Trang

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ

Chúa Nhật XIII Mùa Thường Niên
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
(phần II)

GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
CHÚA NHẬT LỄ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ & PHAOLÔ
Sách Tông Đồ Công Vụ 12.1-11;
Thư Thứ Hai của Tánh Phaolô gửi Timôtê 4.6-8,17-18
và Phúc Âm Thánh Matthêô 16.13-19

I.   Giáo Huấn Phúc Âm:

Chúa thiết lập Giáo Hội trường tồn trên đá tảng Phêrô.Chúa trao quyền lãnh đạo Giáo Hội, quyền cầm buộc cho Phêrô. Sauk hi khi Phêrô đã được Thiên Chúa Cha soi sáng tuyên xưng Thiên tính của con người Chúa Giêsu rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”

Giáo Hội Chúa trường tồn dù bị quyền lực Satan tấn công. Vì chính Chúa thiết lập Giáo Hội trên đá tảng vững bền.

Người lãnh đạo Giáo Hội dưới sự soi dẫn của Thiên Chúa để cho mọi người biết tuyên xưng : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”

II.  Vấn nạn Phúc Âm:

Tông đồ Phêrô:

Phêrô nguyên tên gốc Do Thái là Simon, là anh em với ông Anrê. Có hai cặp anh em ruột là Anrê - Simon và Giacôbê – Gioan là người làng Bethsaida, bên cạnh hồ Galilê (Mátthêu: 4,23). Những Ông nầy đều là dân thuyền chài kiếm sống ở Biển Hồ Galilê và được Chúa kêu gọi làm những môn đệ đầu tiên của Ngài sau khi đã cho họ bắt được một mẻ cá đầy (Máccô: 1,16-18; Mátthêu 4,18-22; Luca 5,1-11 và Luca: 5, 4:11).

Simon gặp Chúa Giêsu qua sự giới thiệu của Anrê và được Người đặt tên là Kepha theo tiếng Aram (Gioan: 1, 42) (hay Cephas trong tiếng Hy Lạp). Kepha hay Cephas dịch sang Petros trong Hy Lạp đều có cùng một nghĩa là Đá. Tiếng Pháp Pierre, tiếng Anh Peter, có nghĩa là Rock và tiếng Việt nhái âm đọc là Phêrô và thường phải nói thêm “có nghĩa là Đá!”

Chúa đã có ý chọn Phêrô làm thủ lãnh qua việc:

Đổi tên Ông từ Simon sang Phêrô

Tên Phêrô luôn đứng đầu danh sách các Tông Đồ được ghi trong Máccô 3,16-19; Mátthêu 10,2-4; Luca 6,14-16; và Công vụ: 1,13). “Sau đây là tên của mười hai Tông đồ đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô”

Tên của ông luôn được nhấn mạnh (Mátthêu: 10:2): “Và Người lập nhóm mười hai để các ông ở lại với Người. Người sai các ông đi rao giảng và đặt tên cho Simon là Phêrô”

Phêrô đã nhân danh các tông đồ khác mà trả lời khi Chúa có vấn nạn, như trong việc tuyên tín Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. (Mátthêu: 16 – 16)

Phêrô luôn ở bên cạnh chúa trong những biến cố đặc biệt, cũng như Ông có những kỷ niệm thật sâu đậm với Chúa:  Khi Chúa chữa con gái Ông chủ Hội Đường, Ông Giairô; Chúa cho đi trên mặt nước; Chúa biến hình sáng láng trên núi Tabor; Chúa hấp hối trong vườn Cây dầu; Theo sát Chúa vào tận dinh thượng tế Caipha khi Chúa bị bắt và bị xét xử; Chối Chúa ba lần; nhảy xuống biển bơi vào bờ; Bị Chúa cật vấn 3 lần là Siomon, con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người nầy không? Sau cùng trao quyền chủ chăn tôi cáo…

Sau khi Chúa Phục Sinh và lên trời. Sauk hi đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Phêrô thi hành quyền thủ lãnh được Chúa trao: Ông giảng tại Công trường Giêrusalem và có 3000 người rửa tội trong ngày ấy. Ông chủ tọa việc bầu chọn Matthias thay thế Giuđa Iscariôt (Cv 1,15-26). Phêrô chủ tọa Công Đồng đầu tiên tại Giêrusalem (Công vụ chương 15) Khi lên Giêrusalem lần đầu tiên, ông Phaolô đi gặp ông Phêrô và các tông đồ nồng cốt như Giacôbê và Gioan để tỏ ra tinh thần vâng phục vị thủ lãnh các tong đồ (Galata 1.18-19) Ông làm nhiều phép lạ chữa bệnh tật nhân danh Đức Kitô, Đấng Cứu Thế….

Phêrô đến Rôma năm 42 và thành lập Cộng đoàn Kitô giáo ở đó.       Theo lưu truyền, Phê-rô bị bắt và bị tống giam. Tại nhà ngục, ông đã cảm hóa hai người lính canh ngục tên là Processus và Martinianus. Cả hai được rửa tội và tử đạo. Cuối cùng vì không có quốc tịch Rô-ma, ông bị kết án tử hình trên thập tự. Bị dẫn tới hí trường Caligula trên đồi Vatican, trông thấy thập giá, Phê-rô cảm thấy mình không xứng đáng được chết như thầy mình, đã yêu cầu được đóng đinh ngược. Phê-rô tử đạo năm 64 dưới thời bạo Chúa Nêrô.

Tông đồ Phaolô:

Thánh Phaolô tên thật là Saolê, thuộc chi tộc Benjamin sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay thuộc Thổ nhĩ Kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma. Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Phaolô được giáo dục trong truyền thống thuần Do Thái Giáo. Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn.

Lòng yêu mến tôn giáo tổ tiên khiến Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Tuy nhiên, Chúa đã hoán cải Ông trên đường Ông đi tìm giết người theo Chúa: Ông ngã ngựa, mù mắt và đã có cả 3 năm giờ để chuyển hướng. Chúa đã chiến thắng và đã dùng Phaolô như một tong đồ truyền giáo số một. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.

Ngoài công cuộc truyền giáo cho dân ngoại. Phaolô có công rất lớn trong việc xây dựng nền thần học cho Kitô giáo qua 14 lá thư gửi cho các giáo đoàn. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nêro, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.

Quyền tối thượng của Phêrô và Giám Mục Rôma tức các Đức Giáo Hoàng:

Nơi chốn lịch sử:
Nơi Chúa trao quyền thủ lãnh tối cao lãnh đạo Giáo Hội cho Phêrô gọi là Tabgha. Tabgha là một địa danh nằm phía Tây Bắc biển hồ Galilê. Theo truyền thống Kitô giáo, đây cũng chính là nơi Chúa đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều theo tường trình của Phúc Âm Thánh Matcô 6.30-46. Đây cũng chính là nơi mà Chúa Phục sinh đã hiện ra lần thứ ba, theo tường trình của Phúc Âm Gioan 21.1-24. Đây là lần hiện ra rất quan trọng: Chúa chất vấn Phêrô ba lần và trao quyền lãnh đạo tối cao cho Phêrô "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?" Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.

Ngày nay nơi đây có nhà thờ mang tên “Nhà Thờ trao quyền thủ lãnh tối cao cho Phêrô” (Church of the Primacy of Peter) do quí linh mục dòng Phanxicô cai quản. Nhà thờ trao quyền tối cao cho Phêrô được xây dựng vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ tư. Sau nầy, năm 1938 được xây dựng cho phù hợp với ý nghĩa của Phúc Âm hơn: Nhà thờ nằm bên bờ hồ và một vịnh nhỏ dẫn nước gần sát bên nhà thờ. Bên ngoài nhà thờ cạnh hướng ra biển hồ có thềm đá, chỉ nơi Chúa đứng để hỏi các tông đồ: “Chúng con có bắt được gì không?” Bên trong nhà thờ có chỗ gọi là Mensa Christi, tức nơi Chúa dọn ăn sáng cho các tông đồ. Phía trước nhà thờ có tượng Chúa trao quyền thủ lãnh cho Phêrô bằng đồng đen. Tất cả đều được tạo dựng sau nầy theo tường thuật trong Phúc Âm. Thật ra không ai dám cả quyết chính xác nơi chốn Chúa trao quyền cho Phêrô. Cũng giống như vậy khi đề cập nơi Chúa sinh ra ở Bêlem. Người ta đánh dấu nơi Chúa sinh ra bằng một ngôi sao David dưới hầm nhà thờ Chính Thống Giáo. Khách hành hương chỉ nên tỏ lòng tôn kính nơi đâu gần đây Chúa sinh ra, chứ còn nơi chốn chính xác thật không cần thiết và không thể quả quyết.

Là thủ lãnh tối cao, Phêrô có nhiệm vụ gì?

Phêrô phải là Kêpha, tức là Ðá. Chúa đã đổi tên Simon trong tiếng Do Thái sang Phêrô, có nghĩa là Đá và trên Đá Tảng Phêrô, Chúa thành lập Giáo Hội và “dù cho quỉ hoả ngục cũng không thắng nỗi!” Nên nhiệm vụ hàng đầu của Phêrô là đá tảng vững bền, xây nền Giáo Hội.

Phêrô có quyền cầm buộc: Phêrô thật sự nhận thần quyền do Chúa trao ban “Phêrô, con là Đá, trên đá nầy, Ta sẽ xây Giáo Hội của Ta. Dù quỉ hoả ngục cũng không thắng nỗi. Ta trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất trên trời cũng cầm buộc. Sự gì con tháo gở dưới đất, trên trời cũng tháo gở” Hay sau khi sống lại, Chúa hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm buộc tội ai thì tội người ấy bị cầm buộc” như trong Phúc Âm Thánh Gioan 20.21-23 và trong Matthêo 18.18.Quyền thủ lãnh của Phêrô bao gồm cả quyền lập pháp tức lập luật và giải thích luật để Giáo Hội tuân giữ mà mang ích lợi cho phần rỗi thiêng liêng.

Phêrô là thủ lãnh và là Mục tử nhân hậu: Trong Cựu Ước, Môisen, Đavít là những lãnh tụ, nhưng họ từng là những mục tử, những người chăn chiên, những người đi theo bầy đàn của mình: Biết chiên, lo cho chiên, dẫn chiên đến dồng cỏ xanh, đến suối nước trong, đến nơi nghỉ ngơi bổ dưỡng (Thánh Vịnh 23) Chủ chiên đi tìm chiên lạc. Chủ chiên phải hy sinh mạng sống vì đàn chiên.  Phêrô được trao quyền thủ lãnh, tức quyền mục tử để chăm lo, chăn dắt và mang phúc lợi cho đàn chiên Chúa.
Làm sao biết hay chứng minh được là các Đức Giáo Hoàng kế vị Thánh Phêrô?

Những Giáo phái Tin Lành không tin chuyện các Giáo Hoàng Công Giáo kế vị Thánh Phêrô. Vì nhiệm vụ của Phêrô là độc đáo dành riêng cho một mình cá nhân Ông. Cũng giống như Thánh Lễ và Bí Tích Thánh Thể bên Công Giáo, những Giáo Phái Tin lành xác quyết rằng: Chúa Giêsu là linh mục thượng phẩm và đã dâng lễ một lần trên Thánh giá là đủ để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Câu Chúa nói “Các con hãy làm việc nầy để nhớ đến Ta”, không có ý trao quyền tế lễ để tiếp tục ban ơn cứu độ cho nhân loại. Đó chỉ là lời khuyên nên nhóm họp để nhớ lại việc Chúa làm mà thôi. Việc dâng lễ bên Công Giáo chỉ là việc thêm một giọt nước dư thừa vào ly nước đã đầy, ly nước công nghiệp của Chúa Giêsu đã quá đủ, không còn khả năng dung nạp thêm một giọt nước nào nữa cả.
     
Giáo Huấn của Giáo Hội Công Giáo:

Phêrô thừa nhận quyền thủ lãnh và quyền tối thượng trên toàn thể Giáo Hội. Phêrô chính thức được trao quyền sau khi ba lần bị sát hạch là “Simon, con Gioan con có yêu mến Ta hơn những người nầy không?” Cả ba lần Ông đã trả lời “Có! Dạ Thầy biết con yêu mến Thầy” Và Chúa đã trao cho Ông quyền chăn chiên “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” như trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật III sau Phục Sinh tường thuật. Thánh lễ truyền chức: Phó tế, Linh mục hay Giám Mục đều có phần tra vấn trước khi đặt tay truyền chức. Tra vấn để xác tín rồi mới trao quyền thi hành.

            Thi hành quyền tiên tri và thánh hoá: Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô như một thủ lãnh Giáo Hội truyền giảng Tin Mừng cho muôn dân. Ông qui tụ thêm số đông người vào Giáo Hội mà Ông là Đá Tảng. Chỉ trong một ngày, Phêrô và các tông đồ đã giảng và rửa tội cho 3 ngàn người từ khắp nơi tụ về Giêrusalem. TĐCV. 2.1-41

            Phêrô và các Tông đồ được thông truyền thần lực và có thể chữa bệnh như trong TĐCV.3.6-8 “Bấy giờ ông Phê-rô nói: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi !" Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại được ; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa.

            Phêrô thi hành quyền lãnh đạo Giáo Hội: Triệu tập Công Đồng chung lần đầu tiên tại Giêrusalem để quyết định rằng:  “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi” (Cv 15:28-29). Công đồng đã quyết định không bắt buộc “dân ngoại” phải cắt bì và tuân thủ Lề Luật của người Do Thái. Phêrô lên tiếng bảo vệ cùng một nguyên tắc như Phaolô: “Anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe lời Tin mừng từ miệng tôi và tin theo...” (Cv 15: 7t). Luca còn thuật là khi Phêrô bị bắt, Giáo hội đã khẩn thiết cầu nguyện cho ông (Cv 12: 5), và một thiên thần đã đến giải phóng ông, “rồi ông ra đi, đến một nơi khác” (Cv 12: 17)...

            Chính ông chủ tọa việc bầu một tông đồ thay thế Giuđa Iscariôt (Cv. 1,15-26). Khi lên Giêrusalem lần đầu tiên, ông Phaolô chỉ đi gặp ông Phêrô (Kêpha) và ông Giacôbê (Gl 1,18-19).

III.   Thực hành Phúc Âm.

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô
và trao dây pallium cho các tân Tổng giám mục

Vào lúc 9g30 sáng nay, thứ Bảy 29-06, 2013 Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ tế Thánh lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Nhân dịp này, Đức Thánh Cha cũng trao dây pallium cho các tân Tổng giám mục chính tòa đã được bổ nhiệm từ sau ngày lễ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô năm trước. Xin trích đăng những điểm chính trong bài giảng của Đức Thánh cha:

Củng cố trong đức tin : Phúc âm nói về lời tuyên xưng của Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Lời tuyên xưng này không phải của ngài nhưng do Cha trên trời mặc khải cho. Vì lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu trả lời: “Anh là Phêrô, và trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (câu 18). Bất cứ khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm của chúng ta hay để cho lý luận của quyền năng nhân loại chiếm ưu thế, mà không cho để cho đức tin, cho Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, khi ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở. Niềm tin vào Chúa Kitô chính là ánh sáng soi dẫn cuộc đời chúng ta, là các Kitô hữu hay thừa tác viên trong Giáo hội.

Củng cố trong tình yêu: Trong bài đọc thứ hai, chúng ta đã nghe những lời cảm động của Thánh Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4,7). Nhưng cuộc chiến này là gì? Đó không phải là một cuộc chiến với thứ vũ khí của con người mà đáng buồn thay luôn gây ra cảnh máu đổ trên khắp thế giới, nhưng là cuộc chiến tử đạo. Thánh Phaolô chỉ có một vũ khí, đó là sứ điệp của Chúa Kitô và cả cuộc đời của thánh nhân như món quà dâng cho Chúa Kitô và cho tha nhân. Giám mục Roma được kêu gọi sống và củng cố anh chị em mình trong tình yêu ấy, yêu Chúa Kitô và tha nhân, yêu thương không phân biệt, không giới hạn.

Củng cố trong sự hiệp nhất: Dây pallium là biểu tượng của sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô, “là nguyên lý và nền tảng trường tồn và hữu hình của sự hiệp nhất trong đức tin và của sự hiệp thông” (Lumen Gentium, 18). Dây pallium, một khi là dấu chỉ sự hiệp thông với Giám mục Roma và với Giáo hội hoàn vũ, cũng mời gọi các giám mục trở nên tôi tớ phục vụ tình hiệp thông.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận: Tuyên xưng Chúa bằng cách để Thiên Chúa dạy dỗ mình, tiêu hao chính mình vì yêu mến Chúa Kitô và Tin Mừng của Người, trở nên tôi tớ của sự hiệp nhất. Đó là những nhiệm vụ mà hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô ủy thác cho mỗi người chúng ta, để mỗi người Kitô hữu cũng sống những điều ấy.

Lm. Phêrô TRẦN THẾ TUYÊN

Lectio Divina: Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông Đồ
Chúa Nhật, 29 Tháng 6, 2014
Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này con là Đá!”
Tảng đá của hỗ trợ và của cản lối 
Mt: 16:13-23

1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.

Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản phụng vụ của ngày lễ các Thánh Phêrô và Phaolô được lấy từ sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu 16:13-19.  Trong phần bình luận của chúng ta, chúng tôi cũng bao gồm các câu 20-23, bởi vì trong toàn bộ của văn bản, các câu 13-23, Chúa Giêsu quay về phía thánh Phêrô và hai lần gọi ông là “đá”.  Một lần Chúa gọi ông là tảng đá nền tảng (Mt 16:18) và một lần tảng đá cản đường (Mt 16:23).  Cả hai câu nói bổ sung cho nhau.  Trong khi đọc Tin Mừng, chúng ta nên chú ý đến thái độ của ông Phêrô và những lời trang trọng mà Chúa Giêsu nói với ông trong cả hai lần.

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
13-14:  Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.
15-16:  Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và ông Phêrô tuyên xưng đức tin của mình:  “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa!”
17-20:  Sau đó, chúng ta có câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu cho ông Phêrô (câu nói chính cho ngày lễ hôm nay).
21-22:  Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của Đấng Cứu Thế, nhưng ông Phêrô phản ứng và từ chối chấp nhận ý nghĩa ấy.
22-23:  Câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô.

c)  Phúc Âm:  
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philípphê, và hỏi các môn đệ rằng:  “Người ta bảo Con Người là ai?” 14 Các ông thưa:  “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.”

15 Chúa Giêsu nói với các ông:  “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” 16 Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.”

17 Chúa Giêsu trả lời rằng:  “Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Vậy Thầy bảo cho con biết:  Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. 19 Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước trời.  Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” 20 Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

21 Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết:  Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

22 Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người:  “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô:  “Satan, lui lại đàng sau Thầy!  Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong đoạn Tin Mừng làm tôi chú ý nhất?
b)  Người ta nghĩ Đức Giêsu là ai?  Phần ông Phêrô và các môn đệ thì nghĩ Chúa Giêsu là ai?         
c)  Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?  Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?
d)  Phêrô có nghĩa là tảng đá theo hai cách:  hai nghĩa đó là gì?
e)  Cộng đoàn chúng ta thì thuộc loại tảng đá nào?
f)  Trong đoạn Tin Mừng, chúng ta thấy có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai và một số cách bày tỏ đức tin.  Ngày nay cũng vậy, có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai.  Ý kiến của cộng đoàn chúng ta về Đức Giêsu là gì?  Sứ vụ ngụ ý dành cho chúng ta là loại sứ vụ gì?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề.

i)  Bối cảnh:

Trong phần tường thuật Tin Mừng của mình, thánh Mátthêu đã dùng cùng trình tự của Tin Mừng theo thánh Máccô.  Tuy nhiên, ông cũng trích dẫn một tài liệu được thánh Luca và ông biết đến.  Hiếm khi ông đưa ra những dữ kiện hoàn toàn của ông, như trong bài Tin Mừng hôm nay.  Bài Tin Mừng này và cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô được giải thích nhiều cách khác nhau, thậm chí còn theo những chiều hướng đối nghịch trong các giáo hội Kitô giáo khác nhau.  Trong Giáo Hội Công Giáo, văn bản này là cơ sở cho tính ưu việt của ông Phêrô.  Dù sao chăng nữa cũng không không có bất kỳ điều gì làm giảm bớt tầm quan trọng của văn bản này, tốt nhất là đặt nó vào trong bối cảnh Tin Mừng Mátthêu, nơi mà ở những chỗ khác, phẩm chất được gán cho ông Phêrô cũng là do những người khác.  Chúng không hẳn là riêng cho ông Phêrô.


ii)  Lời bình giải về văn bản: 

a)  Mt 16:13-16:  Các ý kiến của dân chúng và các môn đệ về Đức Giêsu.

Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.  Câu trả lời khá là đa dạng:  là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.  Khi Chúa Giêsu hỏi ý kiến của các môn đệ, ông Phêrô nhân danh các ông mà thưa rằng:  “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!”  Câu trả lời của ông Phêrô không có gì mới mẻ.  Vào một dịp trước đó, khi Chúa Giêsu đi trên mặt nước, các môn đệ đã tuyên xưng đức tin một cách tương tự:  “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33).  Đây là lời thừa nhận rằng trong Đức Giêsu những lời tiên tri của Cựu Ước đã được thực hiện.  Trong Tin Mừng của thánh Gioan, bà Máctha cũng đã tuyên xưng tín điều tương tự:  “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).
     
b)  Mt 16:17:  Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ông Phêrô:  Hỡi Simon, con ông Giôna, con thật có phúc!

Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông Phêrô thật là “có phúc” bởi vì ông đã được mặc khải bởi Đức Chúa Cha. Câu trả lời của Chúa Giêsu cũng chẳng mới gì.  Vào một dịp trước đây, Đức Giêsu cũng đã thực hiện việc công bố cùng một niềm ân phúc cho các môn đệ vì các ông đã được nghe và được thấy điều mà trước đây không ai được nghe và thấy (Mt 13:16), và Người ca tụng Đức Chúa Cha vì Người đã mặc khải Con Thiên Chúa cho những kẻ bé mọn mà không mặc khải cho những bậc khôn ngoan thông thái (Mt 11:25).  Ông Phêrô là một trong những kẻ bé mọn mà chính Chúa Cha đã mặc khải cho.  Việc nhận thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong con người Giêsu không phải “đến từ xác thịt và máu”, đó không phải là kết quả của sự nghiên cứu hoặc nỗ lực của loài người, mà là một ân sủng mà Thiên Chúa tự ý ban cho người đó.    

c)  Mt 16:18-20:   Tư cách khả năng của ông Phêrô:  Là nền đá tảng và giữ chìa khóa cửa Nước Trời.

1.  Là Tảng Đá:  ông Phêrô phải là đá, đó là, ông phải là nền tảng vững chắc cho Hội Thánh, để Giáo Hội có thể đứng vững trước các cuộc tấn công của cửa địa ngục.  Qua những lời này của Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, thánh Mátthêu khuyến khích các cộng đoàn đang bị bách hại và đau khổ tại Syria và Paléstine, là những người đã chứng kiến sự lãnh đạo của ông Phêrô được đánh dấu từ lúc đầu.  Dù rằng yếu ớt và bị đàn áp, họ đã có một nền tảng vững chắc, được bảo đảm bởi Lời của Chúa Giêsu. Vào những ngày ấy, các cộng đoàn được gieo trồng một mối quan hệ tình cảm rất vững chắc với các nhà lãnh đạo đã tạo lập ra cộng đoàn.  Do đó, các cộng đoàn tại Syria và Paléstine đã vun trồng mối quan hệ của họ với con người Phêrô; những người thuộc cộng đoàn Hy Lạp thì với thánh Phaolô; một số cộng đoàn ở tiểu Á thì với Người Môn Đệ Chúa Yêu và những cộng đoàn khác thì với thánh Gioan của sách Khải Huyền.  Xác định căn tính mình với nhà lãnh đạo của xứ sở họ đã giúp cho cộng đoàn phát triển tốt hơn trong phần bản sắc và tâm linh của họ.  Nhưng điều này cũng có thể làm phát sinh xung đột như trong trường hợp của cộng đoàn Côrintô (1Cr 1:11-12).

Là nền đá tảng của đức tin, gợi nhớ lại trong trí Lời Chúa nói với dân chúng trong thời gian lưu đày ở Babylon:  “Hỡi ai theo đuổi sự công chính, hỡi kẻ đi tìm Đức Chúa, hãy nghe Ta!  Hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá:  từ tảng đá này, các ngươi sẽ được đẽo ra; hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá:  từ hầm đá này, các ngươi sẽ được lấy ra.  Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ Ápraham và Sara, người đã sinh ra các ngươi; vì khi được Ta gọi, Ápraham chỉ có một mình, nhưng Ta đã ban phúc lành cho nó, và cho nó trở nên đông đảo” (Is 51:1-2).  Khi áp dụng cho ông Phêrô, phẩm chất của nền đá tảng này hướng đến một sự khởi đầu mới cho dân riêng của Thiên Chúa.    

2.  Chìa khóa của Nước Trời:  ông Phêrô nhận lãnh chìa khóa Nước Trời để cầm buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, để hòa giải con người với Thiên Chúa.  Cùng một quyền lực cầm buộc và tháo gỡ cũng được trao cho các cộng đoàn (Mt 18:8) và các môn đệ (Ga 20:23).  Một trong những điểm mà Tin Mừng Mátthêu khẳng định là ơn hòa giải và tha thứ (Mt 5:7,23-24,38-42,44-48; 6:14-15).  Thực tế là vào những năm của thập niên 80 và 90, có rất nhiều căng thẳng và chia rẽ giữa các gia đình trong cộng đoàn tại Syria vì đức tin vào Chúa Giêsu.  Có một số người chấp nhận Ngài là Đấng Mêssia trong khi có những kẻ khác thì không, và điều này là nguồn gốc của nhiều quan điểm trái ngược và xung đột.  Thánh Mátthêu khẳng định về việc hòa giải.  Sự hòa giải tiếp tục là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các điều phối viên của cộng đoàn.  Giống như ông Phêrô, họ cũng phải ràng buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, làm việc để mang lại sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, và xây dựng tình huynh đệ đích thực.

3.  Hội Thánh:  từ ngữ Hội Thánh, tiếng Hy Lạp là ekklesia, được tìm thấy 105 lần trong Tân Ước, hầu như luôn tìm thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ và các Thánh Thư.  Chúng ta chỉ tìm thấy chữ này ba lần trong các sách Phúc Âm và chỉ thấy trong sách Tin Mừng của Mátthêu.  Từ ngữ này có nghĩa là “cộng đoàn được gọi” hay là “công đoàn được tuyển chọn”.  Từ ngữ này áp dụng cho những người tụ tập lại, được mời gọi bởi Lời Thiên Chúa, người tìm kiếm để sống sứ vụ Nước Trời được mang đến bởi Chúa Giêsu.  Giáo Hội không phải là Nước Trời, mà là một khí cụ và là một dấu chỉ của Nước Trời.  Nước Trời thì cao trọng hơn.  Trong Giáo Hội, cộng đoàn, tất cả mọi người phải trông thấy hoặc nên thấy những gì sẽ xảy ra khi một nhóm người để cho Thiên Chúa cai trị và chiếm hữu đời sống của mình.

d)  Mt 16:21-22:  Chúa Giêsu hoàn chỉnh những gì thiếu sót trong câu trả lời của ông Phêrô, và Phêrô phản ứng bằng cách không chấp nhận.

Thánh Phêrô đã tuyên xưng:  “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”  Để phù hợp với ý tưởng thịnh hành thời bấy giờ, ông đã tưởng tượng ra một Đấng Cứu Thế vinh quang.  Chúa Giêsu đã sửa ông:  “Thật là cần thiết cho Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ và sẽ bị giết chết tại Giêrusalem”.  Với những chữ “cần thiết”, Chúa nói rằng sự đau khổ đã được dự kiến trong những lời tiên tri (Is 53:2-8). Nếu các môn đệ chấp nhận Chúa Giêsu như là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, thì các ông cũng phải chấp nhận Người như là Đấng Mêssia Tôi Tớ phải chịu chết.  Không những chỉ có chiến thắng vinh quang mà cũng còn phải qua con đường thập giá!  Nhưng ông Phêrô không chịu nghe lời sửa dạy của Chúa Giêsu và cố gắng thuyết phục Người.

e)  Mt 16:23:  Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ông Phêrô:  Tảng đá cản đường

Câu trả lời của Chúa Giêsu thật đáng ngạc nhiên:  “Satan, lui lại đàng sau Thầy!  Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!”  Satan là một trong những kẻ đã lôi kéo chúng ta ra khỏi con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta.  Chúa Giêsu, theo đúng nghĩa đen, nói rằng:  “Hãy lui lại đàng sau Thầy!” (theo tiếng Latin, vada retro!).  Ông Phêrô muốn lèo lái và chỉ đường.  Chúa Giêsu nói:  “Hãy lui lại đàng sau Thầy!”  Đức Giêsu là người chỉ đường và giữ nhịp chứ không phải ông Phêrô.  Người môn đệ phải đi theo sau thầy mình.  Người ấy phải sống trong sự chuyển đổi liên tục.  Lời của Chúa Giêsu cũng là một thông điệp cho tất cả những ai đang đứng đầu cộng đoàn.  Họ phải “đi theo” chúa Giêsu và không thể đi ở phía trước như ông Phêrô đã muốn đi. Không phải chỉ có họ mới là những người có thể vạch ra đường hướng hay cách thức.  Mà trái lại, giống như ông Phêrô, thay vì phải là tảng đá hỗ trợ, họ có thể trở thành tảng đá cản đường.  Như có một số người lãnh đạo cộng đoàn tại thời ông Mátthêu.  Mơ hồ rằng hình như cũng có những chuyện tương tự xảy ra giữa chúng ta ngày nay.

iii)  Phụ chú Tin Mừng liên quan đến ông Phêrô:

Chân dung thánh Phêrô.

Thánh Phêrô được biến đổi từ một ngư phủ đánh cá sang một ngư phủ đi lưới người (Mc 1:7).  Ông đã lập gia đình (Mc 1:30).  Ông là một người tốt bụng và rất nhân bản.  Ông có khuynh hướng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách tự nhiên trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu.  Đức Giêsu tôn trọng khả năng thiên phú này và chọn Phêrô làm người lãnh đạo cho cộng đoàn đầu tiên của mình (Ga 21:17).  Trước khi gia nhập cộng đoàn của Chúa Giêsu, Phêrô có tên là Simon con ông Giôna (Mt 16:17).  Chúa Giêsu đặt tên cho ông là Kêpha có nghĩa là Đá, và từ đó trở thành tên Phêrô (Lc 6:14).

Cách tự nhiên, ông Phêrô có thể là bất cứ điều gì, ngoại trừ là đá.  Ông dũng cảm trong lời nói, nhưng trong giờ phút lâm nguy ông trở thành kẻ sợ hãi và trốn chạy.  Ví dụ, khi Đức Giêsu đi trên mặt nước, ông Phêrô đã hỏi:  “Lạy Thầy Giêsu, con cũng có thể đi trên mặt nước mà đến với Thầy không?”  Chúa Giêsu trả lời:  “Cứ đến, Phêrô!”  Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống và bắt đầu đi trên mặt nước.  Nhưng khi một làn gió lớn thổi lên, ông đã sợ và bắt đầu chìm.  Khi ấy ông kêu lên:  “Lạy Chúa, xin cứu con với!” Chúa Giêsu nắm lấy tay ông và cứu ông (Mt 14:28-31).  Trong bữa Tiệc Ly, ông Phêrô đã thưa với Chúa Giêsu:  “Lạy Chúa, con sẽ không bao giờ chối Chúa!” (Mc 14:31); thế mà chỉ ít giờ sau đó, tại dinh thày cả, trước mặt một cô tớ gái, khi Chúa Giêsu đã bị bắt, ông Phêrô đã chối Chúa Giêsu và thề độc rằng ông không biết Người là ai (Mc 14:66-72).  Trong vườn Cây Dầu, khi Chúa Giêsu bị bắt, ông thậm chí còn dùng đến gươm đao (Ga 18:10), nhưng sau đó bỏ trốn, để lại một mình Chúa Giêsu (Mc 14:50). Ông Phêrô tự nhiên không là một tảng đá!  Thế nhưng là một ông Phêrô yếu hèn và con người, cũng như chúng ta, đã trở nên tảng đá bởi vì Chúa đã cầu nguyện cho ông:  “Phêrô, Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin.  Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22:31-32).  Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã có thể nói:  “Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18).  Chúa Giêsu đã giúp ông trở thành tảng đá.  Sau khi sống lại, ở Galilêa, Chúa Giêsu đã hiện ra với ông Phêrô và hỏi ông hai lẩn:  “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?  Và ông Phêrô đã thưa lại hai lần:  “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga 21:15,16).  Khi Chúa Giêsu hỏi cùng câu hỏi đến lần thứ ba với ông, Phêrô đã buồn.  Ông chắc đã nhớ đến việc mình đã chối Chúa ba lần.  Vì vậy, ông đã trả lời:  “Lạy Chúa, Chúa biết tất cả mọi sự!  Chúa biết rằng con yêu mến Chúa!”  Đến lúc đó Chúa Giêsu mới trao phó cho ông việc chăm sóc đàn chiên: “Phêrô, hãy chăm sóc chiên của Thầy!” (Ga 21:17).  Với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, sức mạnh của tảng đá tăng triển trong người Phêrô và ông đã tự mặc khải vào ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  Vào ngày hôm ấy, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ, ông Phêrô đã mở các cánh cửa của căn phòng trên lầu nơi tất cả các ông đã cùng tụ họp đàng sau các cánh cửa khép kín vì sợ người Do Thái (Ga 20:19), và được truyền cho lòng can đảm, đã bắt đầu công bốt Tin Mừng của Chúa Giêsu cho dân chúng (Cv 2:14-40).  Từ đó ông không bao giờ ngừng nghỉ!  Trong câu chuyện về việc công bố dũng cảm về sự sống lại này, ông đã bị tống ngục (Cv 4:3).  Trong cuộc tra hỏi, ông đã bị cấm không được loan báo về Tin Mừng của Chúa Giêsu nữa (Cv 4:18), nhưng ông Phêrô đã không tuân thủ theo lệnh cấm.  Ông đáp:  “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người!” (Cv 4:19; 5:29).  Ông lại bị bắt lần nữa (Cv 5:18,26).  Ông đã bị đánh dòn (Cv 5:40).  Nhưng ông đã nói:  “Cảm ơn quý vị rất nhiều.  Nhưng chúng tôi phải tiếp tục giảng dạy! (xem Cv 5:42).

Truyền thống cho chúng ta biết răng vào cuối đời của ông, khi ở thành Rôma, ông Phêrô đã lại có một khoảng khắc sợ hãi.  Nhưng sau đó ông đã trở lại, bị bắt và bị kết án tử hình đóng đinh trên thập giá.  Tuy nhiên, ông đã xin cho được đóng đinh ngược đầu xuống đất.  Ông nghĩ rằng mình không xứng đáng để chết trong cùng một cách như Thầy mình, Đức Giêsu.  Ông Phêrô đã sống thật với mình cho đến phút cuối cùng.
                                                                                                                                        
6.  Thánh Vịnh 103 (102)                                                                                                          
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!

Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.

CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.

CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.

Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.

Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.

CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.

Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét