Trang

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Thứ Ba sau Chúa Nhật 10 Quanh Năm

Thứ Ba sau Chúa Nhật 10 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 7-16
"Vò bột không cạn và bình dầu không giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, giòng suối nơi Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán cùng Êlia rằng: "Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại đó: Ta đã truyền cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi". Ông liền lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống". Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: "Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh". Bà thưa: "Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi". Êlia trả lời bà rằng: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy, trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: "Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không vơi, như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 4, 2-3. 4-5. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con (c. 7b).
Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa? - Ðáp.
2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh. - Ðáp.
3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu. - Ðáp.
  
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 5, 13-16
"Các con là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Muối và Ánh Sáng

Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Kgs 17:7-16; Mt 5:13-16.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các tín hữu phải soi sáng cho những người chưa biết Thiên Chúa.
Một người hay một vật hữu ích khi người đó hay vật đó làm những gì giả sử phải làm; ví dụ: học sinh phải học, cảnh sát phải giữ trật tự và bảo vệ dân, chó phải giữ nhà, cây ăn trái phải cho trái ăn, cái cuốc phải đào được đất. Nếu không làm nhiệm vụ giả sử phải làm, người đó hay vật đó trở thành vô ích. Người ta sẽ quăng đi và thay thế bằng người hay vật khác.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật bổn phận của các tín hữu là phải soi sáng cho những người chưa biết Thiên Chúa để họ cũng tin vào Ngài. Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua I tường thuật niềm tin của một bà góa Dân Ngoại vào ngôn sứ Elijah và vào Thiên Chúa; trong khi vua và toàn thể con cái Israel lìa xa Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai biểu tượng của muối và ánh sáng như hai đặc tính của người Kitô hữu đã có, để nhắc nhở cho họ biết bổn phận của họ là phải giúp cho những người chưa biết Chúa nhận ra và tin tưởng vào Ngài. Nếu không, họ là những người vô dụng cần cất đi để lấy chỗ cho người khác sinh lợi ích cho Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Một bà góa Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào ngôn sứ Elijah và vào Thiên Chúa.
1.1/ Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh.
Thiên Chúa muốn ngôn sứ Elizah chứng kiến niềm tin của Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa nên truyền cho ông: "Ngươi hãy đứng dậy đi Zarephath, thuộc Sidon, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi ngươi." Điều lạ ở đây là người đó lại là một bà góa nghèo đang đi lượm củi và cũng đang chịu cùng một cảnh khổ như tất cả các người Israel khác. Nước rất khan hiếm vì trời hạn hán; nhưng khi Elijah xin, bà cũng thương tình đi lấy cho ông chút nước. Nhưng khi Elijah xin bánh, bà thành thật nói với ông hoàn cảnh bi đát của bà: "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết." Ông Elijah hứa với Bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel phán thế này: "Hũ bột sẽ không vơi vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất." Bà ấy đi và làm như ông Elijah nói.
1.2/ Niềm tin can đảm của bà góa thành Zarephath: Hoàn cảnh và cách biểu lộ niềm tin yêu của bà góa cho Elijah và vào Thiên Chúa phải là mẫu gương cho các tín hữu. Thứ nhất, bà là người Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa. Bà nghe nói về Đức Chúa của Israel nhưng chưa biết Người là ai. Thứ hai, bà cũng không biết Elijah là ngôn sứ. Bà chỉ biết ông là người Do-thái và đang lâm cơn hoạn nạn giống như bà. Thứ ba, nước và bánh là hai thứ quí giá để bảo vệ sự sống cho con người khi nạn đói hoành hành; nhất là hoàn cảnh mẹ góa con côi như bà. Thế mà bà tin lời Elijah và Thiên Chúa của ông, Bà sẵn sàng chia sẻ chiếc bánh cuối cùng cho ông. Thiên Chúa đã ân thưởng niềm tin can đảm của bà: “ông Elijah và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Elijah mà phán.”
Chúa Giêsu dùng câu truyện này để nhắc nhở cho người Do-thái biết họ phải xấu hổ về cách sống niềm tin của họ; nhưng họ đã không nghe còn mang Ngài lên cao để xô Ngài xuống vực thẳm (Lk 4:25-26). Thời của ngôn sứ Elijah, thời của Chúa Giêsu, và thời đại của chúng ta, vẫn còn biết bao nhiêu nhiêu người chỉ mang cái vỏ “Kitô hữu;” nhưng cách sống và cách biểu lộ niềm tin cho tha nhân không bằng một phần của những người chưa bao giờ biết Thiên Chúa như trường hợp của bà góa nghèo nàn này!
2/ Phúc Âm: Anh em phải sống làm sao để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Đạo không phải chỉ giới hạn trong việc biết Thiên Chúa và các nghi lễ trong nhà thờ; nhưng phải thấm nhập vào mọi hoàn cảnh của cuộc sống để con người áp dụng những gì Chúa dạy. Chúa Giêsu đưa ra hai biểu tượng rất gần gũi với con người và mời gọi chúng ta cùng suy nghĩ:
2.1/ Công dụng của muối: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:
+ Muối tượng trưng cho trong sạch tinh tuyền: vì được kết tinh bởi ánh sáng mặt trời và nước biển. Kitô hữu là những người đã được rửa sạch bằng máu Đức Kitô và thấm nhuần mọi quà tặng của Thánh Thần, họ phải trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước khi sinh ích cho người khác.
+ Muối dùng để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư: Vì đặc tính mặn mà của muối, nên muối được dùng để làm cho lương thực khỏi hư: thịt cá cần muối, rau cỏ cần muối như dưa, cà, kim chi, trái cây cần muối nếu muốn để lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc muối cá để nói lên sự cần thiết của con cái phải vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu điều này cần thiết cho con cái, những điều dạy dỗ của Đức Kitô còn cần thiết hơn cho các Kitô hữu. Nếu không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn lòng người. “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”
+ Muối dùng để thêm gia vị cho thực phẩm: Muối không thể thiếu trong việc nấu ăn, thực phẩm có ngon tới đâu mà nếu không có chất mặn của muối hay nước mắm (cũng từ muối), cũng trở thành vô vị. Người Kitô hữu đã được trang bị để trở thành muối cho đời. Điều cần chú ý ở đây là Chúa Giêsu dùng động từ ở thời hiện tại “là;” có nghĩa: người Kitô hữu đã và luôn có. Bản chất của Kitô hữu có những điều tốt để giúp cho thế gian trở nên tốt.
2.2/ Công dụng của ánh sáng: Biểu tượng này còn gần gũi với con người hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.
+ Ánh sáng dùng để soi sáng: Khi trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp ngã và tìm đồ đạc. Người Kitô hữu có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.
+ Ánh sáng dùng để sưởi ấm: Khi trời lạnh, con người cần ánh sáng để sưởi ấm như ánh sáng mặt trời hay lửa. Người Kitô hữu có Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô đơn, buồn khổ.
+ Ánh sáng bảo vệ con người khỏi nguy hiểm: Tội lỗi thường xảy ra ở nơi không có ánh sáng. Người làm tội lỗi ghét ánh sáng vì họ sợ việc làm đen tối của họ bị phơi bày...
Chúa Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì không thể che giấu; nhưng phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.” Mục đích của việc soi sáng là để những người chưa biết Thiên Chúa “thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải trở thành muối thiêng ướp mặn lòng người và thành ánh sáng soi đường cho mọi người đến với Thiên Chúa.
- Nếu chúng ta không làm được những điều này, chúng ta đã trở thành người vô dụng, và phế thải để lấy chỗ cho người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 10 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 5,13-16

A. Hạt giống...
Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính để có thể vào làm công dân Nước Trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy : người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy. Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt :
- Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.
- Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới gây tác động : muối tan dần đi, ngọn đèn ngàng càng lụn xuống.
- Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt : nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải bị vất đi.

B.... nẩy mầm.
1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau : có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta  cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
2. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
3. Muối làm cho thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được "khẩu vị" của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống là đáng.
Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui, lạc quan hơn.
4. Có những lời nói và việc làm rất là vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại 2 câu chuyện như sau :
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên : "Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa". Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo Nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi : "Lớn lên con sẽ học ở trường nào ? Con có bao giờ nghe nói Louvain không ?" Tôi đáp "Thưa Đức Cha, chưa". Ngài nói : "Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain". Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại. (Chờ đợi Chúa)
5. "Chính anh em là muối cho đời" (Mt 5,13)
Vừa rồi tôi có dịp ra Huế. Khi xe lên đèo Hải Vân, tôi thấy có mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhại mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi : "Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo Hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không ?
Có biết bao người trong xã hội đã và đang "ướp mặn" cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa thực sự là muối, là men cho môi trường mình đang sống.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hàng ngày. (Hosanna)

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét