Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2014

Chúa Nhật 25 Quanh Năm Năm A (phần I)

Chúa Nhật 25 Quanh Năm Năm A
(phần I)


Bài Ðọc I: Is 55, 6-9
"Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.
Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 8-9. 17-18
Ðáp: Chúa ở gần mọi kẻ kêu cầu Người (c. 18a).
Xướng: 1) Hằng ngày tôi sẽ chúc tụng Chúa, và tôi sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi người, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Người, mọi kẻ kêu cầu Người cách thành tâm. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Pl 1, 20c-24. 27a
"Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô"
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi. Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết." Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Thiên Chúa Nhân Lành
Bài Tin Mừng hôm nay rất quen thuộc. Chúng ta đã nhiều lần nghe đọc. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thấy sáng tỏ hoàn toàn. Thái độ của người chủ hộ hợp lý nhưng có lẽ không mấy hợp tình. Và nếu chúng ta chưa hoàn toàn chấp nhận được thái độ đó, chúng ta còn phải tìm hiểu, bởi vì nói đã được dùng để gợi lên thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Còn khúc mắc về thái độ ấy, lòng chúng ta tin vào Chúa vẫn chưa hoàn toàn và đời sống đạo đức của chúng ta chưa chân thực. Chúng ta cứ tìm hiểu bài Tin Mừng trước, vì quan trọng hơn. Rồi nhờ ánh sáng của chính Lời Chúa Cứu Thế, chúng ta sẽ dễ hiểu hai bài đọc kia.

A. Lời Khuyên Của Tin Mừng
Sách Tin Mừng theo thánh Matthêô có nhiều dụ ngôn về Nước Trời, vì chính Ðức Yêsu thường dùng dụ ngôn để nói với dân chúng. Có nhiều lý do để Người dùng hình thức này. Chân lý được diễn tả sống động và phong phú hơn. Nhất là dụ ngôn có thể thoát khỏi giới hạn của không gian và thời gian. Người ở mọi thời và ở mọi nơi cũng như ở mọi trình độ văn hóa đều có thể cảm thấy, nghe thấy, trông thấy một cái gì của chân lý qua hình ảnh và câu chuyện. Nhưng nói như vậy cũng có nghĩa là hình ảnh và câu chuyện gợi lên mầu nhiệm hơn là chứng minh chân lý. Hình ảnh và chuyện kể chẳng bao giờ hoàn toàn vì phải để chỗ cho mầu nhiệm và chân lý vượt xa hơn. Thế nên đối với dụ ngôn, người ta luôn phải vươn tới chân lý và mầu nhiệm, chứ không được dừng lại phê bình hình ảnh và câu chuyện.
Ðó là điều chúng ta phải áp dụng khi tìm hiểu mọi dụ ngôn, không riêng gì dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay. Người gia chủ đi thuê thợ làm vườn nho thật sớm. Ông mặc cả với họ công nhật một đồng. Ba giờ sau, tức là vào khoảng 9 giờ sáng, ông lại gặp những người thợ đứng không, chưa ai mướn. Ông thuê họ đi làm vườn nho cho ông và hứa sẽ trả công đích đáng, tức là không trên một đồng vì đã mặc cả với những người trước như thế. Vào lúc 12 giờ, rồi 15 giờ và 18 giờ, ông còn làm như vậy. Thái độ của ông thật lạ lùng. Ông khác với mọi người. Chỉ còn một giờ nữa là tối, mà còn đi thuê thợ. Nhưng trong dụ ngôn, chuyện kể không phải là điều cốt yếu. Nó dẫn đến một cái gì xa hơn và người gia chủ ở đây đưa về một con người khác.
Vậy sau đó dụ ngôn đã nói thế nào? Người gia chủ bảo viên quản lý trả công cho thợ, và bắt đầu từ người mướn sau cùng. Họ được một đồng. Chắc họ đã phải trố mắt ra bỡ ngỡ và sung sướng nhận đồng tiền không ngờ. Ðiều đó khiến những người trước chan chứa hy vọng. Họ tưởng sẽ được nhiều hơn và đã thầm quý ông chủ. Ai ngờ, họ cũng chỉ nhận được một đồng. Lập tức họ đã càm ràm. Chúng ta thông cảm với họ. Vì ở địa vị họ, ai cũng dễ làm như thế. Họ là loài người chúng ta, đang khi người gia chủ lại không thuộc thế gian này.
Hơn nữa, ở đây, họ còn là dân Dothái và là hạng Biệt phái, những người đinh ninh đã giữ trọn Lề luật và cho mình có quyền coi khinh những người khác, tưởng rằng hạng này sẽ chẳng bao giờ được bằng mình. Chúng ta có thể nghĩ như thế dựa vào những điều Matthêô viết trước đây. Vì trước khi kể dụ ngôn này, ông nói có người thanh niên đã đến hỏi Ðức Yêsu phải làm gì để được sống đời đời. Và anh khoe đã giữ trọn Lề luật. Nhưng đến khi Người bảo anh đi bán mọi sự và lại đây đi theo Người như Phêrô và các Tông đồ, những người đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, anh đã bỏ đi một cách buồn phiền. Và Ðức Yêsu đã kết thúc câu chuyện của anh bằng câu: Kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết. Người cũng dùng câu ấy để chấm dứt câu chuyện về các người thuê mướn, khiến chúng ta như được mời gọi đồng hóa dân Dothái giữ Lề luật và hạng Biệt phái với những kẻ đến trước và mướn trước còn những người đến sau và mướn sau là các Tông đồ và Dân Mới, dân ngoại trở lại của Nước Trời sau này. Dưới mắt người Dothái, dân ngoại và các Tông đồ đi theo Ðức Yêsu chỉ là con nít và trẻ nhỏ sánh với các ông Biệt phái và Dân được tuyển chọn. Nhưng ở đây Ðức Yêsu vừa tuyên bố Nước Trời là của những người bé nhỏ. Và Người kể câu chuyện dụ ngôn hôm nay ở trong chiều hướng đó, khiến chúng ta khi hiểu như thế, sẽ thấy bài dụ ngôn sáng sủa hơn.
Vậy, những người được mướn trước đã phàn nàn thế nào? Họ nói: "Hạng cuối hết này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy". Họ so sánh, phân bì, ghen tương. Họ không chịu cho anh em được bằng mình. Họ nói lên tâm trạng của Biệt phái và người Dothái khi thấy Chúa thương xót người thu thuế tội lỗi và lương dân. Tâm địa còn được nhiều dụ ngôn khác nói lên. Như trong truyện "người con phung phá", người anh đã bất bình, không muốn chia sẻ tình thương của người cha với đứa em... Và trong chuyện Zakhê, các Biệt phái đã bất bình khi thấy Chúa Yêsu ngồi ăn với những thu thuế. Rồi trong chuyện xảy ra tại nhà ông Simon, người ta cũng càm ràm khi thấy người phụ nữ tội lỗi được lòng thương xót của Chúa. Và trong mọi câu chuyện trên, Ðức Yêsu đều muốn dạy người ta bài học này: "Ta muốn lòng nhân nghĩa chứ không phải hy lễ!".
Ở đây cũng vậy, Người muốn chúng ta đối với Nước Trời phải nên như trẻ nhỏ, không nên cậy dựa vào công việc của mình và nhất là không được biệt phái, kỳ thị anh em. Người kể dụ ngôn sau khi thấy người ta xua đuổi các trẻ nhỏ, không cho chúng đến với Người. Nhưng Người bảo Nước Trời là của những người giống như chúng. Thế thì những người thợ mướn cuối cùng đây cũng đáng thương. Người gia chủ đã thương họ khi gọi họ vào làm khi trời đã xế. Ông muốn những người đến trước cũng đồng phận như kẻ đến sau, phải nhìn nhận những người này như đồng liêu và tay chân của mình để sung sướng khi thấy họ cũng được hạnh phúc như mình. Nhưng khốn nỗi, người ta lại ích kỷ, không nghĩ như Chúa. Và đó là điều Chúa muốn nói lên trong bài dụ ngôn để người ta sửa lại. Và lời khuyên này Isaia đã tiên báo và Phaolô sẽ thi hành. Chúng ta hãy tìm hiểu hai bài đọc này.

B. Isaia Tiên Báo Ðường Lối Của Chúa
Nhà tiên tri loan báo Lời Chúa hôm nay vào khoảng cuối thời Lưu đày. Ðã 50 năm Dân Chúa phải xa quê hương. Còn có hy vọng trở về nữa không? Các tiên tri cứ loan tin Chúa sẽ cứu đấy. Nhưng bao giờ? Và cách nào? Cứ xem tình hình cụ thể, chẳng có gì hứa hẹn cả. Thế nên nhiều người đã tính chuyện làm ăn lâu dài ở đất khách, người khác nản chí đâm ra tội lỗi. Chỉ còn một thiểu số nhỏ nhoi tin vào Lời Hứa và chờ đợi. Họ được các tiên tri khích lệ, mà Isaia là một.
Hôm nay ông nói: Hãy tìm kiếm Chúa, vì Người còn cho gặp; hãy kêu khấn Người, vì Ngưòi còn ở gần bên. Nghĩa là nhà tiên tri bao dân đừng nản chí, đừng bỏ Chúa vì Người còn cho gặp và còn ở gần bên, chứ chưa đoạn tuyệt bỏ đi không đoái hoài đến chúng ta nữa. Người chỉ chờ ác nhân bỏ đường lối của nó và trở lại để Người chạnh thương.
Vẫn là những lời khuyên cũ kỹ ư? Dân nghe mãi những lời ấy rồi. Isaia biết như vậy. Ông phải đem đến cho Dân những ý tưởng mới mẻ. Hoặc ông phải thay đổi cách Dân suy nghĩ. Và đây là lời ông tuyên bố nhân Danh Chúa. Nói đúng hơn, ông xin Người nói thẳng cho Dân cứng đầu cứng cổ này. Và Chúa phán: "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi... vì trời cao hơn đất bao nhiêu cũng vậy đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi".
Những lời thật đơn giản và thật chắc chắn. Không cần biện minh gì cả. Trời với đất xa nhau. Chúa cũng xa chúng ta như vậy và đường lối Người sánh với ý nghĩ của chúng ta cũng thế. Chúng ta cứ quanh quẩn với những suy tư nhỏ bé của mình đang khi Chúa bao quát mọi sự một cách tuyệt diệu. Ai khôn thì cứ tin tưởng vào Người; và ai tin Người thì cứ lấy lời Người làm ánh sáng. Người bảo Người sẽ cứu Dân thì nhất định Người sẽ cứu cho dù lúc này không thấy có dấu chỉ nào.
Và quả thật Chúa đã cứu Dân một cách không ai ngờ được. Và việc giải cứu của Người vượt quá mọi dự liệu của người ta. Người ta được cứu mà tưởng như mơ... Lúc đó mới thật phúc cho những kẻ đã tin tưởng ở Lời Chúa và bẽ bàng thay cho những kẻ suy tính theo ý mình.
Thế mà nhiều người vẫn không sống theo chân lý mạc khải ấy, kể cả những người vẫn đọc sách Isaia như Biệt phái và Luật sĩ đời Ðức Yêsu. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy rõ họ vẫn suy nghĩ theo ý mình và không mảy may quan tâm đến Ý Chúa. Nên một lần nữa Chúa Yêsu lại phải dùng dụ ngôn để nhắc lại cho họ và kêu gọi họ hãy đi vào đường lối của Người. Họ hãy chia sẻ lòng thương xót của Người muốn cứu vớt tất cả mọi người là đồng liêu của họ, nhưng luôn luôn bị họ coi là rốt bét không đáng được công như mình. Thánh Phaolô thì cư xử khác hẳn.

C. Phaolô Thi Hành Ý Chúa
Thánh Tông đồ đã viết những hàng thư này khi đang bị cầm tù. Người không rõ số phận sẽ ra sao: được tha hay phải chết? Có điều chắc chắn "mọi lúc sao bây giờ cũng vậy, Ðức Kitô phải được tôn vinh nơi thân mình tôi, dù tôi sống hay tôi chết". Ước gì mọi người chúng ta có thể quả quyết như người. Người đã dâng cuộc đời mình cho Ðức Kitô hay như người nói trong câu tiếp, đối với người sống chính là Ðức Kitô. Nghĩa là Ðức Kitô là lẽ sống của người, thì dù sống hay chết, người vẫn thuộc về Ðức Kitô và làm vinh hiển Chúa nơi thân xác tức là trong cuộc đời của người. Người là Kitô hữu đầy đủ nhất và là gương mẫu của hết thảy chúng ta.
Vậy đối với người đã sống hoàn toàn cho Chúa thì vấn đề sống hay chết không còn ý nghĩa gì nữa. Nói đúng hơn không còn là vấn đề nữa; vì dù mạng sống của người ấy đã ở trong tay Chúa, họ vẫn còn tự do để suy nghĩ hầu tìm ra ý nghĩa cao cả của Ý Chúa nhiệm mầu. Và thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đã làm như vậy. Một đàng Người chắc chắn dù sống hay chết, cuộc đời của người vẫn làm vinh hiển Ðức Kitô; thế nên người cảm thấy bình an, phấn khởi thật sự trước tương lai không rõ rệt. Ðàng khác, người vẫn cố suy nghĩ về Ý Chúa nhiệm mầu trong cả hai trường hợp hoặc sống hoặc chết, để có thể tôn vinh Chúa hơn khi kết hợp ý chí của mình vào thánh ý Chúa. Người nghĩ: chết là điều tối hảo gấp bội vì được thoát ly khỏi đời này và được ở cùng Ðức Kitô. Nhưng lưu trú trong thân xác lại khẩn trương vì người cần cho giáo dân và các linh hồn. Nghĩ như vậy, thì người thấy ngay chắc chắn người còn được sống để phục vụ vì Ý Chúa vẫn muốn xót thương cứu độ mọi người.
Thánh Phaolô quả thật đã thi hành Lời Chúa khuyên trong bài Tin Mừng và được Isaia báo trước. Chúa muốn chúng ta luôn tôn trọng quan điểm của Chúa và biết bỏ mình để làm theo Ý Người, Mà Ý của Người là cứu thế và cứu hết mọi người, kể cả những người mà chúng ta vẫn coi như là rốt hết. Người muốn cho họ cũng được hưởng lòng xót thương của Người và Người muốn chúng ta chia sẻ thái độ phải có đối với những người anh em lỗi phạm, nay được bổ túc bằng lời kêu gọi chúng ta đưa anh em vào trong hạnh phúc viên mãn mà chính chúng ta đang ao ước cho mình.
Thánh lễ này theo Ý Chúa cũng phải được cử hành trong chiều hướng đó. Chúa muốn tất cả mọi người được đưa vào kết hợp trong một thân thể mầu nhiệm, để trong cuộc sống hằng ngày, không ai loại trừ ai ; nhưng nhìn vào lòng Chúa xót thương mọi người, chúng ta bỏ mọi ý nghĩ so sánh ghen tương của mình để cầu mong và giúp đỡ cho mọi anh em được hạnh phúc như chúng ta và hơn chúng ta. Như vậy chúng ta sẽ đẹp lòng Chúa và đã thi hành Lời Chúa nói với chúng ta qua các bài Kinh Thánh hôm nay.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY

Chủ Nhật 25 Thường Niên, Năm A
 Bài đọc: Isa 55:6-9; Phil 1:20-24, 27; Mt 20:1-16.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khôn ngoan đích thực.

Con người yêu mến sự khôn ngoan nên không ngừng tìm kiếm những giải pháp khôn ngoan nhất cho các vấn nạn của cuộc đời. Có nhiều người bỏ cả cuộc đời để nghiên cứu, để đề xướng, để sống và chết cho lý tưởng mình cưu mang, chẳng hạn: các triết gia của các môn phái duy linh (Plato), duy lý (Descartes), duy vật (K. Marx, ông tổ của chủ nghĩa cộng sản), hiện sinh (Hegel)… Các học thuyết họ đề xướng được mọi người hoan nghênh đón nhận trong một thời gian rồi cũng dần dần lui vào bóng tối vì không giải quyết được tòan bộ các vấn nạn của cuộc đời. Chỉ có cuốn Kinh Thánh vẫn tồn tại từ bao ngàn năm qua vì nó cung cấp cho con người sự khôn ngoan đích thực đến từ Thiên Chúa, là nguồn gốc mọi sự và cùng đích mọi lòai. Bài đọc I hôm nay giới thiệu cho chúng ta một sự khôn ngoan trên hết mọi khôn ngoan, đó là sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa. Thánh Phaolô sẵn sàng chấp nhận những gì mà thế gian cho là điên rồ: đau khổ và chết cho Tin Mừng. Phúc Âm dạy chúng ta lòng thương xót và rộng lượng của Thiên Chúa trong cách đối xử với con người, nhất là những người kém may mắn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Khôn ngoan của Thiên Chúa và của con người.

Tiên tri Isaiah so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa với sự khôn ngoan của con người trong việc đối xử với kẻ gian ác: Theo cách cư xử con người, “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Exo 21:24; Lv 24:20). Kẻ giết người phải chịu tử hình; có ăn năn cũng muộn rồi. Theo cách cư xử của Chúa, Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn họ bỏ tư tưởng và đường lối họ đang theo mà trở về để được Người xót thương tha thứ.

Con người thường có khuynh hướng lọai suy: Họ lấy sự suy nghĩ và tiêu chuẩn của con người để áp dụng cho Thiên Chúa. Tiên tri Isaiah phản đối cách suy diễn này khi tuyên sấm cách xác quyết về vị thế của Thiên Chúa: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.”

Không phải chỉ có sự khác biệt về khôn ngoan giữa Thiên Chúa và con người, nhưng nhiều khi còn hòan tòan đối ngược nhau! Giữa Thiên Chúa và con người có một khỏang cách bao la như khỏang cách giữa trời và đất; và không có một khôn ngoan nào trên trần thế có thể so sánh được với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, như lời Ngài phán: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”

2/ Bài đọc II: Khôn ngoan của thánh Phaolô: muốn được chịu gian khổ và chết cho Tin Mừng.

Con người thường có khuynh hướng trốn tránh đau khổ và sợ chết, nhưng thánh Phaolô lại muốn được chịu đau khổ vì Tin Mừng và hy vọng được chết để làm chứng cho Chúa. Lý do: Đối với con người không có đức tin, chết là hết, là đi vào cõi tiêu diệt; nên họ sợ đau khổ và sợ chết. Còn đối với thánh Phaolô, chết là một mối lợi vì sẽ được về chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa, nên ngài mong muốn được chết.

Tuy muốn chết để về với Chúa, nhưng vì lòng nhiệt thành vì Tin Mừng, ngài cũng muốn sống để làm ích tha nhân. Ngài băn khoăn giữa cái chết và cái sống: Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần, nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em.

Sau cùng, thánh Phaolô đã đi tới kết luận là ngài không cần phải lo lắng chọn đàng nào, nhưng đặt trọn vẹn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình và cũng không ai chết cho chính mình. Nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết là chết cho Chúa. Vì thế, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa” (Rom 14:8). Ngài khuyên các tín hữu Philipphê bao lâu còn sống hãy sống làm sao cho xứng đáng với Tin Mừng đã lãnh nhận: “Hãy luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một lòng một dạ chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em.”

3/ Phúc Âm: Lòng thương xót của Thiên Chúa và sự ghen tị của con người.

3.1/ Lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài muốn mỗi người có việc làm để sinh sống. Có mấy điều chúng ta cần hiểu trước khi tìm ra ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay: 
- Giờ làm việc bên Do-Thái là từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều. Giờ thứ nhất tương ứng với 6 giờ sáng, giờ thứ ba là 9 giờ sáng, giờ thứ sáu là 12 giờ trưa, giờ thứ chín là 3 giờ chiều, giờ mười một là 5 giờ chiều, và giờ mười hai là 6 giờ chiều (hết giờ làm việc).
- Thợ làm thuê: họ làm tùy theo nhu cầu mỗi ngày. Hôm nào không có ai thuê là không có tiền để sinh sống. Họ thường tập họp tại những chỗ công cộng như chợ búa để người thuê dễ dàng nhận ra.
- Tiền công nhật mỗi ngày là một quan tiền (khỏang 8 dollars một ngày). Đây là mức sinh sống tối thiểu của một gia đình.
- Mùa nho chín của Do-Thái rơi vào tháng 9, và phải hái hết trong tháng 9 trước khi mùa mưa đến, nếu không nho sẽ bị ủng thối. Chủ vườn rất cần thợ dẫu chỉ làm ít tiếng trong ngày.

Chúa ví Nước Trời giống như chuyện gia chủ vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Có những người được mướn làm từ đầu ngày, có người được mướn trễ hơn 3, 6, 9 tiếng. Có những người được mướn chỉ làm một tiếng. Điểm chính ở đây là tất cả mọi người đều được kêu gọi để làm việc, chứ không chỉ dành cho một số người mà thôi. Những người được mướn trễ không phải vì họ lười biếng, nhưng vì không ai mướn họ. Nước Trời cũng thế, có những người được Chúa chọn ngay từ ban đầu như những người Do Thái. Có những người được chọn khi Chúa Giêsu sai các Tông Đồ đi rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ các nước lân cận của Do-Thái như Syria, Lebanon, Turkey, Jordan, Egypt… Có những người được đón nhận Tin Mừng nhờ các nhà truyền giáo từ những nước này như Việt-Nam, Thái Lan, Lào… Sau cùng, vẫn có những người được chọn trước khi Ngày Phán Xét tới.

3.2/ Sự rộng lượng của Thiên Chúa: Ông chủ muốn trả lương tất cả mọi người đồng đều vì ông muốn tất cả đều có một số tiền tối thiểu để sinh sống. Ông không đối xử bất công với những người làm từ đầu vì ông đã thỏa thuận lương với họ và họ đã bằng lòng. Cũng vậy trong kế họach cứu độ của Thiên Chúa. Ngài không đối xử bất công với người Do-Thái khi cho những Dân Ngọai vào Nước Trời.

3.3/ Sự ghen tị của con người: Vì phải lãnh luơng sau cùng nên những người đã làm từ đầu nghĩ mình sẽ được lãnh lương nhiều hơn; nhưng khi thấy mình cũng chỉ được một quan nên họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?"

Cách đối xử của ông chủ là lời cảnh tỉnh cho các môn đệ: Đừng đòi hỏi đặc quyền vì đã làm môn đệ Chúa từ đầu. Nó cũng là lời cảnh tỉnh cho dân Do-Thái: Họ hãnh diện vì được chọn làm dân riêng của Chúa ngay từ đầu, và khinh thường Dân Ngọai là những người không đáng được nhận vào làm dân Chúa. Đó cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người: Đừng đòi hỏi phải được đối xử đặc biệt vì đã theo Chúa lâu năm, đã làm cho Chúa nhiều hơn. Sau cùng, trong con mắt đức tin: một em bé mới sinh qua đời cũng được hưởng Nước Trời như một cụ già sống lâu trăm tuổi.

3.4/ Thái độ con người khi làm việc: vì phần thưởng hay vì lòng “mến Chúa yêu người”? Nếu con người làm việc vì phần thưởng hay tiền công, họ đã được trả công hay lãnh nhận phần thưởng ngay ở đời này. Nhưng nếu họ làm vì lòng “mến Chúa yêu người,” họ sẽ được Thiên Chúa thưởng công xứng đáng ở đời sau. Những người đến làm việc từ đầu ngày, họ đã thỏa thuận với chủ về lương bổng; trong khi những người đến làm sau, họ nghe lời chủ đi làm và trông cậy hòan tòan vào lòng thương xót của chủ sẽ trả công cho họ xứng đáng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải luôn nhớ: Đừng bao giờ lấy tiêu chuẩn của con người áp dụng cho Thiên Chúa trong tư tưởng, cách suy nghĩ, cũng như trong hành động. Nếu muốn học khôn ngoan, thì không có khôn ngoan nào của con người có thể so sánh với khôn ngoan của Thiên Chúa. Hãy để giờ tìm kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa trong Kinh Thánh thay vì những sách vô bổ của thế gian này.
- Sống là sống cho Chúa và tha nhân. Chết là về với Chúa. Đừng sợ đau khổ và ngay cả cái chết để làm chứng cho Tin Mừng.
- Chúng ta phải có lòng thương xót và rộng lượng như Thiên Chúa trong cách đối xử với tha nhân, chứ không phải chỉ sống công bằng là đủ. Đừng đòi hỏi được hưởng đặc quyền vì đã đến trước và đừng ganh tị khi thấy người khác được hưởng đặc ân.
- Làm việc vì lòng mến Chúa yêu người chứ không làm vì bất ký lý do nào khác. Nếu làm vì các lý do khác, chúng ta đã được lãnh ở đời này rồi. Nếu làm vì lòng mến Chúa yêu người, Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ta xứng đáng. 
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét