Giáo triều Roma tĩnh tâm Mùa Chay năm 2022, bài III: Hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô
Giáo triều Roma tĩnh tâm Mùa Chay năm 2022
Bài III: HIỆP THÔNG VỚI MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa,
Giảng thuyết viên của Phủ Giáo hoàng
Thứ Sáu, ngày 25.3.2022
Trong các bài giáo lý của chúng ta giải thích về Bí tích Thánh Thể - sau các bài Phụng vụ Lời Chúa và việc Truyền phép - chúng ta đã đạt tới thời khắc thứ ba, đó là phần hiệp lễ.
Đây là thời điểm trong Thánh lễ thể hiện rõ ràng nhất sự hiệp nhất và bình đẳng căn bản của mọi thành phần dân Chúa, không có bất kỳ sự phân biệt nào về cấp bậc và chức vụ. Trước thời điểm đó, người ta có thể thấy rõ sự phân biệt giữa các thừa tác vụ: trong phụng vụ Lời Chúa, sự phân biệt giữa Hội thánh giảng dạy và Hội thánh học tập; trong việc truyền phép, có sự phân biệt giữa chức tư tế thừa tác và chức tư tế phổ quát. Trong việc hiệp lễ thì không hề có sự phân biệt nào cả. Việc hiệp lễ mà người tín hữu được lãnh nhận cũng giống như việc hiệp lễ của linh mục hoặc giám mục. Hiệp thông Thánh Thể là lời tuyên xưng mang tính bí tích rằng: trong Hội thánh, hiệp thông [koinonia] xuất hiện đầu tiên và quan trọng hơn phẩm trật.
Chúng ta hãy suy tư về hiệp thông Thánh Thể bắt đầu từ một bản văn của thánh Phaolô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,16-17).
Từ ngữ “thân thể” xuất hiện hai lần trong hai câu trích, nhưng với nghĩa khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất (“Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?”), từ ngữ “Thân thể” ở đây chỉ thân thể đích thật của Đức Kitô, sinh ra bởi Đức Maria, đã chết và sống lại; trong trường hợp thứ hai (“chúng ta là một thân thể”), ở đây, “thân thể” nói về nhiệm thể Chúa Kitô là Hội thánh. Không thể nói một cách rõ ràng và tổng hợp hơn rằng hiệp thông Thánh Thể luôn là hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với anh chị em mình; có thể nói là trong đó có một hiệp thông chiều dọc, và một hiệp thông chiều ngang. Chúng ta hãy bắt đầu với chiều kích đầu tiên.
Trong Thánh Thể, hiệp thông với Chúa Kitô
Loại hiệp thông nào được thiết lập giữa chúng ta và Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể? Trong Tin Mừng Gioan, chương 6 câu 57, Đức Giêsu nói: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”. Giới từ “nhờ” ở đây (trong tiếng Hy Lạp là dià) có giá trị nguyên nhân và hiệu quả cuối cùng; nó chỉ ra cả chuyển động của điểm xuất phát và chuyển động của điểm đến. Có nghĩa là ai ăn thân thể Đức Kitô, thì sống “nhờ” Người, tức là sống nhờ vào sự sống đến từ Người; và sống “cho” Người, tức là cho vinh quang của Người, tình yêu của Người, Vương quốc của Người. Như Chúa Giêsu sống nhờ Chúa Cha và cho Chúa Cha, do đó, bằng việc thông truyền bản thân chúng ta trong mầu nhiệm Mình và Máu Chúa Giêsu, chúng ta sống nhờ Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu.
Trên thực tế, có một nguyên lý: sự sống mạnh hơn sẽ biến đổi sự sống kém mạnh hơn thành chính nó, chớ không phải ngược lại. Đó là rau biến đổi khoáng chất, chớ không phải ngược lại; đó là động vật biến đổi cả rau và khoáng chất, chớ không phải ngược lại. Vì vậy, bây giờ, trên bình diện thiêng liêng, chính thần tính Thiên Chúa biến đổi con người trở nên thánh thiêng, chớ không phải ngược lại. Vì vậy, trong tất cả các trường hợp khác, chính người ăn là người biến đổi những gì mình ăn, thì ở đây, trong Bí tích Thánh Thể, chính Đấng bị ăn biến đổi bất cứ ai ăn Người thành chính Người. Đối với những ai đến lãnh nhận Thánh Thể, Chúa Giêsu lặp lại điều mà thánh Augustinô đã nghe chính Người nói: “Không phải ngươi sẽ biến đổi Ta thành ngươi, nhưng chính Ta sẽ biến đổi ngươi thành Ta” (Thánh Augustinô, Tự thuật, VII, 10).
Một triết gia vô thần đã nói: “Con người là những gì anh ta ăn” (F. Feuerbach), nghĩa là ở con người không có sự khác biệt về chất giữa vật chất và tinh thần, mà mọi thứ đều được rút gọn về thành phần hữu cơ và vật chất. Một người vô thần đã đưa ra công thức tốt nhất về một mầu nhiệm Kitô giáo, dù ông không biết về điều đó. Nhờ Thánh Thể, người Kitô hữu mới thực sự là những gì mình ăn! Trước đó rất lâu, thánh Lêô Cả cũng đã viết: “Việc chúng ta tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô, không nhằm điều gì khác hơn là làm cho chúng ta trở thành Đấng mà chúng ta đã ăn” (Thánh Lêô Cả, Bài giảng số 12, về cuộc Thương khó, 7, trong CCL 138A, tr. 388).
Do đó, trong Bí tích Thánh Thể, không chỉ có sự hiệp thông giữa Chúa Kitô và chúng ta, mà còn có sự biến đổi; hiệp thông không chỉ là sự kết hợp của hai thân thể, hai tâm trí, hai ý chí, nhưng nó là sự biến đổi, đồng hóa vào một thân thể, vào một tâm trí và ý chí của Đức Kitô. “Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17).
Dinh dưỡng - của ăn và uống - không phải là sự tương tự duy nhất mà chúng ta có đối với việc rước lễ Thánh Thể, ngay cả khi nó không thể thay thế được. Có điều gì đó mà nó không thể diễn tả được, cũng như sự tương đồng về sự hiệp thông giữa cây nho và cành cây không thể diễn tả được. Đây là sự giao cảm giữa các sự vật, không phải giữa con người với nhau. Họ giao tiếp, nhưng họ không biết họ giao tiếp. Tôi muốn nhấn mạnh vào một phép loại suy khác có thể giúp chúng ta hiểu bản chất của hiệp thông Thánh Thể là một sự hiệp thông giữa những người biết và muốn trở nên hiệp thông.
Thư gửi tín hữu Êphêxô nói rằng hôn nhân của con người là biểu tượng của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng!” (Ep 5,31-33). Bí tích Thánh Thể - dùng một hình ảnh táo bạo nhưng chân thực - là sự viên mãn của cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và Hội thánh, và đời sống Kitô hữu không có Thánh Thể là một cuộc hôn nhân được phê chuẩn nhưng không viên mãn. Lúc hiệp lễ, vị chủ tế thốt lên: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa!” (Beati qui ad coenam Agni vocati sunt) và Ngày tận thế - từ đó cụm từ này được sử dụng - nói rõ ràng hơn: “Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!” (Kh 19,9).
Bây giờ - một lần nữa theo thánh Phaolô – hệ quả tức thì của hôn nhân là thân xác (nghĩa là toàn thể con người) của chồng trở thành vợ và ngược lại, thân thể của vợ trở thành thân thể của chồng (x. 1Cr 7,4). Điều này có nghĩa là xác thịt nguyên vẹn và ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể trở thành “của tôi”, nhưng cũng là xác thịt của tôi, nhân tính của tôi, trở thành của Đức Kitô, do Người làm nên của riêng Người. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, nhưng Chúa Kitô cũng “lãnh nhận” mình và máu chúng ta nữa! Thánh Hilariô thành Poitiers viết, Chúa Giêsu “nhận lãnh xác thịt của người nhận lãnh Ngài”. Chúa Kitô nói với chúng ta: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy”, nhưng chúng ta cũng có thể nói với Chúa rằng: “Chúa hãy cầm lấy mà ăn, này là mình con”.
Bây giờ chúng ta hãy cố gắng hiểu hệ quả của tất cả những điều này. Trong cuộc sống trần thế của Người, Chúa Giêsu không có tất cả những kinh nghiệm con người có thể có và có thể tưởng tượng được. Đầu tiên, đó là một người đàn ông, không phải một người phụ nữ: Chúa Giêsu không trải qua tình trạng của một nửa nhân loại; Người không kết hôn, Người không trải nghiệm được ý nghĩa của việc kết hợp trọn đời với một thụ tạo khác, để sinh con cái, hoặc tệ hơn là mất con; Người chết trẻ và Người không biết đến tuổi già...
Nhưng bây giờ, nhờ Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu có tất cả những kinh nghiệm này: thân phận nữ tính trong người phụ nữ, bệnh tật ở người bệnh, tuổi già ở người già, sự bấp bênh của những người di cư, nỗi kinh hoàng của người bị bắn phá... Không có gì trong đời tôi mà không thuộc về Đức Kitô. Không ai nên nói: “Ah! Chúa Giêsu không biết thế nào là lấy chồng, làm đàn bà, mất con, ốm đau, già yếu, trở thành người đen đủi!”
Điều mà Đức Kitô đã không thể sống “theo xác thịt”, thì bây giờ Người sống và “kinh nghiệm” như đã sống lại “theo Thần Khí”, nhờ sự hiệp thông manh tính hôn nhân trong Thánh Lễ. Thánh nữ Êlisabét Chúa Ba Ngôi đã hiểu được lý do sâu xa của điều này khi thánh nữ viết cho mẹ mình: “Tân nương nay thuộc về Đấng Tình Quân. Đức Lang Quân của con giờ đây đã có được con rồi. Chúa muốn con trở thành một người hỗ trợ cho Chúa”.
Thật là một lý do vô tận cho sự ngạc nhiên và an ủi khi nghĩ rằng nhân loại của chúng ta trở thành nhân tính của Đức Kitô! Nhưng cũng có trách nhiệm gì từ tất cả những điều này! Nếu mắt tôi đã trở thành mắt của Đức Kitô, miệng tôi là của Đức Kitô, thì cớ gì tôi không để cho mắt tôi nhìn vào những hình ảnh dâm ô, không để lưỡi tôi nói lời chống lại anh em tôi, không để thân thể tôi bị dùng như một công cụ của tội lỗi. “Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!”, thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Côrintô với sự kinh hoàng như thế (1Cr 6,15).
Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là tất cả; phần đẹp nhất bị thiếu. Thân thể nàng dâu thuộc về chàng rể; đúng, nhưng thân thể của chàng rể cũng thuộc về nàng dâu. Từ việc cho đi, chúng ta phải ngay lập tức vượt qua để đi đến việc nhận lãnh trong sự hiệp thông. Không nhận lãnh điều gì khác hơn là sự thánh thiêng của Đức Kitô! “Sự trao đổi kỳ diệu” (admirabile commercium) mà phụng vụ nói đến sẽ thực sự diễn ra ở đâu trong đời sống của người tín hữu, nếu nó không được thực hiện vào lúc hiệp lễ?
Ở đó, chúng ta có cơ hội trao cho Chúa Giêsu những chiếc áo rách bẩn thỉu của mình và đón nhận từ Người “đức chính trực công minh” (Is 61,10). Thật vậy, có lời chép rằng “chính nhờ Thiên Chúa, Đức Kitô Giêsu đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và ơn cứu chuộc cho chúng ta” (x. 1Cr 1,30). Những gì Người đã trở nên “cho chúng ta” thì đã được định sẵn cho chúng ta, thuộc về chúng ta. Cabasilas viết: “Vì chúng ta thuộc về Chúa Kitô hơn thuộc về chúng ta, ‘Người đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta’ (1Cr 6,20), nên một cách trái ngược những gì thuộc về Chúa Kitô thì lại thuộc về chúng ta hơn là nếu nó là của chúng ta”. Chúng ta chỉ cần nhớ một điều: chúng ta thuộc về Đức Kitô bởi quyền lợi, Người thuộc về chúng ta bởi ân sủng!
Đó là một khám phá có khả năng chắp cánh cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Đây là một sự đột phá của đức tin và chúng ta nên cầu nguyện xin Chúa đừng để chúng ta chết trước khi chúng ta đạt được đức tin đó.
Bí tích Thánh Thể, hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi
Suy niệm về Bí tích Thánh Thể cũng giống như nhìn thấy những chân trời ngày càng rộng lớn đang mở ra trước mặt một người khi người đó càng tiến lên cao thì càng nhìn xa. Chân trời Kitô học về sự hiệp thông mà chúng ta đã chiêm ngưỡng cho đến nay mở ra một chân trời Ba Ngôi. Nói cách khác, nhờ hiệp thông với Chúa Kitô, chúng ta đi vào trong sự hiệp thông với cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong “lời nguyện hiến tế”, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha rằng: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17,23). Những lời: “Con ở trong họ và Cha ở trong con” có nghĩa là Chúa Giêsu ở trong chúng ta và Chúa Cha ở trong Chúa Giêsu. Vì vậy, người ta không thể đón nhận Chúa Con mà không đón nhận Chúa Cha đến với mình. Lời của Đức Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9) cũng có nghĩa là “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Chúa Cha”.
Lý do cuối cùng cho điều này là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một và bản tính thần linh không thể tách rời, tất cả Ba Ngôi là “một”. Về vấn đề này, thánh Hilariô thành Poitiers đã viết: “Chúng ta kết hiệp với Đức Kitô, Đấng không thể tách rời khỏi Chúa Cha. Khi ở trong Chúa Cha, Người vẫn hiệp nhất với chúng ta; do đó, chúng ta cũng đi đến sự hiệp nhất với Chúa Cha theo cách đó. Thật vậy, Đức Kitô ở trong Chúa Cha một cách đồng bản tính, vì Người được sinh ra bởi Chúa Cha; nhưng theo một cách nào đó, chúng ta cũng nhờ Đức Kitô mà được ở trong Chúa Cha một cách đồng bản tính. Đức Kitô sống nhờ Chúa Cha, và chúng ta sống nhờ nhân tính của Người” (Thánh Hilariô, De Trinitate, VIII, 13-16 (PL 10, 246tt).
Những gì được nói về Chúa Cha cũng áp dụng cho Chúa Thánh Thần. Trong Bí tích Thánh Thể có một bản sao bí tích của những gì đã diễn ra trong lịch sử cuộc đời trần thế của Đức Kitô. Vào giây phút sinh ra trên địa cầu, chính Chúa Thánh Thần đã ban Chúa Kitô cho thế giới (thật vậy, Mẹ Maria đã thụ thai bởi phép của Chúa Thánh Thần!); vào giờ chết, chính Chúa Kitô là Đấng ban Thánh Thần cho thế gian: khi trút hơi thở cuối cùng, Người đã “trao Thần Khí”. Tương tự, trong Bí tích Thánh Thể, lúc truyền phép, chính Chúa Thánh Thần ban Chúa Giêsu cho chúng ta, vì nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, mà bánh được biến đổi thành thân thể Đức Kitô; tại thời điểm hiệp lễ, chính Đức Kitô, Đấng đến trong chúng ta, ban Thánh Thần cho chúng ta.
Thánh Irênê (người mà cuối cùng chúng ta có thể chào đón với tư cách là Tiến sĩ của Hội thánh!) đã nói rằng: Chúa Thánh Thần là “chính sự hiệp thông của chúng ta với Chúa Kitô”. Trong sự hiệp thông, Chúa Giêsu đến với chúng ta với tư cách là Đấng ban Thần Khí. Không phải như Người xưa kia đã ban Thánh Thần, nhưng như Người bây giờ, một lần nữa, khi hiến tế trên bàn thờ, “Người trao Thần Khí” (x. Ga 19,30).
Tất cả những gì tôi đã nói về Chúa Ba Ngôi và Thánh Thể được tóm tắt một cách trực quan trong biểu tượng bức tranh ghép [icon] của Rublev về ba Thiên thần xung quanh bàn thờ. Cả Ba Ngôi ban cho chúng ta Thánh Thể và tự hiến cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể không chỉ là Lễ Phục sinh hàng ngày của chúng ta; đó cũng là Lễ Hiện Xuống hàng ngày của chúng ta!
Hiệp thông với nhau
Từ những đỉnh cao chóng mặt này, giờ đây chúng ta hãy trở lại trần gian và chuyển sang chiều kích thứ hai của hiệp thông Thánh Thể: hiệp thông với nhiệm thể Chúa Kitô là Hội thánh. Chúng ta hãy nhớ lại lời của thánh Tông đồ rằng: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17).
Phát triển một tư tưởng đã được phác thảo trong sách Didache, thánh Augustinô nhìn thấy một sự tương tự trong cách thức mà hai thân thể của Đức Kitô được hình thành: Thánh Thể và Hội thánh. Trong trường hợp của Bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta có lúa mì rải rác trên các ngọn đồi, lúa mì được đập, xay, trộn trong nước và nấu trên lửa trở thành bánh dâng lên bàn thờ; còn trong trường hợp của Hội thánh, chúng ta có vô số người, những người hiệp nhất bằng cách rao giảng Tin Mừng, bằng cách ăn chay và sám hối, dìm vào trong nước khi làm phép rửa và nấu chín trong lửa của Thánh Linh, tạo thành thân thể là Hội thánh.
Về vấn đề này, lời của Đức Kitô ngay lập tức đến gặp chúng ta: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Nếu bạn đi rước lễ, nhưng bạn đã xúc phạm một người anh chị em của mình, và bạn không được hòa giải, bạn chứa một mối hận thù, thì theo thánh Augustinô, bạn giống một người nhìn thấy một người bạn lâu năm không gặp tiến đến với mình. Người ấy chạy đến với người bạn, nhón chân lên hôn lên trán người bạn… Nhưng khi làm điều này, người ấy đã không để ý rằng, mình đang dẫm lên chân người bạn bằng đôi giày đinh của mình. Các anh chị em của chúng ta là đôi chân của Chúa Giêsu, Đấng vẫn còn bước đi trên trần gian.
Hiệp thông với những người nghèo khổ
Điều này đặc biệt đúng đối với những người nghèo, những người khốn khổ, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Đấng đã nói về bánh: “Này là Mình Thầy”, thì cũng nói về người nghèo. Đức Giêsu đã nói điều này khi đang nói về những gì đã làm cho những kẻ đói, kẻ khát, người tù và người trần truồng, thì Người tuyên bố trịnh trọng rằng: “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!”. Điều này chẳng khác nào nói: “Vì xưa Ta đói; Ta khát; Ta là khách lạ; Ta đau yếu; Ta ngồi tù” (x. Mt 25,35tt). Tôi đã nhớ những lần mà khoảnh khắc khi sự thật này gần như bùng nổ trong tôi. Tôi đang thực hiện một nhiệm vụ ở một đất nước rất nghèo. Băng qua các con đường của thủ đô, tôi thấy đâu đâu cũng có những đứa trẻ phủ trên mình một vài mảnh áo rách bẩn thỉu, chạy theo xe rác để kiếm chút gì ăn. Vào một khoảnh khắc nào đó, cứ như thể Chúa Giêsu đang nói với tôi rằng: “Hãy xem kỹ: đó là thân thể Thầy!”.
Người em gái của triết gia vĩ đại Blaise Pascal kể sự việc này với một người anh trai của Pascal. Trong lần ốm bệnh cuối cùng của mình, ông ta không thể giữ lại bất cứ thứ gì ông ta đã ăn, và vì lý do này mà họ không cho phép ông ta nhận Thánh Thể như của ăn đàng [viaticum] mà ông ta nhất quyết yêu cầu. Sau đó, ông nói: “Nếu không thể ban phép Thánh Thể cho tôi, thì ít nhất hãy để một người nghèo khó nào đó vào phòng của tôi. Nếu tôi không thể hiệp thông với Đấng là Thủ Lãnh, thì tôi muốn rằng, ít nhất tôi cũng phải được hiệp thông với các chi thể của Người [là Hội thánh]”.
Trở ngại duy nhất cho việc rước lễ mà thánh Phaolô nêu rõ ràng là sự kiện trong khi họp cộng đoàn là, “kẻ thì đói, người lại say”: “Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say” (1Cr 11,20-21). Nói “đây không phải là ăn Bữa Tiệc Ly của Chúa” chẳng khác nào nói: bữa ăn của bạn không còn là Thánh Thể đích thực nữa! Đó là một tuyên bố mạnh mẽ, ngay cả từ quan điểm thần học, mà có lẽ chúng ta không chú ý đến.
Ngày nay, tình trạng có một số nơi đói và một số nơi thừa lương thực không còn là vấn đề địa phương mà là vấn đề toàn cầu. Không thể có điểm chung nào giữa bữa ăn tối của Chúa và bữa ăn trưa của người giàu, nơi ông chủ tổ chức tiệc tùng xa hoa, không để ý đến những người nghèo đang ở trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19tt). Mối quan tâm chia sẻ những gì mình có với những người có nhu cầu, gần và xa, phải là một phần không thể thiếu trong đời sống Thánh Thể của chúng ta.
Không có ai mà trong một tuần không thể muốn thực hiện một trong những cử chỉ mà Chúa Giêsu nói: “Anh đã làm điều đó cho chính Ta vậy”. Chia sẻ không chỉ đơn giản có nghĩa là “cho một cái gì đó”: lương thực, quần áo, lòng hiếu khách; nó cũng có nghĩa là đi thăm một ai đó: một tù nhân, một người bệnh, một người già cả neo đơn ở một mình. Đó không chỉ là đưa mớ tiền giúp đỡ cho một ai đó, mà còn là dành thời giờ cho họ nữa. Người nghèo và những người đau khổ cần tình liên đới và tình yêu thương, không kém gì cơm ăn áo mặc, nhất là trong thời bị phong tỏa cô lập do đại dịch Covid gây ra.
Đức Giêsu đã nói: “Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em; còn Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu!” (Mt 26,11). Điều này cũng đúng theo nghĩa là chúng ta không phải lúc nào cũng có thể rước Mình Thánh Chúa trong Bí tích Thánh Thể, và ngay cả khi chúng ta làm vậy, thì việc hiệp lễ đó cũng chỉ kéo dài vài phút, trong khi chúng ta luôn có thể nhận được Mình Thánh Chúa trong những người nghèo. Không có giới hạn ở đây, chỉ cần chúng ta muốn là có. Chúng ta luôn có người nghèo ở bên cạnh chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta gặp ai đó đang đau khổ, nhất là khi chúng ta đang phải đối mặt với một số hình thức đau khổ tột cùng nào đó, nếu chúng ta chú ý lắng nghe, chúng ta sẽ nghe thấy, với đôi tai của đức tin, lời của Chúa Kitô: “Này là Mình Thầy!”.
Tôi xin kết thúc bằng một câu chuyện nho nhỏ mà tôi đã đọc ở đâu đó. Một người đàn ông nhìn thấy một cô bé bị suy dinh dưỡng, đi chân đất và run lên vì đói rét, và gần như ông tức giận hét lên với Chúa rằng: “Chúa ơi, tại sao Chúa không làm một điều gì đó cho cô bé đi chứ?”. Chúa trả lời ông rằng: “Dĩ nhiên, Ta đã làm một điều gì đó cho cô bé đó rồi: Ta đã dựng nên con để con giúp đỡ cô bé!”
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết nhắc nhở bản thân mình đúng lúc.
Chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.
Dịch từ nguyên tác tiếng Ý tại cantalamessa.org
----------
1. x. Thánh Augustinô, Tự thuật, VII, 10.
2. Thánh Lêô Cả, Bài giảng số 12, về cuộc Khổ nạn, 7 (CCL 138A, tr. 388).
3. Thánh Hilariô Poitiers, De Trinitate, 8, 16 (PL 10, 248): “Eius tantum in se adsumptam habens carnem, qui suam sumpserit”.
4. Thánh Elisabét Chúa Ba Ngôi, Thư 261, gửi mẹ (trong Scritti, Rôma 1967, trang 457).
5. N. Cabasilas, Đời sống trong Đức Kitô, IV, 6 (PG 150, 613).
6. Thánh Hilariô, De Trinitate, VIII, 13-16 (PL 10, 246tt).
7. Thánh Irênê, Adversus haereses, III, 24, 1.
8. Thánh Augustinô, Sermo Denis, 6 (PL 46, 834tt).
9. x. Thánh Augustinô, Chú giải về Thư thứ nhất của thánh Gioan, 10,8.
10. Cuộc đời của Pascal, trong tác phẩm, B. Pascal, Oeuvres Coalètes, Paris 1954, tr. 3tt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét