đức tin đã có ít nhất một tác động tích cực. Đại dịch làm cho chúng ta ý thức được nhu cầu của chúng ta đối với Bí tích Thánh Thể và sự trống rỗng mà sự thiếu vắng Bí tích Thánh Thể tạo ra; đại dịch đã giúp chúng ta không coi Bí Tích Thánh Thể là điều hiển nhiên. Trong thời kỳ khốc liệt nhất của đại dịch vào năm 2020, tôi đã có ấn tượng mạnh mẽ - và cùng với tôi, tôi nghĩ nhiều người khác cũng nghĩ như thế khi xem trên truyền hình Thánh lễ do Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành ở Santa Marta mỗi sáng.
Một số Giáo Hội địa phương và quốc gia đã quyết định dành năm hiện tại cho một bài giáo lý đặc biệt về Bí tích Thánh Thể, vì mong muốn có một sự phục hưng về Bí tích Thánh Thể trong Giáo Hội Công Giáo. Đối với tôi, đó dường như là một quyết định đúng lúc và là một tấm gương để noi theo, khi đề cập đến một số khía cạnh có lẽ ít được xem xét về Bí Tích Thánh Thể. Do đó, tôi đã nghĩ đến việc đóng góp một phần nhỏ vào dự án này, dành những suy tư của Mùa Chay này để suy tư về mầu nhiệm Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm của mọi mùa Phụng vụ, Mùa Chay cũng như các mùa khác. Đó là những gì chúng ta cử hành mỗi ngày. Mỗi tiến bộ nhỏ trong sự hiểu biết về Bí tích Thánh Thể đều chuyển thành sự tiến bộ trong đời sống thiêng liêng của cá nhân và của cộng đồng Giáo Hội. Tuy nhiên, thật không may, điều dễ thấy nhất, là do tính lặp đi lặp lại của nó, theo quán tính, Bí tích Thánh Thể được coi là điều đương nhiên. Trong Thông điệp “Ecclesia de Eucharistia” – “Giáo Hội từ Thánh Thể”, được viết vào tháng 4 năm 2003, Thánh Gioan Phaolô II nói rằng các Kitô hữu phải khám phá lại và luôn sống “sự ngạc nhiên của Thánh Thể”. Vì mục đích này, những suy tư của chúng ta sẽ nhắm đến việc tái khám phá sự kinh ngạc đối với Bí tích Thánh Thể.
Nói về Bí tích Thánh Thể trong thời đại đại dịch và bây giờ với sự khủng khiếp của chiến tranh đang hiện lên trước mắt chúng ta không có nghĩa là ngoảnh mặt khỏi thực tế đầy bi thảm mà chúng ta đang trải qua, nhưng là một sự trợ giúp để nhìn thực tại từ một quan điểm cao hơn và ít chao đảo hơn. Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện trong lịch sử của sự kiện đã vĩnh viễn đảo ngược vai trò giữa kẻ chiến thắng và nạn nhân. Trên thập tự giá, Chúa Kitô đã biến nạn nhân thành người chiến thắng thực sự: “Victor quia victima”, Thánh Augustinô định nghĩa Người là Đấng chiến thắng vì là nạn nhân. Bí tích Thánh Thể cung cấp cho chúng ta chìa khóa đích thực để giải thích lịch sử. Nó bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Giêsu ở với chúng ta, không chỉ về mặt ý định mà thôi, nhưng là “thực sự” trong cái thế giới dường như có thể tuột khỏi tay chúng ta bất cứ lúc nào. Ngài lặp lại với chúng ta: “Hãy can đảm: Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Bí tích Thánh Thể trong Lịch sử Cứu độ
Bí tích Thánh Thể có vị trí nào trong lịch sử cứu độ? Câu trả lời là nó không có vị trí cụ thể nào – vì nó là toàn bộ. Bí tích Thánh Thể đồng hành với lịch sử cứu độ. Cũng như vào một buổi sáng trong lành, cả bầu trời được phản chiếu trong giọt sương trên bụi cây, Bí tích Thánh Thể phản ánh toàn bộ lịch sử cứu độ.
Tuy nhiên, Thánh Thể hiện diện trong lịch sử cứu độ theo ba cách khác nhau vào những thời điểm hoặc giai đoạn khác nhau: nó hiện diện trong Cựu Ước như một hình tượng, trong Tân Ước như một sự kiện, và trong thời đại chúng ta, thời đại của Giáo hội, như một bí tích. Hình tượng dự đoán và chuẩn bị cho sự kiện; bí tích “kéo dài” sự kiện và hiện thực hóa nó.
Tôi đã nói trong Cựu Ước, Thánh Thể hiện diện như một “hình tượng”. Một trong những hình tượng này là Manna; một hình tượng khác là sự hy sinh của Menkisêđê, và một hình tượng khác nữa là việc sát tế Isaác. Trong Bài Thánh Ca Lauda Sion do Thánh Thomas Aquinas sáng tác cho ngày lễ “Corpus Domini” – “Mình Máu Thánh Chúa”, chúng ta hát:
Thể hiện nơi sự sát tế Isaac,
Trong tiến trình chuẩn bị manna:
Trong của lễ hiến tế Vượt qua,
Trong các hình thái cũ được tiền định.
Do chức năng của chúng như những hình tượng của Bí tích Thánh Thể mà Thánh Tôma đã gọi các nghi lễ của Cựu Ước là “các bí tích của Lề Luật Cũ”.
Với sự xuất hiện của Chúa Kitô và mầu nhiệm sự chết và sống lại của Người, Bí tích Thánh Thể không còn hiện diện như một hình ảnh, mà là một sự kiện, một thực tại. Chúng ta gọi nó là một “sự kiện” bởi vì nó là một điều gì đó đã xảy ra trong lịch sử, một biến cố duy nhất trong thời gian và không gian, chỉ diễn ra một lần (semel) và không thể lặp lại: Chúa Kitô “khi đến thời viên mãn, đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.” (Dt 9:26).
Cuối cùng, trong thời Giáo hội, tôi đã nói, Thánh Thể hiện diện như một bí tích, nghĩa là, trong dấu chỉ bánh và rượu, do Chúa Kitô thiết lập. Điều quan trọng là chúng ta phải hiểu rõ sự khác biệt giữa sự kiện và bí tích: trong thực tế, đó là sự khác biệt giữa lịch sử và Phụng vụ. Chúng ta hãy để Thánh Augustinô giúp chúng ta:
Chúng ta biết và tin tưởng với đức tin đầy xác tín rằng Chúa Kitô chỉ chết một lần cho chúng ta, Đấng công chính chết thay cho kẻ tội lỗi, Chúa chết thay cho người tôi tớ. Chúng ta hoàn toàn biết rằng điều này chỉ xảy ra một lần; tuy nhiên, Tiệc Thánh làm mới lại điều đó một cách định kỳ, như thể những gì lịch sử tuyên bố chỉ xảy ra một lần được lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, sự kiện và bí tích không mâu thuẫn với nhau, như thể bí tích là ngụy biện và chỉ có sự kiện là đúng. Trong thực tế, điều mà lịch sử tuyên bố đã xảy ra, chỉ một lần, thì bí tích này thường canh tân (cải tổ) việc cử hành trong tâm hồn các tín hữu. Lịch sử tiết lộ những gì đã từng xảy ra và nó đã xảy ra như thế nào, Phụng vụ bảo đảm rằng quá khứ không bị lãng quên; không phải theo nghĩa làm cho biến cố xảy ra một lần nữa (non faciendo), nhưng theo nghĩa tôn vinh biến cố ấy (sed celebrando).
Việc chỉ rõ mối liên hệ tồn tại giữa hy tế duy nhất trên thập tự giá và Thánh lễ là một điều rất tế nhị và luôn là một trong những điểm gây bất đồng lớn nhất giữa người Công Giáo và người Tin lành. Như chúng ta đã thấy, Thánh Augustinô sử dụng hai động từ: đổi mới và cử hành, điều này hoàn toàn chính xác, với điều kiện là động từ này được hiểu dưới ánh sáng của động từ kia: Thánh lễ đổi mới biến cố thập giá bằng cách cử hành nó (không lặp lại nó!), và kỷ niệm biến cố ấy bằng cách đổi mới nó (chứ không chỉ nhắc đến nó!). Từ ngữ mà ngày nay đạt được sự đồng thuận đại kết lớn nhất, có lẽ là động từ “rappresentare” - tái hiện (cũng được Đức Phaolô Đệ Lục dùng trong thông điệp Mysterium Fidei - Mầu Nhiệm Đức Tin), được hiểu theo nghĩa mạnh là tái trình bày, nghĩa là làm tái hiện lại. Theo nghĩa này, chúng ta nói rằng Thánh Thể “tái hiện” thập giá.
Do đó, theo lịch sử, chỉ có một hy tế Thánh Thể, là hy tế do Chúa Giêsu thực hiện cùng với sự sống và cái chết của Người; nhưng mặt khác, theo Phụng vụ, tức là nhờ Bí tích Thánh Thể mà có biết bao các hy tế Thánh Thể đã được cử hành và sẽ được cử hành cho đến ngày tận thế. Sự kiện chỉ diễn ra một lần (semel), bí tích diễn ra “mọi lúc” (quotiescumque). Nhờ bí tích Thánh Thể, chúng ta trở thành những người đương thời với sự kiện một cách mầu nhiệm; sự kiện hiện diện với chúng ta và chúng ta có mặt tại sự kiện.
Những suy tư Mùa Chay của chúng ta sẽ có đối tượng là Bí tích Thánh Thể trong giai đoạn hiện tại, nghĩa là, như một bí tích. Trong Giáo hội cổ đại, có một khóa giáo lý đặc biệt, được gọi là mystagogic - giáo lý về mầu nhiệm, do các giám mục đảm trách và được giảng dạy sau khi, chứ không phải trước khi được rửa tội. Mục đích của nó là trình bày cho người tân tòng hiểu được ý nghĩa của các nghi thức được cử hành và chiều sâu của các mầu nhiệm đức tin: rửa tội, thêm sức hay xức dầu, và đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Những gì chúng ta định làm là một bài giáo lý sư phạm nhỏ về Bí tích Thánh Thể. Để tập trung vào tính chất bí tích và nghi lễ càng nhiều càng tốt, chúng ta sẽ theo dõi chặt chẽ diễn biến của Thánh lễ trong ba phần của nó - Phụng vụ Lời Chúa, Phụng vụ Thánh Thể (Kinh Nguyện Thánh Thể), và Rước lễ - thêm vào phần cuối suy niệm về việc thờ phượng Thánh Thể ngoài Thánh lễ.
Phụng vụ Lời Chúa
Trong những ngày đầu tiên của Giáo Hội, Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể không được cử hành ở cùng một nơi và cùng một lúc. Các môn đệ tham gia vào các buổi lễ thờ phượng tại Đền thờ. Tại đó, họ nghe các bài đọc trong Kinh Thánh và đọc các bài thánh vịnh và lời cầu nguyện cùng với những người Do Thái khác, sau đó họ đi về nhà của họ, nơi họ tụ họp để “bẻ bánh”, tức là để cử hành Thánh Thể (xin xem Công vụ 2:46).
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó, họ không thể tiếp tục thực hành này vì họ đã trải qua sự thù địch từ cộng đồng Do Thái, và vì Kinh Thánh đã mang một ý nghĩa mới đối với họ hoàn toàn phù hợp với Chúa Giêsu Kitô. Do đó, họ không còn đến Đền thờ hay Hội đường để đọc và nghe Kinh Thánh nữa mà thay vào đó, họ đã đưa Kinh Thánh vào những nơi thờ phượng Kitô của riêng mình, và vì thế Phụng vụ Lời Chúa trở thành phần dẫn vào Kinh nguyện Thánh Thể.
Vào thế kỷ thứ hai, Thánh Giúttinô đã viết một bản mô tả về Phụng vụ Thánh Thể, trong đó chúng ta đã tìm thấy tất cả các yếu tố thiết yếu của Thánh lễ hiện nay. Phụng vụ Lời Chúa không chỉ là một phần tích hợp của Thánh lễ nhưng bên cạnh các bài đọc Cựu Ước, còn có những gì Thánh Giúttinô gọi là “hồi ký của các Tông đồ”, tức là các bức thư và Phúc âm của Tân Ước.
Khi chúng ta lắng nghe các bài đọc Kinh Thánh trong Phụng vụ, chúng mang một ý nghĩa mới và mạnh mẽ hơn những gì chúng mang lại cho chúng ta trong một số bối cảnh khác. Khi chúng ta đọc Kinh Thánh ở nhà hoặc học trong một khóa học, điều đó sẽ giúp chúng ta hiểu biết Kinh Thánh nhiều hơn. Nhưng khi chúng ta đọc Kinh Thánh trong Phụng vụ, thì điều đó giúp chúng ta biết rõ hơn về Đấng tự hiện diện trong việc bẻ bánh, và mỗi lần như thế nó làm sáng tỏ một số khía cạnh của mầu nhiệm chúng ta sắp lãnh nhận.
Đây là điều nổi bật trong phần Phụng vụ Lời Chúa đầu tiên diễn ra với Chúa Kitô Phục sinh và hai môn đệ trên đường Emmaus. Khi lắng nghe lời giải thích của Ngài về Kinh Thánh, lòng họ bắt đầu dịu lại để có thể nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh sau đó.
Không chỉ những lời trong Kinh Thánh được nói ra và những câu chuyện Kinh Thánh được kể lại trong Thánh lễ, chúng còn được tái hiện lại theo cách mà những gì được ghi nhớ trở thành hiện thực và hiện hữu. Bất cứ điều gì đã xảy ra “tại thời điểm đó” đang xảy ra “tại thời điểm này” - “hôm nay” (hodie), như Phụng vụ thường nói. Chúng ta không chỉ là người nghe Lời Chúa, người tiếp nhận thụ động như bình thường, mà chính chúng ta là người được nói nói đến và hành động. Chúng ta được kêu gọi đặt mình vào vị trí của những người trong câu chuyện.
Một số ví dụ sẽ giúp chúng ta nắm bắt được điều này. Khi trong Thánh lễ, bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết Thiên Chúa đã nói chuyện với Môsê như thế nào trong bụi cây đang cháy (x. Xh 3), chúng ta nhận ra rằng thực ra chúng ta là những người đang thực sự đứng trước bụi cây đang cháy thật. Khi chúng ta đọc về ngôn sứ Isaia, người đã chạm vào môi mình vào một viên than hồng đang cháy để thanh tẩy ông cho sứ mệnh của mình (xem Is 6), chúng ta chợt nhận ra một điều: chúng ta là những người sắp nhận được trên môi mình viên than hồng đang cháy thực sự, Đấng đến để đốt cháy trái đất (xem Lc 12,49). Khi chúng ta đọc cách tiên tri Êdêkien được bảo ăn cuộn giấy để cho vào bụng mình (Ez 2: 8–3: 3), một tia sáng ập đến với chúng ta: chúng ta là những người sắp ăn “cuộn giấy”, là Lời-hóa-thành-nhục-thể và bây giờ được hóa thành bánh.
Chuyển từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ bài đọc thứ nhất đến đoạn Tin Mừng, điểm này càng trở nên rõ ràng hơn. Nếu người phụ nữ bị băng huyết chắc chắn rằng cô ấy sẽ được chữa lành chỉ cần cô ấy chạm vào vạt áo choàng của Chúa Giêsu, thì trường hợp của chúng ta là những người sắp được chạm nhiều hơn vào vạt áo choàng của Ngài thì chúng ta còn được nhiều hơn biết bao?
Tôi nhớ có lần tôi đã nghe câu chuyện Phúc âm về ông Giakêu và đột nhiên nó trở nên “có thật” đối với tôi. Tôi là Giakêu. Chúa Giêsu đã nói với tôi “Hôm nay Ta phải ở nhà của con”. Và khi tôi rước lễ, tôi có thể nói một cách chân thật rằng: “Người đã đến nhà kẻ tội lỗi”, và đến lượt Ngài, Chúa Giêsu nói với tôi: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này” (xem Lc 19: 5-9).
Điều này cũng đúng mỗi khi Tin Mừng được công bố trong Thánh lễ, làm sao chúng ta lại không thể không nhận diện được người bại liệt mà Chúa Giêsu đã nói: “Tội anh em được tha”, “Hãy trỗi dậy… và hãy về nhà” (Mc 2: 5,11)? Hay với ông Simêon, người đã ôm hài nhi Giêsu vào lòng (Lc 2:27-28)? Hay với ông Tôma, người run rẩy đưa tay chạm vào vết thương của Chúa (Ga 20,27-28)?
Trong Chúa Nhật thứ Hai Mùa Thường Niên của chu kỳ Phụng vụ năm nay, có đoạn Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu nói với người đàn ông bị liệt tay: “Hãy giơ tay ra! Anh duỗi nó ra và tay anh đã được chữa lành”(Mc 3,5). Chúng ta không có một bàn tay bị liệt; tuy nhiên, tất cả chúng ta, ít nhiều đều có tâm hồn tê liệt, trái tim khô héo. Chính là với chúng ta, những người nghe Lời Chúa, mà Chúa Giêsu nói vào lúc đó: “Hãy giơ tay ra! Hãy trải lòng mình ra trước mặt Thầy, với niềm tin và sự sẵn sàng của người đàn ông đó!”
Khi được công bố trong Phụng vụ, Kinh Thánh hành động theo cách vượt trên mọi sự giải thích của con người. Kinh Thánh phản ánh cách thức hoạt động của các bí tích. Những văn bản được thần thánh linh ứng này có khả năng chữa lành. Sau khi đọc xong đoạn Tin Mừng, Giáo hội mời thừa tác viên hôn cuốn sách và nói: “Nhờ những lời Phúc âm xin cho tội lỗi của chúng con được xóa sạch”. (Per evangelica dicta deleantur nostra Delicta).
Trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, một số sự kiện tạo ra kỷ nguyên mới đã xảy ra do trực tiếp nghe các bài đọc trong Thánh lễ. Có một ngày, người trẻ nghe đoạn Tin Mừng trong đó Chúa Giêsu nói với người thanh niên giầu có “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19:21). Anh cảm thấy rằng lời này đang được nói với riêng mình đến nỗi anh về nhà, bán tất cả những gì mình có và rút vào sa mạc. Tên của người đàn ông đó là Anthony, và đó là cách mà phong trào viện tu bắt đầu trong Giáo hội.
Nhiều thế kỷ sau, ở Assisi, một thanh niên mới cải đạo đi cùng với bạn đến nhà thờ. Trong bài Tin Mừng cho ngày hôm đó, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc 9: 3). Ngay lập tức anh ta quay sang người bạn đồng hành của mình và nói, “Bạn có nghe thấy điều đó không? Đây là điều mà Chúa muốn chúng ta làm”. Và do đó bắt đầu Phong trào Phan sinh.
Phụng vụ Lời Chúa là nguồn lực tốt nhất mà chúng ta có để làm cho Thánh lễ trở thành một cử hành mới và hấp dẫn mỗi khi xảy ra, nhờ đó tránh được nguy cơ lặp lại đơn điệu mà những người trẻ cảm thấy đặc biệt nhàm chán. Tuy nhiên, để điều này xảy ra, chúng ta phải đầu tư nhiều thời gian và sự cầu nguyện hơn trong việc chuẩn bị bài giảng. Các tín hữu sẽ có thể thấy lời Chúa giải quyết các tình huống thực tế của họ như thế nào và đưa ra câu trả lời cho những đòi hỏi hiện sinh của họ ra sao.
Có hai cách để chuẩn bị một bài giảng. Bạn có thể ngồi xuống và dựa vào kiến thức của bản thân và dựa trên sở thích cá nhân, bạn có thể chọn chủ đề và tạo ra các từ ngữ. Và sau đó, khi diễn từ của bạn đã được chuẩn bị xong, bạn có thể quỳ xuống và cầu xin Thiên Chúa ban quyền năng cho lời nói của bạn, thêm Thánh Linh của Ngài vào thông điệp của bạn. Đó là một phương pháp tốt, nhưng nó không phải là tiên tri. Để có tính tiên tri, bạn phải làm ngược lại. Đầu tiên, bạn hãy quỳ xuống và cầu xin Chúa ban cho lời mình muốn nói. Thiên Chúa có trong lòng Ngài những lời đặc biệt cho bất kỳ và cho mọi dịp, và Ngài không bao giờ từ chối tiết lộ những lời đó cho người thừa tác viên yêu cầu Ngài một cách khiêm nhường và bền đỗ. Ban đầu, không có gì khác hơn là một sự thay đổi trái tim gần như không thể nhận thấy: một chút ánh sáng lóe lên trong tâm trí bạn, một từ trong Kinh Thánh thu hút sự chú ý của bạn và làm sáng tỏ một tình huống. Nó có vẻ như chỉ là một hạt nhỏ, nhưng nó chứa tất cả những gì chúng ta cần.
Sau đó, bạn ngồi vào bàn, mở sách, xem ghi chép, thu thập suy nghĩ và tham khảo ý kiến của các Giáo phụ, các thầy dạy, các nhà thơ, nhưng giờ đây, lời Chúa không còn phục vụ cho việc học của bạn nữa, nhưng sự học hỏi của bạn là để phục vụ lời Chúa. Và chỉ khi đó, lời Chúa mới toát ra hết sức mạnh của nó.
Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần
Nhưng phải nói thêm một điều: chỉ chú ý đến lời Chúa thôi thì chưa đủ. “Sức mạnh từ trên cao” phải đổ xuống. Trong Bí tích Thánh Thể, tác động của Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn trong giây phút truyền phép, mà còn là lời kinh được đọc trước đó. Sự hiện diện của Người cũng không thể thiếu đối với Phụng vụ Lời Chúa và, như chúng ta sẽ thấy, đối với phần rước lễ.
Trong Giáo Hội, Chúa Thánh Thần tiếp tục hành động của Đấng Phục Sinh, Đấng, sau Phục Sinh, đã “khai mở tâm trí các môn đệ để hiểu Thánh Kinh” (x. Lc 24,45). Hiến chế Dei Verbum - Lời Chúa - của Công đồng Vatican II cho biết: Kinh Thánh “phải được đọc và giải thích với sự trợ giúp của cùng một Thần Khí mà nhờ đó Kinh Thánh đã được viết ra” (DV, 12). Trong Phụng vụ Lời Chúa, tác động của Chúa Thánh Thần được thực hiện qua sự xức dầu thiêng liêng hiện diện nơi người nói và người nghe.
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. (Lc 4:18)
Vì thế, Chúa Giêsu chỉ ra nơi mà lời được loan báo thu hút sức mạnh của nó. Sẽ là sai lầm nếu chỉ dựa vào bí tích xức dầu mà chúng ta đã lãnh nhận một lần và mãi mãi trong việc thụ phong linh mục hoặc giám mục. Điều này cho phép chúng ta thực hiện một số hành động thiêng liêng, chẳng hạn như quản lý, rao giảng và thực hiện các bí tích. Có thể nói, nó cho chúng ta thẩm quyền để làm những việc nhất định, không nhất thiết là quyền bính để làm những điều đó; nó bảo đảm cho sự kế vị của các Tông đồ, nhưng không nhất thiết là sự thành công của các Tông đồ!
Nhưng nếu sự xức dầu được ban bởi sự hiện diện của Thánh Linh và đó là ân sủng của Ngài, thì chúng ta có thể làm gì để có được điều đó? Trước hết, chúng ta phải bắt đầu từ xác tín này: “Chúng ta đã nhận được sự xức dầu từ Đấng Thánh”, Thánh Gioan bảo đảm với chúng ta (1 Ga 2:20). Đó là, nhờ phép rửa tội và thêm sức - và, đối với một số người, bí tích truyền chức linh mục hoặc giám mục - chúng ta đã có được sự xức dầu. Thật vậy, theo giáo lý Công Giáo, các bí tích ấy đã in sâu vào tâm hồn chúng ta một nét đặc trưng không thể xóa nhòa, giống như một dấu ấn hay một con dấu. Thánh Phaolô viết “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Kitô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng.” (2Cr 1: 21-22).
Tuy nhiên, sự xức dầu này giống như một loại thuốc mỡ thơm được đựng trong một cái lọ: nó vẫn trơ ra và không tỏa ra bất kỳ mùi thơm nào nếu nó không bị vỡ và cái lọ chưa được mở. Đây là điều đã xảy ra với cái bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng do người phụ nữ trong Tin Mừng đập ra, làm hương thơm tràn ngập cả nhà (Mc 14: 3). Đây là phần việc của chúng ta về việc xức dầu. Phần việc của chúng ta không phải là tạo ra việc xức dầu, nhưng phần việc của chúng ta là loại bỏ các chướng ngại vật ngăn cản bức xạ của nó. Không khó đối với chúng ta để hiểu ý nghĩa của việc làm vỡ chiếc bình bạch ngọc. Cái bình là nhân tính của chúng ta, là bản ngã của chúng ta, đôi khi là chủ nghĩa duy trí khô cằn của chúng ta. Phá vỡ nó đồng nghĩa với việc đặt mình vào trạng thái đầu hàng Chúa và chống lại thế gian.
May mắn thay cho chúng ta, không phải mọi thứ đều phụ thuộc vào nỗ lực khổ hạnh. Trong trường hợp này, đức tin, lời cầu nguyện và sự van xin khiêm tốn có thể làm được nhiều điều. Vì vậy, hãy xin xức dầu trước khi bắt đầu rao giảng hoặc đưa ra các hành động quan trọng trong việc phụng sự Nước Trời. Khi chúng ta chuẩn bị cho việc đọc phúc âm và bài giảng, Phụng vụ khiến chúng ta cầu xin Chúa thanh tẩy tâm hồn và môi miệng của chúng ta để có thể công bố phúc âm một cách xứng đáng. Tại sao đôi khi không nói (hoặc ít nhất là tự suy nghĩ trong lòng): “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin hãy xức dầu và tâm trí con để con có thể công bố lời Ngài bằng sự ngọt ngào và quyền năng của Thánh Linh”?
Việc xức dầu không chỉ cần thiết để người rao giảng loan báo Lời Chúa một cách hữu hiệu, mà còn cần người nghe hoan nghênh. Thánh sử Gioan đã viết cho cộng đoàn của mình: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết... dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa.”(1 Ga 2: 20,27).
Không phải bất kỳ khóa đào tạo nhân bản nào cũng là vô ích, nhưng vẫn chưa đủ “Chính người thầy dạy nội tâm là người thực sự hướng dẫn, chính Chúa Kitô và nguồn cảm hứng của Ngài là người hướng dẫn. Khi thiếu sự soi dẫn và sự xức dầu của Ngài, thì những lời nói bên ngoài chỉ gây ra tiếng động vô ích mà thôi”. Chúng ta hãy hy vọng rằng ngay cả ngày hôm nay chính Chúa Giêsu Kitô đã hướng dẫn chúng ta bằng nguồn cảm hứng nội tâm của Ngài và bài nói chuyện của tôi không phải là một “tiếng ồn vô ích”.
1.Thomas Aquinas, S.Th. III, q. 60, a.2,2
2.Augustine, Sermo 112 (PL 38,643)
3.Paul VI, Mysterium fidei (AAS 57, 1965, trang 753 ss).
4.Justin, Apologia, 67, 3-4.
Source:Cantalamessa
Vietcatholic News
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét