Trang

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2014

Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm A (phần II)

Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm A
(phần II)



GIÁO LÝ PÂ CN MTC. A
CHÚA NHẬT LỄ KÍNH MÌNH MÁU THÁNH CHÚA, NĂM A
Sách Đệ II Luật 8,2-3.14-16;
Thư Thứ I Thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô 190,16-17
và Phúc Âm Thánh Gioan 6, 51-58

I. Giáo Huấn P.Â.:  
Thịt Máu Chúa Giêsu là bánh hằng sống. Ai ăn Thịt Máu Chúa sẽ sống muôn đời.
Thịt Máu Chúa Giêsu thật là của ăn của uống cho nhân loại.
Ai ăn và uống Mình Máu Chúa là làm cho Chúa lưu ngụ trong họ.

II. Vấn nạn P.Â. 

Lịch sử lễ kính Mình Máu Thánh Chúa?
Đầu thế kỷ thứ 13, Nữ tu Juliana of Liège dòng Thánh Augustinô, qua nhiều thị kiến về một vầng trăng tròn có chấm đen, được soi sáng rằng: Phụng Vụ Công Giáo còn một tì vết vì thiếu ngày lễ tôn kính Mình Máu Thánh chúa. Nữ tu có lòng tôn kính Bí Tích Thánh Thể cách đặc biệt nầy đã bày tỏ thị kiến và ước nguyện của mình với Đức Cha Robert de Thirete, Giám Mục của Liège và với Jacques Pantaléon là Thầy Sáu của Tổng Giáo Phận Liège, sau nầy thành Giáo Hoàng Urban IV.

Năm 1246 Đức Cha Robert triệu tập Công Nghị và tuyên bố thành lập lễ Kính Mình Máu Thánh chúa. Sauk hi Đức Cha Robert và nữ tu Juliana chết, năm 1263 Đức Giáo Hoàng Urbanô IV cho điều tra về Phép Lạ Thánh Thể, Mình Thánh chúa chảy máu xảy ra ở Bolsena. Năm 1264 Đức Thánh Cha đã cho cử hành lễ Mình Máu Thánh chúa trong toàn Giáo Hội trên khắp thế giới.

Thánh Thể được chính Chúa Giêsu thiết lập vào đêm tối Thứ Năm trước khi Ngài bị bắt và bị giết chết. Phụng vụ thứ năm tuần thánh nhắc nhớ lệnh truyền tuân giữ giới luật yêu thương như điều răn mới, rồi nghi thức rửa chân để dạy tinh thần phục vụ, lập chức linh mục và hấp hối trong vườn cây dầu. Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa được thiết lập chỉ để tôn kính Phép Thánh Thể mà thôi.

Thánh Tiến sĩ Tôma Aquinô là người đã thiết lập nghi thức phụng vụ tôn kính Mình Máu Thánh Chúa. Ngài đã sáng tác bài Pange Lingua bằng tiếng Latinh để rước kiệu Mình Thánh Chúa và hai đoạn cuối bài Pange Lingua tạo thành bài Tantum Ergo khi đã đặt Mình Thánh chúa trên bàn thờ, xông hương và thờ lạy. Nghi thức kiệu Mình Thánh Chúa được phổ biến trong Giáo Hội từ ngày ấy.

Nếu tôi tự cầm Mình Thánh chúa chấm vào Máu Thánh Chúa, tôi vừa được rước lễ dưới hai hình, vừa giữ được vệ sinh, tránh bệnh truyền nhiễm do việc uống chung chén thánh với người khác?

Qui Chế Tổng Quát về Thánh Lễ theo Nghi Thức Rôma số 245 (Missale Romanum, Institutio Generalis, n, 245) cho xử dụng bốn hình thức rước Máu Thánh Chúa như sau:

Uống trực tiếp Máu Thánh Chúa từ chén lễ.
Chấm Mình Chúa vào Máu Chúa (intinctio)
Nhận Máu Chúa từ ống bôm (tube)
Nhận Máu Chúa chứa từ chiếc muỗng (spoon)
    
Giám Mục địa phận có thể bỏ hình thức dùng ống bôm và dùng muỗng trong việc rước Máu Thánh Chúa, nhưng phải duy trì việc rước Máu Thánh Chúa bằng cách uống trực tiếp từ chén lễ và hình thức chấm Mình Chúa vào Máu Chúa.

Hình thức rước Máu Thánh Chúa bằng cách lấy Mình Thánh Chúa chấm vào Máu Thánh Chúa mà tiếng latinh gọi là intinctio phải do linh mục thực hiện: chính linh mục lấy Mình Chúa chấm vào Máu Thánh chúa và đặt vào lưỡi của người rước lễ.  Bánh lễ dùng cho hình thức chấm vào rượu nầy không được quá mỏng và quá nhỏ, và chỉ Linh Mục mới được cho rước lễ theo hình thức chấm vào Máu Thánh Chúa nầy mà thôi. (Qui Chế Tổng Quát số 285b và 287)

Người rước lễ, không được tự mình nhận Mình Thánh chúa rồi chấm vào Máu Thánh chúa. Lý do:

a) Thần học về Bí Tích Thánh Thể:  Thánh Thể, biểu tượng trọn vẹn của hợp nhất. Hợp nhất diễn đạt qua việc ăn cùng mâm và uống cùng một chén rượu “Rồi Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và phán ‘tất cả các con, hãy cầm lấy mà uống, đây là máu Thầy, máu Giao Ước sẽ đổ ra mang ơn tha tội cho muôn người” (Matthêu 26:27-28). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh về hợp nhất trong trong Bí Tích Thánh thể qua Thư Gửi Giáo Đoàn Corintô “Vì ổ bánh là một, chúng ta tuy nhiều, nhưng là một thân thể, vì chúng ta cùng ăn chung một ổ bánh” (I Cor.10: 17). Nên người chấm Mình Thánh Chúa vào Máu Thánh Chúa đã không thể hiện được sự hợp nhất trọn vẹn của Thánh Thể. Họ đã không uống cùng chén rượu với người khác.

b) Người ta thích chấm Mình Thánh Chúa vào Máu Thánh Chúa vì lý do vệ sinh, tránh những bệnh hoạn truyền từ những người đã uống trước. Tuy nhiên, Thánh Bộ Phuợng Tự và Kỷ Luật Bí Tích qua giáo huấn Redemptionis Sacramentum  (được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận ngày 19.3.2004) không thấy đề cập đến vấn đề nầy. Người ta mặc nhiên đồng ý với Qui Tắc về việc rước lễ dưới hai hình của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ số 45 cho rằng: Chén thánh được lau sạch sẽ, kỹ lưỡng sau mỗi lần uống được coi như đã giảm thiểu tối đa việc lây nhiễm rồi.

c)Kính trọng và bảo toàn Mình Máu Thánh chúa:
Nếu người rước lễ tự chấm Mình Chúa vào Máu Thánh chúa, họ rất dễ chấm quá sâu, nhúng những ngón tay của mình vào trong Máu Thánh chúa. Điều nầy càng làm mất vệ sinh hơn.

Nếu người ta tự chấm lấy Máu Thánh Chúa, rất có thể gây nên sự rơi rớt những giọt Máu Thánh Chúa trong khoảng cách giữa chén thánh và miệng của người rước lễ. Đó là chưa nói đến trường hợp Mình Thánh Chúa bị sủng ướt và rơi xuống đất.
           
Để bảo vệ toàn vẹn sự thánh thiện tuyệt đối của Bí Tích Thánh Thể, Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích qua Giáo Huấn Redemptionis Sacramentum số 107 cũng nhắc đến khoảng Giáo Luật 1367 về hình phạt vạ tuyệt thông dành cho Toà Thánh đối với những ai xúc phạm nghiêm trọng (Graviora delicta) đến bí tích Thánh Thể qua những dạng thức sau:

Quăng ném Mình Máu Thánh chúa, hoặc mang đi khỏi nhà tạm và lưu giữ Mình Máu Thánh Chúa với mục đích phạm thánh.
Giả bộ cử hành Thánh Lễ làm cho ngườI khác tưởng đó là thánh lễ thật.
Đồng tế với những giáo sĩ của các giáo phái không hiệp thong vớI Công Giáo hay không có Buí tích truyền chức thánh như Công Giáo.
Giáo Sĩ làm lễ, truyền phép chỉ có một hình. Chỉ đọc lờI truyền phép bánh và rượu mà không cử hành trọn vẹn Thánh Lễ.

Giáo sĩ mang những tội phạm kể trên sẽ bị huyền chức (dismissal from Clerical state).

Nữ Linh Mục Công Giáo dâng Thánh Lễ có thành không? Những giáo dân vì ít hiểu biết hay vì vô tư dễ dãi tham dự thánh kễ do nữ linh mục Công Giáo dâng, có thực sự tham dự thánh lễ không?

Việc đã xảy ra:
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Đông Phương cho đến thế kỷ thứ IX. cho thấy là có nhiều phụ nữ đã được phong chức Phó Tế. Khoảng 40 người còn khắc tên trên bia mộ.  Hơn 100 năm qua, vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ luôn là những tranh luận nóng bỏng trong các giáo hội Kitô Giáo, đặc biệt Anh Giáo. Đến năm 1965 Anh Giáo chính thức phong chức Phó Tế cho phụ nữ và đến năm 1970, chính thức phong chức linh mục cho phụ nữ. Nữ Giám Mục, nữ linh mục hay nữ phó tế được nhìn nhận là đã thực sự nhận lãnh bí tích truyền chức thánh bên Anh Giáo.     

Tháng năm năm 2002, Giám Mục Rómulo Antonio Braschi, Giám Mục Công Giáo Argentine độc lập, đã phong chức linh mục cho bảy phụ nữ trên một con tàu bập bềnh trên dòng sông Danube thơ mộng của Đông Âu. Sau đó một Giám Mục Công Giáo không biết tên đã phong chức Giám Mục cho ba phụ nữ linh mục nầy. Tất cả Giám Mục, tân nữ linh mục và những tân nữ linh mục đều bị vạ tuyệt thông tiền kết.
Ngày 26.6, 2004 cũng trên sông Danube nầy, sáu phụ nữ đã được phong chức phó tế bởi những nữ Giám Mục Công Giáo.

Ngày 25.7.2005 trên sông Lawrence của Canada đã diễn ra lễ phong chức linh mục cho bảy phụ nữ người Mỹ và một phụ nữ Canadaba

Ngày 31.7.2006 Ba Nữ Giám Mục Công Giáo phong chức linh mục cho 8 phụ nữ và phó tế cho bốn phụ nữ cũng trên một con tàu thả nổi trên sông vùng Pensylvania bên Mỹ.

Cũng có một cựu nữ tu Công Giáo thuộc dòng Holy Names tên Michel Birch-Conery vùng  Parkville, Canada mới thành nữ linh mục.
           
Cho đến hôm nay,  trên thế giới có 8 nữ Giám Mục Công Giáo, 62 nữ linh mục và 11 nữ phó tế. Phần nhiều tập trung ỡ Mỹ với con số đáng kể là 4 nữ Giám Mục, 42 nữ linh mục và 8 nữ phó tế. Riêng Canada có 7 nữ linh mjục và hai jữ phó tế.
             
Giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo:
Giáo Luật điều 1024: Chỉ người nam đã chịu phép Rửa Tội mới được lãnh nhận bí tích truyền chức cách hữu hiệu.

Giáo lý Công Giáo số 1577  "Chỉ người nam đã chịu phép rửa tội mới được lãnh nhận bí tích Truyền Chức" (x. CIC, khoản 1024) cách thành sự. Chúa Giê-su đã tuyển chọn những người nam để lập nhóm Mười Hai Tông Ðồ (x. Mc 3,14-19; Lc 6,12-16) và các tông đồ cũng làm như vậy khi tuyển chọn các cộng sự viên (x.1Tm 3,11-13; 2Tm 1-6; Tt 1,5-9) để tiếp nối sứ mạng của mình (Thánh Cơ-lê-măng thành Rô-ma, thư gửi tín hữu Cô-rin-tô 42,4; 44,3). Giám mục đoàn cùng với các linh mục hiệp nhất với các ngài trong chức tư tế, hiện tại hoá nhóm Mười Hai cho đến ngày Chúa lại đến. Hội Thánh bị ràng buộc với sự chọn lựa của Chúa, nên không thể phong chức cho người nữ (x.MD 26-27; CDF; décl. "Inter.insigniores").

Giáo lý Công Giáo số 1578  Không ai có quyền đòi được chịu chức thánh. Không ai được coi mình là xứng đáng với chức vụ này. Phải được Chúa kêu gọi (x.Dt 5,4). Ai thấy mình có những dấu hiệu được Chúa kêu gọi lãnh nhận thừa tác vụ thánh, phải khiêm tốn trình bày nguyện vọng lên giáo quyền. Giáo quyền có trách nhiệm và quyền gọi một người lãnh nhận chức thánh. Như mọi ân sủng, bí tích này chỉ được lãnh nhận như một hồng ân nhưng không.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Tông Huấn "Ordinatio sacerdotalis", đã kha73ng định rằng “Giáo Hội khồng có quyền phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết nầy phải được tuân giữ bởi toàn thế Giáo Hội Công Giáo!”
           
Thánh Bộ Giáo Lý Đức tin ngày 15.10.1976 đã ban hành “Inter Insigniores” quả quyết rằng: Giáo Hội không cho rằng mình cón  quyền phong chức phụ nữ.

Năm 2007 Toà Thánh vatican ra phán quyết “ Ai phong chức linh mục cho phụ nữ, cả người chủ phong và được phong đều bị vạ tuyện thông tiền kết” (Ferendae sententiae – tự động)

Năm 2010 Vatican ghép việc phong chức linh mục là tội phạm nghiêm trọng và linh mục nào phạm sẽ bị cho hoàn tục.

Năm 1990 Cha Tissa Balasuriya, linh mục người Ấn Độ đã bị vạ tuyệt thông khi không chịu thu hồi lập trường ủng hộ phong chức linh mục cho phụ nữ trong quyển sáchThe Eucharist and Human Liberation. Đầu năm 2007, linh mục người Canada, Cha Ed Cacchia, bị chgo rời khỏi giáo xứ vì phát biểu ủng hộ phong chức linh mục. Mới đây Cha Roy Bourgeois, linh mục Mỹ thuộc  hội truyền giáo Maryknoll đã ủng hộ phong chức linh mục cho phụ nữ và đã giảng tại đ5i hội Nữ Linh Mục Công Giáo Rôma, cũng đã bị và tuyệt thông.
     
Giáo Hội Công Giáo dạy rằng: Không có vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ. Bất cứ ai ủng hộ hay truyền chức linh mục cho phụ nữ sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết.

 Kết luận:
           
Phụ nữ không thể là linh mục Công Giáo .
Nếu không là linh mục thì không thể nào dâng lễ thành sự. Cái mà họ cho là thánh lễ không có giá trị gì cả. Giáo Luật điều 900: (1) Chỉ duy có tư tế đã được truyền chức hữu hiệu làm thừa tác viên hiện thân của Ðức Kitô, mới có khả năng cử hành Bí Tích Thánh Thể.
     
Nếu vì kém hiểu biết, vì vô tình hay chỉ vì tò mò, những ai tham dự cái mà những nữ linh mục nầy gọi là thánh lễ thì không có giá trị bí tích hay phụng vụ gì cả. Còn những ai cố tình ủng hộ việc phong chức linh mục cho phụ nữ và tham dự thánh lễ do những nữ linh mục nầy dâng.. sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết như những linh mục vừa nêu trên.

III. Thực hành P.Â.:

Giáo Hội Công Giáo, thánh thiện, duy nhất và tông truyền:

Giáo Hội Thánh thiện vì:
Đấng sáng lập là Chúa, là Đấng cực thánh.
Thành phần của Hội Thánh được thánh hóa bởi 7 bí tích là những phương thế thánh thiện do Chúa thiết lập.
Dân Thánh Chúa được nghe, được đọc và được giảng dạy thánh Kinh là lời Chúa.
Dân Thánh Chúa được rước Mình Máu Thánh Chúa.
Linh mục là tư tế, được tách biệt để làm việc thánh, nhất là dâng Thánh Lễ.
Nên Thánh Lễ là hiến tế Tạ Ơn do chính Chúa Giêsu nhờ linh mục dâng chính người cho Thiên chúa Cha để tạ ơn và cầu ơn cứu độ cho dân Chúa.
           
Mỗi lần dâng lễ là mỗi lần linh mục cùng với Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm tạ ơn Thiên Chúa Cha, đã cho người phàm hèn tội lỗi thành tư tế. Mỗi lần dâng lễ là mỗi lần linh mục tỏ lòng tri ân những ân nhân, thân nhân, đã âm thầm hy sinh, âm thầm cầu nguyện để vun trồng ơn gọi linh mục.
           
Phàm nhân được nâng lên hàng khanh tướng.
           
Người tội lỗi bất xứng mà được sờ chạm đến Đấng cực thánh.
           
Sau khi được làm linh mục thánh Ignatio không dám dâng lễ vì thấy mình quá bất xứng trước việc thánh thiện nầy.
           
Có một Đức Cha người Canada khá quen biết, mỗi lần gặp tôi là Ngài xin: Xin Cha cầu nguyện cho tôi. Cũng xin bà con giáo dân cầu nguyện cho linh mục ý thức mình bất xứng, không chỉ để sợ sệt, e dè, nhưng để chuẩn bị tâm hồn và thể xác mình cho được phần nào xứng đáng với việc thánh.
 Lm Phêrô Trần Thế Tuyên   

Cậu bé Marcellino
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
- “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
- “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tông Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét