Trang

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

MỘT NỀN VĂN HỌC CÔNG GIÁO BẰNG CHỮ QUỐC NGỮ CHÍNH THỨC BẮT ĐẦU VỚI GIÁO SĨ ALEXANDRE DE RHODES[1]

MỘT NỀN VĂN HỌC CÔNG GIÁO BẰNG CHỮ QUỐC NGỮ 
CHÍNH THỨC BẮT ĐẦU VỚI GIÁO SĨ ALEXANDRE DE RHODES[1]
 
 
Khi đến Việt Nam vào thế kỷ XVII, các vị thừa sai ngoại quốc tôn trọng nền văn hoá Việt Nam: họ học tiếng địa phương, chữ viết Việt Nam, lúc đó là chữ Nôm, thứ chữ của tầng lớp có học sách thánh hiền. Các giáo sĩ đến đất Việt Nam với mục đích truyền giáo. Vì yêu mến những người mà các ngài loan báo Tin Mừng, nên các ngài kính trọng nền bản sắc văn hoá bản địa. Các ngài đem Lời Chúa cho hết mọi người, không phân biệt thành phần xã hội, nên đã học chữ Nôm để tiếp xúc với thành phần trí thức, quan lại, sĩ phu và sư sãi đang quen sử dụng loại chữ viết này. Nhưng thành phần đại đa số dân chúng thuộc tầng lớp thất học, mù chữ không biết đọc chữ Nôm, lam lũ với miếng cơm manh áo hằng ngày, tiếng nói với “cung giọng như tiếng chim hát” tuyệt vời nhưng khó học. Các ngài nghiên cứu tiếng nói Việt Nam trong khung cảnh văn hoá lúc đó, tạo chữ viết mới bằng phiên âm và viết theo mẫu tự Latinh, để soạn đề cương ngữ pháp và những nội dung giáo lý.
 
Giáo sư Trần Văn Toàn đã nhận định về thái độ của các giáo sĩ mới đến hội nhập vào văn hoá nước ta như sau[2]:
 
“Trước hết, ngay từ thế kỷ XVII, các giáo sĩ Tây phương sang Việt Nam truyền giáo, đã ra công quan-sát phong tục tập quán, đồng thời học tiếng nói và chữ viết của ta, để dễ bề chia sẻ niềm tin của họ với người mình. Họ rất có thiện cảm với người Việt, và đã viết ra nhiều lời ca tụng văn hoá và ngôn ngữ của chúng ta. Ngay trong đầu thế kỷ XVII, giáo sĩ Girolamo Maiorica là người Ý (Italia) đã soạn ra hàng chục cuốn sách đạo bằng chữ nôm. Sau đó giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) quê ở Avignon (nay thuộc về nước Pháp) đã cho in tại Roma năm 1651 sách giáo lý bằng chữ quốc ngữ Việt Nam và tiếng Latinh, sách về ngữ học Việt Nam bằng tiếng Latinh và tự vị Việt - Bồ Đào Nha - Latinh. Những người đã xướng xuất ra các công trình ấy vốn là những người có học thức, có đầu óc cởi mở, và đã ra công học hỏi được nhiều, nhưng ta không nên quên rằng các vị ấy đã học với người Việt mình.”
 
Các giáo sĩ Dòng Tên trong thế kỷ XVII và các giáo sĩ truyền giáo trong những thế kỷ kế tiếp vẫn tôn trọng văn hoá dân tộc, nghiên cứu làm các tự điển và trình bày giáo lý bằng chữ Nôm cho một số quan lại, nho sĩ và sư sãi.
 
“Khi viết sách vở cho người Việt về những điều rất tôn nghiêm như tôn giáo, họ đã dùng ngay chữ nôm (như trong các tác phẩm của Girolamo Maiorica), và người công giáo tiếp tục viết, in và dùng sách chữ Nôm cho đến giữa thế kỷ XX. Tuy vậy họ cũng tìm cách viết tiếng Việt theo mẫu tự Latinh để cho người Âu châu học tiếng Việt cho dễ. Thứ chữ viết ấy được khánh thành trong sách Phép giảng tám ngày của A. de Rhodes cho in tại Roma năm 1651. Chính vì ý thức được rằng ngôn ngữ là kho tàng quí báu của văn hoá dân Việt, và cũng chính vì muốn dùng tiếng Việt cho đúng nghĩa, cho đúng văn pháp, cho nên ngay từ thế kỷ XVII, từ A. de Rhodes trở đi, nhiều giáo sĩ Âu châu đã ra công làm tự vị và viết về ngữ học Việt Nam.”[3]
 
Trong sách Tự điển, Đức cha Taberd cũng quan tâm bảo lưu và đối chiếu chữ Nôm, soạn thảo nhiều khía cạnh trong tự điển của ngài biên soạn (1838) để trải rộng kiến thức khoa học, giáo lý cho nhiều thành phần dân chúng cần tra cứu (sẽ trình bày trong phần nội dung bài nghiên cứu của Giáo sư Trần Văn Toàn).
 
Giáo sư Trần Văn Toàn khẳng định như sau:
 
“Đối với những ai có lòng tha thiết với văn hoá dân tộc, thì cuốn tự vị Việt - Latinh do Giám mục Taberd biên soạn và cho in bên Ấn Độ năm 1838, thực là một tài liệu không thể bỏ qua, vì nó đánh dấu một chặng đường quan trọng trong lịch sử hình thành của nền quốc học Việt Nam. Quan trọng là vì đây là lần đầu tiên chữ quốc ngữ được đối chiếu với chữ Nôm trong một cuốn tự vị được in ra. Các tự vị chữ nôm được biên soạn và ấn hành sau này đều lấy lại cái sáng kiến đó như là một việc rất tự nhiên.”[4]
 
Ngay trong thế kỷ XX, Giáo hội Việt Nam vẫn tôn trọng chữ Nôm và soạn thảo sách dạy chữ Nôm cho dân chúng học tập, như quyển “Hán Tự Qui Giảng” của Đ. Hồ Ngọc Cẩn (năm 1927), đã mượn ít nhiều trong sách Thầy Prémare và Thầy Chouzu soạn thảo.[5]
 
Có thể nói, từ hậu bán thế kỷ XVII  dần dần phân ra 2 xu hướng thực tiễn trong văn học nước nhà: Văn học Việt Nam được trình bày theo chữ viết Nôm và Văn học Nhà Đạo theo Chữ Quốc ngữ, từ từ phát triển trong không gian tôn giáo Công giáo, được Võ Long Tê gọi là “Văn học Công giáo bằng Chữ Quốc ngữ”[6].

Thật vậy, phạm trù theo thuật ngữ “Văn học Công giáo bằng chữ Quốc ngữ” được hai bài tham luận trong Hội thảo Khoa học “BÌNH ĐỊNH VỚI CHỮ QUỐC NGỮ”, tổ chức tại TP. Qui Nhơn vào ngày 12-13/01/2016 trích dẫn bài nghiên cứu của Ông VÕ LONG TÊ, “Lịch sử Văn học Công giáo Việt Nam”, cuốn 1, NXB Tư Duy, Sài Gòn 1965, trang 236, đã đi đến kết luận như sau: 
 
“Với Tự điển Việt-Bồ-La, Ngữ pháp tiếng Việt và Phép Giảng Tám Ngày, chữ Quốc ngữ được điển chế và thí nghiệm trong phạm vi sáng tác. Một nền văn học Công giáo bằng chữ Quốc ngữ chính thức bắt đầu với Giáo sĩ Alexandre de Rhodes” - nhà nghiên cứu Võ Long Tê nhận định.[7]
 
Chúng tôi dựa vào những tham luận của các nhà nghiên cứu trong kỳ “Hội thảo Khoa học, Bình Định với chữ Quốc ngữ” ngày 12-13/01/2016 tại TP. Qui Nhơn. Đặc biệt chúng tôi trích dẫn phần lớn những bài chuyên sâu trước 1975 về Giáo sĩ Đắc Lộ như của các nhà nghiên cứu: ông Nguyễn Khắc Xuyên, Phạm Đình Khiêm, NXB. Tinh Việt Văn Đoàn, Sài Gòn năm 1961, ông Võ Long Tê, “Lịch sử Văn học Công giáo Việt Nam", cuốn 1, của, NXB Tư Duy, Sài Gòn 1965, cũng như Giáo sư Trần Văn Toàn (sđd) để tìm hiểu nội dung sau đây:
 
“MỘT NỀN VĂN HỌC CÔNG GIÁO BẰNG CHỮ QUỐC NGỮ 
CHÍNH THỨC BẮT ĐẦU VỚI GIÁO SĨ ALEXANDRE DE RHODES”
 
Chúng tôi xin trình bày đề tài nghiên cứu trên theo các chương như sau:
 
I. CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA GIÁO SĨ ALEXANDRE DE RHODES (ĐẮC LỘ): GIA TỘC VÀ SỰ NGHIỆP[8]
 
II. CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM CHỮ QUỐC NGỮ CỦA ALEXANDRE DE RHODES[9]
 
A. Tự điển Việt-Bồ-La, ngữ pháp tiếng Việt
 
B- Phép Giảng Tám Ngày, chữ Quốc ngữ được điển chế và thí nghiệm trong phạm vi sáng tác.
 
C- Một nền Văn học Công giáo bằng chữ Quốc ngữ chính thức bắt đầu với Giáo sĩ Alexandre de Rhodes 
 
III. CHƯƠNG III: NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT SỐ TÁC GIẢ VĂN HỌC KITÔ GIÁO QUA DÒNG THỜI GIAN TRÊN 200 NĂM 
 
***
 
CHƯƠNG I

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA GIÁO SĨ ALEXANDRE DE RHODES (ĐẮC LỘ): 
GIA TỘC VÀ SỰ NGHIỆP
 
Công trình Latinh hoá tiếng Việt Nam vào tiền bán thế kỷ XVII là một việc làm tập thể của các giáo sĩ Dòng Tên truyền giáo tại Đàng Trong, có sự đóng góp tích cực trong những năm tháng dài của một số tín hữu Việt Nam. Nhưng việc soạn thảo, in ấn Tự điển Việt-Bồ-La, Ngữ pháp tiếng Việt và Phép Giảng Tám Ngày vào năm 1651 được coi là công lao to lớn của Giáo sĩ ALEXANDRE DE RHODES (thường gọi là ĐẮC LỘ)[10]. Nhưng con người vĩ đại như thế đã hấp thụ được dòng máu gia tộc, môi trường tôn giáo và được đào luyện trong một không gian sống đời thánh hiến cho lý tưởng cao đẹp: truyền giáo vùng Viễn Đông như thế nào?
 
Có thể tóm tắt vài nét sơ lược tiểu sử của Giáo sĩ ALEXANDRE DE RHODES dựa vào một số tài liệu nghiên cứu trong ngày Hội thảo Khoa học “Bình Định với chữ Quốc ngữ” (Bình Định, ngày 12-13/01.2016)[11]. Tuy nhiên, có tầm nhìn tổng quát về “Gia tộc và Sự nghiệp” của Giáo sĩ ALEXANDRE DE RHODES, chúng tôi xin phép trích đoạn hầu như toàn bộ tài liệu của hai tác giả Nguyễn Khắc Xuyên – Phạm Đình Khiêm, tái bản trọn cuốn “PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY”, của ALEXANDRE DE RHODES, NXB Tinh Việt Văn Đoàn (năm 1961), từ trang XIV–XXVI.
 
I. CÔNG DÂN ĐỨC GIÁO HOÀNG
 
“Nếu Giáo sĩ Đắc Lộ có “thẻ căn cước” và thẻ ấy còn giữ được đến ngày nay, chắc chắn ta sẽ đọc thấy ở đó, sau hàng chữ “họ, tên”, đến mục quốc tịch ghi mấy chữ: “Công dân Đức Giáo hoàng” (Sujet du Pape). Quả thực đó mới chính là quốc tịch của Cha Đắc Lộ trên thực tế cũng như pháp lý. Bởi vì tỉnh Avignon, sinh quán của người, thuộc địa hạt Comtat Venaissin, lúc ấy tuy không còn là nơi đóng đô tạm của mấy vị Giáo hoàng thời cận kim, song vẫn là lãnh thổ của Toà Thánh La Mã mà Đức Giáo hoàng là Quốc trưởng.
 
Nguyên quán gia đình Đắc Lộ trước ở thị xã Rueda thuộc tỉnh Calatayud, xứ Aragon, trong nước Tây Ban Nha. Từ địa phương này ông nội Giáo sĩ là Bernardin da Rueda[12] và bà nội là Jeanne de Tolède (tên một tỉnh Tây Ban Nha) di cư đến Avignon hồi thượng bán thế kỷ thứ 16 [13] sống bằng nghề buôn tơ lụa. Thân sinh người là ông Bernardin de Rhodes (tức Bernardin II) được liệt vào bậc thân hào (noble) tỉnh Avignon.
 
Theo các sách đã xuất bản thì Alexandre de Rhodes chào đời ngày 15 tháng 03 năm 1591, nhưng nếu tính tuổi theo những bút tích của chính giáo sĩ, thì người phải sinh vào năm 1593 mới  đúng[14]. Ngoài người anh cả là Raymond de Rhodes, mang tước “Seigneur d’Auriac”[15], giáo sĩ còn có người em là Georges de Rhodes, sinh năm 1597, cũng tại Avignon. Người em này, năm 1615, cũng vào Dòng Tên theo bước chân anh, rồi làm Viện trưởng Học viện Dòng Tên tại Lyon, viết nhiều sách về thần học và triết học và từ trần tại Lyon ngày 17/05/1661. Một người chú ruột của giáo sĩ cũng sinh sống ở Lyon, làm một y sĩ thời danh làm khoa trưởng Trường Y khoa Lyon[16].
 
Theo nhiều nhà khảo cứu và con cháu ngày nay cũng nhìn nhận [17] thì tổ tiên dòng họ Đắc Lộ vốn là người Do Thái cũng trở lại cùng Chúa. Danh từ Rhodes (mà ta phiên âm là Đắc Lộ) gốc ở tiếng Y-pha-nha Rueda, vừa là tên thị xã quê hương, lại vừa có nghĩa là “bánh xe”, biểu hiệu của người Do Thái. Biểu hiệu này có khắc trên mộ chí ông bà nội của giáo sĩ hiện còn tại Avignon. Nhiều gia đình Do Thái Công giáo ở Avignon thời ấy cũng có phù hiệu như vậy.
 
Ra đời dưới bóng những đền đài cổ kính của mấy triều đại Giáo hoàng, Alexandre de Rhodes lại được nuôi dưỡng trong một gia đình đạo đức, có liên lạc chặt chẽ với các cha Dòng Tên sở tại: giấy tờ còn lưu trữ lại viện bảo tàng Calvet (Avignon) cho biết ông nội Giáo sĩ Đắc Lộ đã dâng cúng cho nhà Dòng Tên một thửa đất ở khu Cavaillon để lấy hoa lợi chi dùng.
 
Sau những năm tiểu học và trung học ở quê nhà, Alexandre de Rhodes nảy ý chí dâng hiến cuộc đời cho Chúa: năm 1612, khoảng 18-19 tuổi, ông được nhận vào nhà tập Dòng Tên ở La Mã tập viện Saint-André du Quirinal. Dòng Tên Chúa Giêsu do Thánh Y-nha-xô sáng lập năm 1534 với mục đích tổng phản công trên mặt trận truyền bá đức tin, hồi ấy đang phát triển rất mạnh mẽ, do ảnh hưởng trực tiếp của vị sáng lập, và tấm gương sáng chói của Thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy Đông phương. Các chiến sĩ của Dòng chia nhau đi khắp thế gian chinh phục các linh hồn, nhiều vị nỗi tiếng như Cha Matteo Ricci (Lợi Mã Đậu) ở Trung Hoa, Cha Nobili ở Ấn Độ. Alexandre de Rhodes rồi đây sắp nối tiếp lớp người xuất chúng đó.
 
Tại học viện La Mã, chủng sinh Đắc Lộ chuyên chú về thần học và toán học. Môn này vào thời đó, là một (phụ tá) rất đắc lực cho việc truyền giáo, vì nhờ nó mà các giáo sĩ tính toán được nhật thực, nguyệt thực, vẽ được địa đồ thiên đồ, chế tạo được đồng hồ máy móc, do đó mà gây được cảm tình và uy tín đối với vua quan cũng như dân chúng ở các xứ truyền giáo. Một trong những bạn đồng môn của Giáo sĩ Đắc Lộ là Giáo sĩ Schall, người Đức, sau giảng đạo ở Trung Hoa, có soạn bộ sách bách khoa thiên văn học bằng chữ Hán.[18]
 
Sau khi được phép Cha Bề trên Vitelleschi, Giáo sĩ Đắc Lộ đến lãnh phép lành của Đức Giáo hoàng Phaolô V, rồi theo đường bộ đi Lisbonne, Thủ đô Bồ Đào Nha, để sang Viễn Đông truyền giáo. Ngày 4 tháng 4 năm 1619, ông đáp tàu “Thánh nữ Têrêxa” cùng với 5  bạn đồng tu Dòng Tên trong đó có Cha Jérôme Majorica, người Ý, về sau có giảng đạo ở Xứ Bắc, và trước tác cả một kho sách Nôm hiện nay còn lưu trữ tại Vatican. Vừa ra khơi được mấy ngày đã gặp phong ba rất giữ, xong nhờ ơn riêng Đức Mẹ can thiệp mà giáo sĩ kể như một phép lạ nên được cứu thoát.
 
Sau những chặng ghé khá lâu tại Goa (Ấn Độ) và Malacca (Mã Lai) Cha Đắc Lộ đến Áo Môn (Trung Hoa) ngày 29/05/1623, định vào giảng đạo ở Nhật Bản. Nhưng lúc ấy sau những cuộc tàn sát công giáo rất giữ dội người Nhật đã đóng chặt mọi cửa ngõ. Cha bề trên tỉnh Việt Đông của Dòng Tên liền phái Giáo sĩ Đắc Lộ đến xứ Nam tức Đàng Trong Việt Nam, để tăng cường đoàn tông đồ đã đến hoạt động từ năm 1615.”[19]
 
II. DƯỚI ÁNH SAO SINH NHẬT
 
Sau 19 ngày vượt biển một thời gian khá lâu vì gặp nhiều sóng gió cuối tháng chạp năm 1624, nghĩa là dưới ánh sao Giáng Sinh, Giáo sĩ Đắc Lộ đặt chân đến (xứ Nam) lần đầu tiên. Giáo sĩ lên bộ ở Tỉnh Quảng Nam (Đà Nẵng hoặc Hội An). Ngoài Giáo sĩ Đắc Lộ chuyến tàu này còn đưa đến xứ Nam 6 giáo sĩ Dòng Tên khác, trong số đó có Cha Gabriel de Mattos, thanh tra và một giáo sĩ người nhật thạo chữ Hán.
 
Xứ Nam, còn gọi là Đàng Trong, lúc ấy dưới quyền Chúa Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635), con kế nghiệp Chúa Nguyễn Hoàng, người đã đoạn giao với Chúa Trịnh ở xứ Bắc và tuy vẫn thuần phục vua nhà Lê đóng đô ở Hà Nội, song trong thực tế đã gây dựng một giang sơn biệt lập từ Sông Gianh vào đến Phú Yên. Cửa Hàn và Cửa Hội An (thời ấy gọi là Hải Phố, người Âu viết Faifo) đều thuộc tỉnh Quảng Nam, là hai cửa ngõ thông thương với ngoại quốc. Ngoài các thuyền bè Nhật Bản, Trung Hoa, Mã Lai, tàu buôn Tây phương nhất là của Bồ Đào Nha, từ đầu thế kỷ XVII vẫn thường qua lại cửa bể này, nhân đó, cũng thường có giáo sĩ lui tới song không ở lâu. Giáo sĩ Dòng Tên Francesco Buzomi, người Ý, đến xứ Nam ngày 18 tháng giêng năm 1615, chính là vị khai sáng Giáo đoàn xứ Nam. Sau 10 năm đầu, đạo công giáo đã có một số ít tín hữu do ba giáo sĩ trông coi, dưới quyền điều khiển của Cha Bề trên Buzomi đóng tại Nước Mặn, lúc ấy thuộc Phủ Qui Nhơn nay là tỉnh Bình Định. Các giáo sĩ này đều phải dùng thông ngôn, duy có Cha Francesco di Pina, ở Hội An, rất thông thạo tiếng Việt, nên các bài giảng của người được ích lợi hơn.
 
Việc đầu tiên của Giáo sĩ Đắc Lộ khi đến xứ Nam là học tiếng Việt, mặc dầu nhận thấy rất khó khăn. Giáo sĩ học bài mỗi ngày, cũng chăm chỉ như xứ học thần học ở La Mã, lại nhờ có năng khiếu riêng về ngôn ngữ, nên chỉ 4 tháng đã giải tội được và 6 tháng giảng được bằng tiếng Việt. Giáo sĩ ghi công một người đã giúp giáo sĩ cách lạ lùng: “Một thiếu niên trong xứ, chỉ trong ba tuần lễ đã dạy tôi đủ hết các cung giọng của tiếng Việt, và cách đọc của tất cả các tiếng. Cậu ấy không hiểu tiếng tôi, và tôi cũng chẳng hiểu tiếng cậu, nhưng cậu thông minh đến nỗi tự nhiên hiểu được hết các điều tôi muốn nói, và thật sự, cũng trong ba tuần lễ ấy, cậu đã học đọc được các thư của chúng tôi, lại còn viết được tiếng Pháp, và giúp được lễ bằng tiếng Latinh. Tôi ngạc nhiên thấy một trí khôn mẫn tiệp như vậy và cả trí nhớ vững chắc nữa. Từ đó, cậu làm thầy giảng giúp các cha, và đã trở nên một lợi khí rất đắc lực làm sáng danh Thiên Chúa ở Giáo đoàn này và trong xứ Lào, vì về sau thầy sang đó hoạt động mấy năm rất có hiệu quả. Thầy giảng ấy yêu mến tôi đến nỗi lấy tên tôi.” (A. de Rhodes, Voyages et Missions (1854), tr. 88-89).
 
Sau 6 tháng học tiếng, Giáo sĩ Đắc lộ cùng với Giáo sĩ Pina từ Quảng Nam lên Thuận Hoá (Kim Long). Tại đây, Cha Đắc Lộ được chứng kiến một cảnh tượng vô cùng khích lệ, đầy biểu hiện tốt lành cho tương lai: Cuộc tòng giáo của một bậc mệnh phụ ngang hàng quốc mẫu: bà Minh Đức Vương thái phi, tiết phụ chúa Nguyễn Hoàng, mẹ Ông Tổng Trấn Nguyễn Phúc Khê tức Nghĩa hưng Quận Vương, dì ghẻ của vị chúa đương quyền. Bà này trước kia rất sùng bái thần tượng, đến khi nghe Cha Pina giảng, được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, liền bỏ hẳn sự lầm lạc, chịu Phép Rửa Tội, lấy tên Thánh là Maria Mađalêna, rồi từ đó trở nên cột trụ cho Giáo Hội mới này. Giáo sĩ Đắc Lộ ghi chép: “Trong suốt thời kỳ tôi ở xứ này, tôi vẫn gặp bà và tôi tưởng rằng từ 28 năm nay, bà vẫn một lòng bền đỗ trong sự thực hành đầy đủ các nhân đức Công giáo. Bà lập ra trong dinh bà một nhà nguyện rất đẹp (…); bà đã dùng những lời lẽ khôn ngoan làm cho nhiều người ngoại giáo trở lại, trong số đó có những người họ hàng với nhà vương. Hiện nay bà vẫn là nơi nương tựa của các giáo sĩ và không một giáo hữu nào mà bà không hết lòng giúp đỡ.” (A. de Rhodes, Voyages et Missions (1854), tr. 91, và xem Phạm Đình Khiêm, Minh Đức Vương thái phi, Tinh Việt, 1957).
 
Sau cuộc đại phúc truyền giáo tại Kinh đô, hai giáo sĩ trở về Quảng Nam. Chẳng may cũng trong năm đó (1625), Giáo sĩ Pina phải chết đuối trong khi thừa hành nhiệm vụ tông đồ ngoài cửa Hội An; rồi tiếp đến một sắc lệnh đầu tiên của Chúa Sãi cấm đạo Thiên Chúa. Nhờ được thế tử Nguyễn Phúc Kỳ, con Chúa Sãi lúc ấy làm trấn thủ Quảng Nam, tỏ ra rộng rãi, nên các giáo sĩ vẫn có cách ở lại được trong xứ.
 
Tháng bảy năm 1626, Giáo sĩ Đắc Lộ được Bề trên gọi về Áo Môn để trao phó một nhiệm vụ khác. Trong 18 tháng lưu trú ở xứ Nam lần đầu tiên, Giáo sĩ Đắc Lộ chưa thu hoạch được kết quả bao nhiêu, nhưng đó là một thời kỳ chuẩn bị cần thiết cho những cuộc chinh phục lớn lao sau này.
 
III. SÁNG LẬP GIÁO HỘI ĐÀNG NGOÀI
 
Cũng như ở xứ Nam, xứ Bắc trước thời các Cha Dòng Tên, đã có nhiều giáo sĩ lai vãng, nhưng việc truyền giáo chưa có kết quả. Tháng 3 năm 1626, Cha Baldinotti là giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên đến Đàng Ngoài, vì không biết tiếng, chỉ rửa tội được 4 trẻ em gần chết. Nhưng phúc trình của người gởi về Áo Môn đã mở đường cho giáo sĩ Đắc Lộ đến sáng lập Giáo hội Đàng Ngoài.
 
Cùng với Cha Pierre Marquez, sau 8 ngày vượt bể, Giáo sĩ Đắc Lộ lên bộ ở Cửa Bạng, trong tỉnh Thanh Hoá, chính ngày lễ Thánh Giuse, 19/03/1627. Để ghi nhớ kỷ niệm ấy, người đặt tên cho cửa bể này là Cửa Thánh Giuse (Port de Saint-Joseph) và nhận Thánh Giuse là quan thầy của Giáo hội Đàng Ngoài. Việc lựa chọn này về sau được chính thức xác nhận do Công Đồng đầu tiên của Địa phận Đàng Ngoài họp tại Phố Hiến ngày 14 tháng 02 năm 1670 dưới quyền chủ toạn của Đức cha Lambert de la Motte, Giám mục Đàng Trong, Đại diện Đức cha François Pallu, Giám mục Đàng Ngoài, lúc ấy đã từ Xiêm về Âu châu. (Texte du synode, dẫn trong: Nguyễn Hữu Trọng, Les Origines du Clerrgé viêtnamien).
 
Nhờ biết nói tiếng Việt, việc truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã có kết quả ngay từ lúc đầu. Trước đám đông dân chúng kéo xuống tàu xem các hàng hoá do tàu Bồ Đào Nha chở đến, Cha Đắc Lộ cũng “mở món hàng” của người ra theo lời người và rao rằng: “Tôi có một món hàng còn quý hơn nữa và rẻ tiền hơn hết mọi thứ khác, ai muốn có thì tôi cho không, ấy là đạo thật, là đường thật đưa đến hạnh phúc.” (A. R. Voyages et Missions (1854) tr. 109). Sau bài giảng đầu tiên ấy, và trước khi lên bờ, có hai người “rất khôn ngoan” đã quyết định xin tòng giáo. Mấy ngày sau, Cha Đắc Lộ rửa tội cho họ cùng cả gia quyến. Trong 2  tháng hoạt động trong tỉnh Thanh Hoá, giáo sĩ rửa tội được tới 200 người, một phần ở vùng cửa Bạng, và phần lớn ở khu An Vực, nơi lập ngôi nhà thờ đầu tiên xứ Bắc, gần Thần Phù giáp giới Ninh Bình (C.A Poncet: Les voyage du Père A. de Rhodes de Cửa Bạng à Hanoi, trong B. A. V. H 1942, tr. 261-282). Do đó có câu ca dao:
 
“Thứ nhất Đền Thánh Phapha (Toà Đức Giáo hoàng ở Roma) 
Thứ nhì Cửa Bạng, thứ ba Thần Phù.”
 
Trong thời gian này giáo sĩ được gặp chúa Trịnh Tráng chỉ huy 400 chiến thuyền, 300 thớt voi và 120.000 quân thuỷ bộ đi đánh chúa Nguyễn trong Nam (A. de Rhodes, Voyages et Missions (1854) tr. 110;  Histoire du Tunquin, tr. 94-95). Chúa Trịnh tiếp hai giáo sĩ và các thương gia Bồ Đào Nha rất tử tế. Cha Đắc Lộ tặng chúa một cái đồng hồ quả lắc và một quyển sách toán pháp in bằng chữ Hán có mạ vàng rất đẹp. Đó chính là quyển “Kỷ hà nguyên bản viên dung hiệu nghĩa”, do Giáo sĩ Matteo Ricci (Lợi Mã Đậu) dịch nguyên văn bộ sách của nhà toán học trứ danh cổ thời Hy Lạp: Euclide, và ấn hành tại Bắc Kinh từ năm 1607. Trịnh Tráng hẹn các giáo sĩ ở lại chờ ông trong tỉnh Thanh Hoá. Đến khi thất trận trở về, chúa Trịnh mời các giáo sĩ xuống thuyền để cùng về Hà Nội, dọc đường chỉ nói truyện thiên văn, toán pháp và xem đồng hồ.
 
Về tới Kinh đô (Kẻ chợ) ngày 2/7/1627, Trịnh Tráng cấp cho các giáo sĩ một căn nhà rất đẹp, vừa dùng làm nhà thờ, vừa dùng để ở. Tiếng đồn lan đi khắp xứ, người ta kéo đến rất đông, khiến giáo sĩ phải giảng mỗi ngày bốn lần, có khi sáu lần; mà ngày thì quá ngắn, giáo sĩ nhiều khi phải thức cả đêm để tiếp truyện những người xin tòng giáo hoặc giải tội cho bổn đạo. Kết quả rất mãn nguyện ngay từ lúc đầu và càng ngày càng tăng. Một người em gái của Chúa Trịnh Tráng cùng 17 người trong thân thích tòng giáo một lượt. “Bà này tên thánh là Catarina, nguyên là một nữa sĩ đã thành thơ tất cả cuốn giáo lý, từ việc khai thiên lập địa đến Chúa Giêsu ra đời, chịu nạn, chịu chết, sống lại và lên trời” (A. R. Histoire du Tunquin, tr. 115) Ngoài ra, lại còn nhiều võ quan, binh lính, sư sãi cũng xin rửa tội: Năm đầu 1.200, năm sau 2.000, và năm thứ ba: 3.500 người. (…).
 
Không thụ động, đức tin của các giáo hữu đầu tiên là một đức tin, có khả năng chinh phục người khác. Mỗi người được rửa tội rồi, lại đi khuyên dụ bao nhiều người khác trở lại cùng Chúa. Như ông sư kia, sau khi tòng giáo, đã dẫn đến cho cha Đắc Lộ năm trăm người tân tòng.
 
Trước tinh thần tông đồ mạnh mẽ của giáo dân Việt Nam, Giáo sĩ Đắc Lộ liền nảy ra ý kiến lựa chọn một số phần tử ưu tú, chưa có gia đình, lập thành đoàn thầy giảng, chuyền giúp việc truyền giáo: đó là chủng viện đầu tiên ở Việt Nam để tiến đến hàng giáo sĩ bản quốc. Bốn thầy giảng đầu tiên được làm lễ khấn hứa là Phanxicô, Anrê, Ynhaxô và Antôn, đều là những tông đồ xuất sắc.
 
Chính trong thời kỳ này Giáo sĩ Đắc Lộ bắt đầu soạn cuốn giáo lý bằng tiếng Việt phiên âm theo mẫu tự La Mã gọi là Quốc ngữ: cuốn “Phép Giảng Tám Ngày”. Người cũng soạn nhiều kinh và sách ngắm mười lăm sự thương khó Chúa Giêsu.
 
Sau một năm rưỡi bình an, giông tố bắt đầu nổi dậy trong Giáo hội mới. Do sự xúc xiểm của quan lại, đầu năm 1630, chúa Trịnh ra lệnh cấm Cha Đắc Lộ giảng đạo và phải rút ngay về Ái Môn hoặc Đàng Trong. Vì lúc ấy không có tàu đi Áo Môn, giáo sĩ bị giải xuống thuyền để “tống khứ” vào xứ Nam. Không ngờ cuộc lưu đày ấy trở nên một cuộc hành trình thoả mãn: Trong ba tuần lênh đênh mặt biển, giáo sĩ đã rửa tội được 24 trong số 36 người lính có phận sự thi hành án trục xuất giáo sĩ. Sau cùng, viên đội trưởng cũng xin rửa tội, lấy tên thánh là Augutinô. Từ đó người mang án phát lưu trở nên chủ nhân ông chiếc thuyền Nhà nước. Thay vì chở giáo sĩ đến hải phận Đàng Trong, họ để giáo sĩ lên bộ ở Bắc Bố Chính, để gặp các giáo hữu miền này.
 
Cha Đắc Lộ hoạt động kín đáo ở vùng Bố Chính, Nghệ An trong 4 tháng, rồi lại gặp hai cha Dòng Tên khác đưa tàu Bồ Đào Nha đến đón ở Cửa Chúa (Nghệ An) và đen về Hà Nội. Chúa Trịnh Tráng biết vậy nhưng không nói gì, đến khi tàu bán hết hàng và nhổ neo, chúa sai người đến truyền cho cả bốn giáo sĩ phải rời xứ (tháng 5/1630).
 
Gạt nước mắt từ giã giáo hữu Đàng Ngoài, Giáo sĩ Đắc Lộ đem theo một bức thư của họ viết bằng chữ Hán gởi lên Đức Giáo hoàng Urbanô VIII bày tỏ lòng kính mến trung thành của các giáo hữu Đàng Ngoài lúc ấy[20]. Họ cũng gởi Giáo sĩ Đắc Lộ một thư khác cho Cha Bề trên cả Dòng Tên, thỉnh cầu gởi giáo sĩ đến truyền giáo (Nguyễn Hồng, Lịch sử Truyền giáo ở Việt Nam, tr. 140. Nội dung thư này không khác nhau mấy).
 
IV. CỦNG CỐ GIÁO HỘI ĐÀNG TRONG
 
Sau 3 năm 2 tháng ở xứ Bắc, Cha Đắc Lộ rút lui về Áo Môn, “lòng sầu vô hạn” vì nhớ giáo hữu Việt Nam (…).
 
Sau 10 năm ở Áo Môn, Giáo sĩ Đắc Lộ lại được cử sang xứ Nam lần thứ hai vào tháng 2 năm 1640. Lúc ấy trong xứ có chừng 50.000 giáo hữu (Statistiques A. Brou) mà không có một linh mục nào, vì năm trước, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648) đã trục xuất tất cả các giáo sĩ, và Cha Bề trên Buzomi đã từ trần sau 24 năm tận tụy với Giáo hội này.
 
Sau khi chinh phục được cảm tình của viên bang trưởng Nhật Kiều ở Hội An, giáo sĩ Đắc Lộ được ông ta dẫn lên yết kiến chúa Thượng ở Kim Long. Bao nhiêu tiền mang theo để chi dụng trong một năm, giáo sĩ dùng hết để mua lễ vật dâng tặng cho nhà vương, được vương đối đãi rất có cảm tình. Bà Minh Đức Vương Thái Phi, sau mười bốn năm xa cách, rất sung sướng được gặp lại giáo sĩ; bà mời giáo sĩ về dinh và kêu gọi các giáo hữu đến để chịu các phép bí tích. Ngày nào Cha Đắc Lộ cũng làm lễ trong nhà thờ bà lập ở trong dinh bà. Trong 35 ngày, giáo sĩ rửa tội được 94 người, trong đó có 3 bà có họ gần với nhà vương và một thầy sãi.
 
Đến khi trở về Hội An, tàu Bồ Đào Nha đã trẩy rồi, quan Cai bộ Quảng Nam mà giáo sĩ gọi là “Onghebo” tức Ông Nghè Bộ, ra lệnh cho giáo sĩ phải rời xứ bất cứ bằng cách nào, “dầu phải đi trên mặt nước”. Giáo sĩ buộc lòng phải mua một chiếc thuyền, rồi cùng với một giáo sĩ khác, và ba thanh niên Công giáo tự lái lấy thuyền vượt sóng Thái Bình Dương đi Áo Môn. Thật là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, nhưng “nhờ ơn Chúa dẫn dắt” thuyền đã tới bến bình an ngày 20/09/1640.
 
Ba tháng sau, Cha Đắc Lộ trở lại Đàng Trong lần thứ ba vào ngày áp lễ Sinh nhật 1640 cùng với Giáo sĩ Benoit de Mattos, để rồi lại bị trục xuất vào ngày 2 tháng 7 năm 1641. Trong thời gian này, sau khi hoạt động ít lâu ở Quảng Nam, hai giáo sĩ chia tay, de Mattos lên phía Bắc: Thuận Hoá, Quảng Bình, giáp giới Đàng Ngoài; Đắc Lộ xuống miền Nam: Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, giáp giới Chiêm Thành. Riêng ở họ Phú Yên, trong hai tháng, giáo sĩ đã rửa tội được 90 người trong số đó cớ một thanh niên 16 tuổi sau này sẽ là vị Tử đạo tiên khởi: thầy giảng Anrê Phú Yên. Cuộc rửa tội này cử hành trong 4 ngày liền ngay trong dinh quan Trấn Thủ Trấn Biên dinh, lúc ấy là ông Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh; và người đứng tổ chức cuộc lễ lại chính là bà vợ quan Trấn thủ, tức công chúa Ngọc Liên, trưởng nữ chúa Sãi, chị ruột chúa Thượng. Bà này tòng giáo từ năm 1636, được rửa tội ngay tại Phú Yên, lấy tên thánh là Maria Mađalêna cũng như bà Minh Đức Vương Thái Phi, hẳn là do gương sáng hoặc ảnh hưởng của bà Minh Đức vậy. (Phạm Đình Khiêm, Người chứng thứ nhất, tr. 58-68).
 
Lần thứ tư Giáo sĩ Đắc Lộ lưu trú ở xứ Nam tương đối lâu hơn cả: từ cuối tháng giêng 1642 đến tháng 9 năm 1643. Chính trong thời kỳ này, giáo sĩ thành lập đoàn thầy giảng Đàng Trong theo kinh nghiệm ở Đàng Ngoài. Trong mười thầy giảng đầu tiên làm lễ khấn ngày 31 tháng 7 năm 1643, sau này sẽ có ba vị tử đạo: Anrê Phú Yên đã nói trên, Ynhaxô Quảng Trị, cựu quan ở Chính Dinh, thủ lãnh các thầy giảng, và Vinh Sơn, Quảng Ngãi cũng 19 tuổi như An Rê. Sau khi Cha Đắc Lộ tạm rời xứ, 10 thầy chia nhau đi khắp nơi thăm viếng bổn đạo và rửa tội được 596 người.
 
Với một lòng trung kiên hiếm có, Giáo sĩ Đắc Lộ còn vượt trùng dương đến xứ Nam lần thứ năm, và là lần chót, vào đầu tháng 3-1644. Đây là giai đoạn “leo núi Sọ” của nhà truyền giáo. Trong khi đoàn tông đồ được cảm tình của chúa Thượng hơn mọi khi và năng lui tới nhà các quan đại thần để thảo luận về tôn giáo, thì bỗng nhiên do mật lệnh của Tống Thị, một dâm hậu phản phúc và ghét đạo, “Ông Nghè Bộ” Quảng Nam cho đến vây nhà Cha Đắc Lộ ở Hội An, bắt thầy giảng An Rê Phú Yên điệu đến Dinh trấn Thanh Chiêm (Dinh Chiêm). Nội ngày hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, An rê Phú Yên anh dũng đổ máu xưng tỏ Đức tin: đó là “Người chứng thứ nhất” của Chúa Giêsu ở xứ Nam, và cũng đáng kể là tiên khởi tử đạo của toàn quốc. Đời sống nhân đức, cái chết anh hùng và các phép lạ lẫy lừng của người từ Việt Nam qua Âu Châu đã chấn động dư luận thời ấy và còn gây ảnh hưởng cho bao thế hệ về sau (Xin xem cuốn Người Chứng Thứ nhất (Tinh Việt 1959).
 
Hai tháng sau, đến lượt chính Giáo sĩ Đắc Lộ bị chúa Thượng ghép án tử hình, sau đổi ra án trục xuất, làm cho giáo sĩ vừa tiếc phúc tử đạo, vừa buồn vì sự biệt ly.
 
Người rời xứ Nam ngày 3 tháng 7 năm 1645, nhưng “lòng và trí lúc nào cũng để cả ở xứ Nam cũng như xứ Bắc”. Tính cả năm thời kỳ, người chỉ ở Đàng Trong không quá năm năm bảy tháng, nhưng đã đem đến cho Giáo Hội này, những tiến triển quan trọng đã củng cố nền tảng của Giáo Hội bằng tổ chức thầy giảng, và nhất là bằng máu các vị tử đạo đầu tiên.
 
V.  SỨ GIẢ CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM TẠI ÂU CHÂU
 
Rời Việt Nam ngày 3 tháng 7 năm 1645, hai mươi ngày sau, Giáo sĩ Đắc Lộ tới Áo Môn. Bề trên Dòng Tên tại đây thấy không thể để người trở lại Đàng Trong được vì làm như thế là khiêu khích nhà cầm quyền ở đó, liền quyết định cử người đi Âu châu để tìm sự giúp đỡ về đường thiêng liêng và thực tế. Trong khi sửa soạn và chờ ngày lên đường, Cha Đắc Lộ dạy tiếng Việt cho hai cha khác có nhiệm vụ đến thế người ở Đàng trong: Cha Metello Saccano và Cha Carlos della Rocca, đều là người Ý.
 
Ngày 20 tháng 12 năm 1645, hai cha này đáp tàu đi xứ Nam thì Giáo sĩ Đắc Lộ đáp tàu đi Âu châu với sứ mạng rõ rệt:
 
- Tâu trình Đức Thánh Cha nhu cầu cần thiết của giáo hữu Việt Nam cần có Giám mục.
 
- Bày tỏ cho các vua chúa Công giáo biết sự thiếu thốn cực độ của các cha ở các xứ truyền giáo tốt đẹp ấy.
 
- Trình bày cùng Cha Bề trên Cả những hy vọng lớn lao về việc làm cho các dân tộc đó trở lại cùng Chúa, nếu có đủ số người truyền giáo rao giảng Phúc Âm.
 
Cha Đắc Lộ định đem một người Trung Hoa, một người ở xứ Bắc và một người xứ Nam đi Âu Châu với người để giới thiệu ba Giáo Hội mới đó, song vì có ý kiến Bề trên, người chỉ đem theo một người Trung Hoa. Nhưng một sứ giả vô hình của Giáo hội Việt Nam, vị tử đạo An Rê Phú Yên, đã đi theo Cha Đắc Lộ, và đã đóng giữ vai trò then chốt trong công cuộc lớn này, như sau đây chúng tôi sẽ nói rõ.
 
Sau 25 ngày vượt biển trong một đoàn gồm tám chiếc tàu lớn của người Bồ Đào Nha, cha Đắc Lộ đến Malacca (Nam Dương quần đảo) ngày 14 tháng Giêng năm 1646, chính là ngày người Hoà Lan kỷ niệm cuộc chiếm đoạt đảo này được 6 năm. Cha Đắc Lộ nhớ lại 23 năm trước, khi đi qua đây, đã chứng kiến bao nhiêu công cuộc công giáo do người Bồ Đào Nha gây dựng mà nay chỉ còn đống tro tàn dưới ảnh hưởng bài Công giáo của người Hoà Lan, giáo sĩ đã phải đau lòng lắm.
 
Tuân theo lời dặn của Bề trên, người rời đoàn tàu Bồ Đào Nha, nhờ đáp tàu Hoà Lan để về Âu châu cho mau chóng hơn, vì lẽ tầu Bồ Đào Nha thường ghé ở lại Goa (Ấn Độ) rất lâu. Sau 40 ngày chờ đợi vô hiệu, người liền đi Djakarta (thủ đô Nam Dương) hy vọng ở đấy có nhiều chuyến tàu đi Âu châu hơn.
 
Không ngờ vì lòng sốt sắng, vị Tông đồ lại bị nhà cầm quyền ở đây bắt giam cực khổ luôn trong 3 tháng, chỉ vì khi đến nơi, và trong thời gian chờ đợi (năm tháng) người đã truyền bá đức tin Công giáo giữa những người Hoà Lan thệ phản. Được giải phóng, giáo sĩ đi Bantan (đảo Java) định nhờ tàu Anh Cát Lợi về Âu châu song người bị từ chối từ cũng vì vấn đề chia rẽ tôn giáo. Ngày 25 tháng 10 năm 1646, Cha Đắc Lộ rời Java trên một chiếc tàu Bồ Đào Nha đi Macassar, trong quần đảo Célèbes. Sau 5 tháng đợi ở đây, lần này người được một tàu Anh Cát Lợi nhận chở về Âu châu. (…)
 
Ra đi đầu tháng 3 năm 1648, Giáo sĩ Đắc Lộ nhập bọn với đoàn lữ hành qua Chiras và Ispahan, đều là cố đô Ba Tư; Tauris, cố đô xứ Médie, nay là Azerbaidjan bị Nga Xô chiếm cứ; Irvan, thủ phủ Xứ Arménie Thượng, dưới chân một ngọn núi cao chót vót và người ta nói xưa kia tàu ông Noe đậu trên đó sau kỳ Đại hồng thuỷ, nay cũng bị Nga Xô thôn tính. Sau đó, giáo sĩ qua xứ Arménie Hạ và xứ Anatolie là đất của người Thổ Nhĩ Kỳ. Đến Hải Cảng Smyrne ngày 17 tháng ba năm 1649, giáo sĩ đáp tàu buôn của người Ý, vượt Địa Trung Hải, qua đảo Sicile, sau cùng về đến La Mã hai ngày trước lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, 27 tháng 6 năm 1549. Cuộc hành trình mà ngày nay ta có thể thực hiện trong 20 tiếng đồng hồ bằng phi cơ phản lực đầy đủ tiện nghi, Giáo sĩ Đắc Lộ phải kéo dài trong 3 năm 6 tháng, trong đó 12 tháng đi bộ, vượt bao hiểm nguy và cực nhọc vì tương lai Công giáo Việt Nam.
 
Về tới Thủ đô Giáo Hội, Cha Đắc Lộ lo thi hành ngay sứ mạng của người. Người đã yết kiến Giáo hoàng Innocentê X nhiều lần và “hằng ngày đã đến gõ cửa các đức hồng y” – như lời người nói – “để tường tình về các Giáo hội mới kia đang giơ tay ra và hỏi đường lên thiên đàng.” (A. R., Voy. Et Miss., tr. 435)
 
Người đã đệ hai bản điều trần, một lên các Đức Hồng y ở Bộ Truyền giáo, ngày 2 tháng 8 năm 1650, và một lên chính Đức Giáo hoàng ngày 6 tháng 3 năm 1651. Trong cả hai tài liệu đó, người trình bày đại khái: Hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài nước Việt Nam là một Giáo hội đã có đến 300.000 giáo hữu và mỗi năm tăng thêm ít nhất 15.000 linh hồn, rải rác trên một diện tích bằng cả nước Ý, vậy mà chưa một giáo hữu nào được chịu phép Thêm sức và rất nhiều người chết không được chịu phép Bí tích sau hết, đã vậy lại còn bị bách hại, và đã có bảy người tử vì đạo. Để giúp đỡ một Giáo Hội như vậy, đáng lẽ phải cần gởi đi từ 300 đến 400 linh mục mới đủ, nhưng trong thực tế không thể nào thực hiện được một chương trình như vậy, ấy là chưa nói đến sự khó khăn về phương diện chính trị ở các xứ truyền giáo. Kết luận, giáo sĩ đề nghị thiết lập ngay hàng giáo sĩ bản quốc, và muốn vậy, cần phải cử các vị Giám mục sang để phong chức cho các linh mục bản quốc chọn trong số các thầy giảng.
 
Lúc ấy việc truyền giáo ở các xứ Viễn Đông còn tuỳ thuộc sự “bảo trợ” (Patronat) của vua nước Bồ Đào Nha, mà chế độ bảo trợ này đã đến lúc tỏ ra có nhiều trở ngại cho sự tiến triển của việc truyền giáo. Vì vậy giáo sĩ Đắc Lộ đề nghị một giải pháp đặc biệt: Các vị giám mục sẽ do Tòa Thánh cử thẳng sang Viễn Đông không phải qua Kinh đô Bồ Đào Nha như trước và sẽ mang tước hiệu đặc biệt là “Đại diện Tông toà” (Vicaire Apostolique) tại các dân ngoại (in partibus infidelium), chứ không phải là “giám mục chính toà” (Evêques résidentiels).
 
Sau khi thảo luận nhiều lần, ngày 1 tháng 8 năm 1651, các Hồng y đề nghị lên Đức Giáo hoàng cử sang Đông Dương một vị Thượng phụ Giáo chủ (Patriarche) hai hoặc ba vị Tổng Giám Mục và 12 giám mục đều có tước hiệu “in partibus infidelium”. Đề nghị ấy bị trả về để nghiên cứu lại.
 
Ba năm đã qua, mà kết quả chưa đạt, Giáo sĩ Đắc Lộ rời La Mã đi Ba Lê (11/09/1952) để vận động cho công cuộc truyền giáo và lựa chọn người có thể sung chức Giám mục ở Việt Nam. Tại đây, giáo sĩ làm quen với nhóm “Les Bons Amis” đầy tinh thần truyền giáo, nhiệt liệt hưởng ứng chương trình của người, nhất là cha François Pallu, sau này sẽ là một trong hai vị Giám mục đầu tiên ở Việt Nam và cũng là người sáng lập Hội Truyền giáo Ngoại quốc tại Paris. Nhiều bậc thế giá cũng hưởng ứng bằng cách quyên cúng tiền bạc. Sau cùng, chính Đại hội Hàng Giáo phẩm Pháp hai lần gởi tỉnh nguyện lên Đức Giáo hoàng, xin cử các Giám mục sang coi sóc Giáo hội Việt Nam. Bản thỉnh nguyện thứ hai đề ngày 29 tháng 9 năm 1653 có cả chữ ký của bộ Thánh đại - danh Vinh Sơn Phaolô, mà năm 1690 cũng là năm kỷ niệm tam bách chu niên huý nhật.
 
Đến đây cuộc vận động của Cha Đắc Lộ sắp đạt tới thành công, thì cũng là lúc mà người học sử phải đếm xỉa đến vai trò vô hình nhưng có tính cách quyết định của vị sứ giả Việt Nam: Thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo.
 
Lúc rời Đàng Trong lần chót, Giáo sĩ Đắc Lộ mang theo bên mình một nguồn an ủi duy nhất: thủ cấp của vị Tử đạo tiên khởi Việt Nam, người con thiêng liêng từ nay đã trở nên “vị thủ bảo hộ” của người – theo chính lời người nói. Tàu đi đến ngang đảo Hải Nam thì gặp phong ba dữ dội, tưởng chết không đất cứu. Giáo sĩ cầm đầu của vị tử đạo lên, bảo mọi người quỳ xuống cầu nguyện. Chưa đọc hết kinh cầu Đức Mẹ, thì tức khắc bão tố dừng lại, mọi người la lên “Phép lạ! Phép lạ!”. Và giáo sĩ đã tới Áo Môn bình an. Đến khi được cử đi La Mã, người quyết định đem thủ cấp vị Tử đạo Việt Nam về tận Giáo Đô để chứng đức tin của dân Việt. Khi đến biển Nam Dương (25 tháng 2 năm 1646), tàu của giáo sĩ đụng đá ngầm, vỡ một miếng lớn. Chính lúc ấy, thủ cấp của vị Tử đạo lại được đưa lên cho mọi người cầu nguyện. Và Đức Chúa Trời đã làm một phép lạ lẫy lừng khác đến hiển danh Tôi tớ Chúa và cứu Giáo sĩ Đắc Lộ: Đá đã tự động vá vỏ tàu, và tất cả hành khách đã được bình an vô sự!
 
Chẳng những bao nhiêu công cuộc vận động của Cha Đắc Lộ về sau đều tuỳ thuộc ở ơn cứu tử ấy, mà chính vị Tử đạo An Rê còn làm nhiều phép lạ khác ở giữa “Kinh đô Ánh sáng”, (1653) gây nên một trào lưu thiện cảm nồng nhiệt ở Ba Lê đối với công cuộc truyền giáo ở Việt Nam, và như vậy là trực tiếp giúp vào sự thành công của sứ mạng cha Đắc Lộ. Tất cả các sự việc này đều được giáo sĩ Đắc Lộ ghi chép cặn kẽ nhiều lần trong các tác phẩm của người. 
 
VI. THUỶ TỔ CÁC TÁC PHẨM SÁCH QUỐC NGỮ 
 
Ngoài sự nghiệp truyền giáo, Cha Đắc Lộ còn thực hiện một sự nghiệp văn hoá cực kỳ quan trọng trong sự tiến hoá của xã hội Việt Nam.
 
Nguyên trước kia, người Việt Nam chỉ dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm làm phương tiện diễn đạt và truyền bá tư tưởng. Hai lối chữ này đều rất khó học, khó nhớ, nên sự phổ biến có phần hạn chế. Khi các giáo sĩ Âu châu tới giảng đạo, các ngài sáng chế ra một lối viết tiếng Việt theo mẫu tự La Mã, thoạt đầu chỉ có ý cho dễ nhớ bài học Việt Ngữ. Đến lượt cha Đắc Lộ, ngài đã làm cho lối phiên âm đó hoàn hảo hơn, đã bắt đầu dùng lối chữ đó để soạn sách, và đến khi về La Mã, đã nhờ ấn quán của Toà Thánh đúc riêng lối chữ mới để ấn hành các sách đó. Như vậy, người là vị có công nhất trong việc thành lập “chữ Quốc ngữ” và chính là thuỷ tổ các sách Quốc ngữ vậy.
 
Những tác phẩm căn bản đó là:
 
1) Cuốn giáo lý Latinh và Quốc ngữ đối chiếu, nhan đề Cathechismus pro iis qui volunt suscipere Baptismum in octo dies divisus – Phép giảng tám ngày cho kẻ muẩn (muốn) chịu phép rửa tội mà beào (vào) đạo thánh đức Chúa blời (Trời, lời). Cuốn này, giáo sĩ bắt đầu soạn từ lúc giảng đạo ở Đàng Ngoài, và khi còn là bản thảo, đã được dùng vào việc truyền giáo ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong, nhất là để huấn luyện các thầy giảng, sau được ấn hành tại La Mã năm 1651. Sách này đã được dịch ra tiếng Xiêm và mới đây Đức Cha Chappoulie đã dịch ra tiếng Pháp in trọn vẹn trong bộ “Rome et les Missions d’Indochine au XVII è siècle” Paris, 1943.
 
2) Cuốn tự điển Việt Bồ La, nhan đề Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, in tại La Mã cũng năm 1651, dầy gần 500 trang. Để soạn sách này, tác giả đã nhờ sự cộng tác của người Việt Nam, nhất là các thầy giảng, giúp người học tiếng trong gần 12 năm hoạt động ở Đàng Ngoài, và cả các nhà truyền giáo khác, nhất là giáo sĩ Francesco de Pina, Dòng Tên. Tác giả cũng lợi dụng bản thảo cuốn tự vị Việt Bồ (Annamiticum - Lusitanum) của Gaspard de Amaral, và cuốn Bồ Việt (Lusitanum – Annamiticum) của Antonio Barbosa, cả hai đều là giáo sĩ Dòng Tên, đã đến giảng đạo một tời kỳ ở Đàng Ngoài sau Cha Đắc Lộ và đã từ trần năm 1646–1647.
 
3) Cuốn văn phạm Việt Nam nhan đề Linguae Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaratio. Cuốn này đóng chung một tập với cuốn tự điển trên, song thực là một văn phẩm riêng biệt, chia làm tám chương đánh số trang riêng không tuỳ thuộc vào cuốn Tự điển. Chính giáo sĩ Đắc Lộ cũng kể đó là một cuốn sách riêng (A. R. Voyages et Missions, tr. 89).
 
Cả ba cuốn sách kể trên thật là những tài liệu vô giá chẳng những vì đã cống hiến cho chữ Quốc ngữ một hình thức xác định và một địa vị vững chắc, nó còn là viên đá đầu tiên của ngữ học, văn học và truyền giáo học ở Việt Nam.
 
Ngoài ra, trong thời kỳ ở Âu châu, Giáo sĩ Đắc Lộ còn cho ấn hành nhiều tác phẩm ngày nay đã trở nên những sử liệu quý giá cho Việt Nam về cả các phương diện lịch sử, địa dư, tôn giáo, phong tục… Quan trọng nhất là cuốn “lịch sử xứ Bắc Kỳ” bằng tiếng Ý (1650), tiếng Pháp (1651) và tiếng Latinh (1652); và cuốn “Hành trình và Truyền giáo” bằng tiếng Pháp (1653) sau được dịch ra tiếng Đức (1858)… Ngoài ra giáo sĩ còn tường thuật đầy đủ về cuộc tử đạo của Thầy giảng An Rê trong một cuốn sách tiếng Ý (1652) sau lại viết ra tiếng Pháp (1653).
  
VII. NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI
 
Tuổi lục tuần, thường tình là tuổi nghỉ ngơi, hưu dưỡng, người ta tìm về quê hương vui thú điền viên. Giáo sĩ Đắc Lộ, trái lại, giữa 61 tuổi, lại rời quê hương ra đi một lần nữa, với sứ mạng lãnh đạo một cơ sở truyền giáo của Dòng Tên ở một xứ hoàn toàn xa lạ: nước Ba Tư.
 
(…)
 
Lúc cuộc đời xế bóng, người được vui mừng thấy những cuộc vận động nhiệt thành của mình mấy năm trước đã được hoàn toàn thực hiện. Ngày 29 tháng 7 năm1658, Đức Giáo hoàng Alexandre VII  ký sắc bổ nhiệm hai vị Giám mục để gởi sang Việt Nam. Năm sau lại có đạo sắc ngày 9 tháng 9 thành lập và qui định ranh giới hai địa phận công giáo đầu tiên ở Việt Nam: Đàng Trong và Đàng Ngoài. Trong một bức thư đề ngày 3 tháng 6 năm 1659, Giáo sĩ Đắc Lộ đã biểu lộ sự hoan hỉ về kết quả tốt đẹp ấy.
 
(…) Theo chứng cớ của người đồng thời, Giáo sĩ Đắc Lộ từ trần, những người Hồi giáo tuy không cùng tín ngưỡng, nhưng họ coi người như một đấng thánh, một người thượng trí, và họ đổ xô nhau đi theo quan tài của người, làm thành một đám tang hiếm có  ở kinh đô xứ “Ngàn lẻ một đêm” này. Anh em trong Dòng cũng tôn kính người như bậc đáng kính vì người đã thực hành mọi nhân đức và lập công nghiệp vô vàn (Ménologe: Alexandre de Rhodes). 
PHẠM ĐÌNH KHIÊM [21]
 
CHƯƠNG II

PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM CHỮ QUỐC NGỮ CỦA ALEXANDRE DE RHODES[22]
 
A -  Tự điển Việt-Bồ-La, Ngữ pháp tiếng Việt
 
B- Phép Giảng Tám Ngày, chữ Quốc ngữ được điển chế và thí nghiệm trong phạm vi sáng tác.
 
C- Một nền văn học Công giáo bằng chữ Quốc ngữ chính thức bắt đầu với Giáo sĩ Alexandre de Rhodes”: Một số tự điển và bài viết trong Văn học Nhà Đạo. 
 
Phân tích các tác phẩm chữ Quốc ngữ của Alexandre de Rhodes
 
Trước khi nhận định phần đóng góp của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes trong công cuộc sáng chế chữ Quốc ngữ và hình thành ngôn ngữ Công giáo, chúng ta hãy lần lượt giới thiệu 3 tác phẩm chữ quốc ngữ của giáo sĩ là Tự điển Việt-Bồ-La, Văn phạm Việt ngữ và Phép Giảng Tám Ngày.
  
A. Tự điển Việt-Bồ-La, Ngữ pháp tiếng Việt
 
1. Tự điển Việt-Bồ-La

 
Cuốn này in tại Rôma ngày 5 tháng 2 năm 1651 do Thánh bộ Truyền giáo xuất bản với tên sách: Dictionarum Annamiticum Lusitanum et Latinum.
 
Trong bài tựa bằng tiếng Latinh, tác giả cho chúng ta biết về quá trình soạn thảo và xuất bản cuốn tự điển này.
 
Theo tác giả, mục đích xuất bản cuốn tự điển là để giúp ích cho công cuộc truyền giáo. Về sự quan trọng của tiếng Việt, tác giả viết: “Tiếng Việt Nam là thứ tiếng không những cho hai xứ khác rộng lớn là xứ Đàng Ngoài và xứ Đàng Trong, thêm vào đó ta còn phải kể đến xứ Cau Bằng là một xứ cũng đang thuần tiếng Annam, mà còn chung cho nhiều xứ lân cận, Ciampa, Laorum và Siam”[23]. Tác giả còn cho biết đã học tiếng Việt với những người bản xứ trong thời gian 12 năm ở Đàng Trong và Đàng Ngoài nhất là với các giáo sĩ khác như Giáo sĩ Francesco de Pina. Tác giả lợi dụng cuốn tự điển Việt Bồ của Gaspar d’Amaral và cuốn tự điển Bồ Việt của Antonio de Barbosa và chua thêm tiếng Latinh[24].
 
Cuốn tự điển này dày gần 500 trang, mỗi trang chia làm hai cột, đánh số theo cột chứ không theo trang.
 
Tác giả sưu tập những tiếng đơn và thành ngữ thông dụng.
 
Chẳng hạn như tiếng ác, tác giả lần lượt đưa ra tiếng đồng nghĩa dữ và các thành ngữ: ác tâm (làõ dữ = lòng dữ) đại ác (dữ lắm), chơi ác, hay ác, ác nghiệp.
 
Về tiếng ăn, tác giả lần lượt đưa ra các thành ngữ: ăn cơm, ăn mầng, ăn tết, ăn mày, ăn mót, ăn via, ăn táp, ăn chay, ăn chay cả, ăn kiêng, ăn lại, ăn tiền, ăn géy, ăn chỉ, ăn lở, ăn lãi, của tàu ăn, géy ăn mực, buầm ăn rỡu, buầm ăn gió, ăn năn tội, ăn trộm, ăn cướp, cưa ăn gỗ.
 
Tác giả còn định nghĩa theo nhận định của người đương thời. Chẳng hạn như tiếng Bà lão là một bà đáng kính, bà già là người đàn bà đã có tuổi, bà sang là một vị cung phi của nhà vua đã quá cố. (Theo Thanh Lãng, sđd, trang 22).
 
Cuốn tự điển Việt-Bồ-La của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes không những là hoá thân của các tự điển của Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa, mà còn là tài liệu chắc chắn về hình thức chữ Quốc ngữ. Nhờ công trình san định và dịch nghĩa của Alaxandre de Rhodes mà chúng ta có tài liệu để tìm hiểu sự tiến hóa của ngôn ngữ văn tự Việt Nam.
 
2) Văn phạm Việt ngữ
 
Như trên đã nói, đây là một tác phẩm riêng biệt bằng tiếng Latinh đóng chung vào với cuốn tự điển Việt-Bồ-La và mang tựa đề: Linguae annamticae seu Tunkinensis Brevis Declaratio (Tiểu lược về tiếng Việt hay tiếng Đông Kinh).
 
Mở đầu tác giả nói chung về những đặc tính căn bản của tiếng Việt. Theo tác giả, tiếng Việt cũng như tiếng Hoa, tiếng Nhật không có giống loại, từ ngữ không biến thể như các thứ tiếng Tây phương. Để chỉ định thời gian cho động từ, có những tiếng thêm vào động từ. Các dấu giọng lên xuống là linh hồn của tiếng Việt.
 
Tiếp theo là 8 chương bàn về văn phạm Việt ngữ.
 
Chương I: De littéris et syllabis quibus haec linguae constat (Bàn về chữ và vần cấu tạo nói tiếng Việt)
 

Sau khi luận rằng chữ nôm khó học, có thể có hơn 80.000 tiếng khác nhau nên khó mà thông thạo hết được, tác giả bàn về các mẫu tự chữ Quốc ngữ: “Tiếng Bắc kỳ có hết các chữ như tiếng chúng ta, chỉ tiếu có chữ z. Thực ra học không có chữ F của chúng ta mà chỉ có chữ ph hay đúng hơn chữ phỉ Hy Lạp. Tuy vậy chúng tôi có dùng chữ ph cho dễ dàng hơn và tiện lợi hơn, cần sao tránh được sự hiểu lẫn lộn. Ngoài ra, còn phải trên 4 chữ mới để phát âm mấy tiếng riêng biệt mà trong tiếng Âu Châu không có. Bốn chữ đó là 2 chữ nguyên âm ơ và ư và hay chữ phụ âm b và đ[25].
 
Tác giả lần lượt giải thích các nguyên âm và phụ âm a, b, c, d, đ, e, f đúng hơn là ph) g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, x.
 
Chương II: De accentubus et aliis signis in vocalibus (Bàn về âm thanh và các dấu của nguyên âm)
 
Tác giả cho rằng linh hồn của tiếng Việt ta ở các dấu lên xuống và sáu dấu lên xuống trong tiếng ta như 6 dấu trong nhạc lý Âu châu.
 
Tác giả có tiểu xảo đưa ra tiếng Việt tương đương với nốt nhạc để chứng minh lập luận: dò (pedica) rệ (radix), mi (nomen cojusdam familiae) pha (miscere) sổ (cathalogus) lá (folium). (…)
 
Chương III: De Mominibus (bàn về danh từ)
 
Tác giả chia làm hai hoạt danh từ: một loại thuần tuý là danh từ, không thể trở nên lại tiếng khác được như: Trời, Đất, Người, một loại vừa có thể là danh từ, vừa có thể là động từ, tùy phận sự của nó trong câu, như chèo vừa là cái chèo, vừa là công việc chèo.
 
Bàn về số ít nhiều của danh từ, tác giả nêu ra ba cách chỉ số nhiều:
 
Cách thứ nhất là thêm trước danh từ những tiếng như: những, mớ, chúng.
 
Cách thứ hai là thêm những tiếng tổng hợp như coên (quân), các, mọi, nheo (nhiều), muấm (muốn) hết.
 
Cách thứ ba là dùng những tiếng chỉ giống chỉ loại như: muâng (muông) chim, cây cối, hoa quả.
 
Chương IV: De Pronominibus (Bàn về đại từ)
 
Tác giả xác nhận tính cách phong phú và phiền phức của các đại từ Việt Nam và giải thích từng đại từ.
 
Chương V: De adjectibus (Bàn về trạng từ)
 
Chương VI: De verbis (Bàn về động từ).
 
Chương VII: De reliquis orationis partibus indeclinabilibus (Bàn về những loại tiếng không có dạng)
 
Chương VIII: De praecepta quaedam ad syntaxim pertinentia (Bàn về nguyên tắc liên quan đến cú pháp).
 
Tác giả nêu tám nguyên tắc:
 
Nguyên tắc 1: Chủ từ phải đi trước phải đi trước động từ, nếu không, chủ từ không còn là chủ từ nữa. Thí dụ:
 
Mầy cười
 
Cười mầy
 
Nguyên tắc 2: Danh từ nào đi theo động từ thì là túc từ của động từ ấy. Thí dụ:
 
Tôi mến Chúa.
 
Chúa mến tôi.
 
Nguyên tắc 3: Tiếng chủ động phải đặt trước tiếng trạng từ giúp nghĩa cho nó. Thí dụ:
 
Chúa cả, thằng nhỏ.
 
Nguyên tắc này cũng có trường hợp ngoại lệ. Thí dụ:
 
Cả lào (cả lòng), cả gan.
 
Nguyên tắc 4: Hai danh từ đặt liền nhau thì danh từ thứ hai là túc từ cho danh từ thứ nhất: Thí dụ:
 
Chúa nhà.
 
Nhà Chúa.
 
Nguyên tắc 5: Trạng từ thường có ý nghĩa một động từ vì thế thường không cần phải dùng đến động từ, nhất là khi trước trạng từ còn có một tiếng chỉ định rõ ràng. Thí dụ:
 
Núi nầy cao
 
Thằng ấy lành.
 
Áo này cũ.
 
Mlời Chúa thật.
 
Nguyên tắc 6: Tiếng Việt ít dùng liên từ, bỏ đi thì lời nói trở nên văn hoa hơn. Thí dụ như câu: kẻ có đạo thì thức sớm đaọc (đọc) kinh, lần hột, đi xem lễ, thí của cho kẻ khó, làm phúc…
 
Nguyên tắc 7: Phải lập lại động từ trước từng động từ một. Thí dụ:
 
Tôi lạy thầy, tôi bởi làng mà đến, tôi đã nhaọc (nhọc), tôi xin xưng tội, tôi xin chịu mình Chúa.
 
Nguyên tắc 8: Có những tiếng Việt có vẻ sang trọng đài các khó có thể dịch ra bằng một tiếng ngoại ngữ, chẳng hạn tiếng thì vừa đề chỉ nguyên nhân (có muấn (muốn) thì làm), vừa để chỉ tính cách đối lập (có kẻ thì lành, có kẻ thì dữ) (Theo Thanh Lãng, sđd, trang 55-56 ).
 
Cuốn Văn phạm Việt ngữ là một tài liệu về hệ thống phiên âm Việt ngữ phôi thai và chứng tỏ tác giả hiểu rõ đặt điểm âm thanh và cú pháp của tiếng Việt. 
 
B- Phép Giảng Tám Ngày, chữ Quốc ngữ được điển chế và thí nghiệm trong phạm vi sáng tác
 
Phép Giảng Tám Ngày

 
Tác phẩm này do Thánh bộ Truyền giáo ấn hành tại nhà in của Thánh bộ tại Rôma năm 1651 nhan đề là: Cathechismus pro illo qui volunt sulcipere baptisnum in octo dies divisus. Phép Giảng Tám Ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà bèao (vào)  đạo thánh đức Chúa Blời.
 
Sách dày 324 trang khổ 17 x 23 in bằng hai thứ tiếng song song, bên trái là La ngữ, bên phải là Việt ngữ. Để tiện việc so sánh, tác giả ghi mẫu tự theo thứ tự từ a đến z trước mỗi câu La ngữ và Việt ngữ tương đương.
 
Theo hiện tình nghiên cứu, chúng ta không biết ấn bản đầu tiên gồm bao nhiêu cuốn cũng như không rõ sách có được tái bản hay không. Có điều chắc chắn là cuốn phép giảng tám ngày được sao chép rất nhiều hoặc bằng chữ quốc ngữ hoặc bằng chữ nôm, và được phiên dịch ra tiếng Thái Lan và tiếng Pháp.
 
Chúng ta không rõ sách được soạn thảo năm nào, chỉ biết rằng năm 1649 khi về đến Rôma, tác giả đã dự liệu xuất bản cuốn Phép giảng tám ngày, cuốn Tự điển Việt-Bồ-La và Văn phạm Việt ngữ. Nguyễn Khắc Xuyên ức đoán rằng cuốn Phép giảng tám ngày “đã được biên soạn hay khởi thảo từ những năm 1627 - 1629” (Nguyễn Khắc Xuyên, Giáo sĩ A-lịch-sơn Đắc-lộ với chữ quốc-ngữ bđd, trang  97). Điều có thể tin được là sách này được soạn thảo trong kinh nghiệm truyền giáo, sao chép tay bằng chữ quốc ngữ hay chữ nôm để thông dụng trong các giáo đoàn, sau này được tác giả tăng bổ trước khi ấn hành năm 1651.
 
Theo sự nghiên cứu của André Marillier, “bản văn La ngữ của cuốn Phép giảng tám ngày không phải là quá đơn giản sơ lược, cũng không phải là theo cú pháp cổ điển: nhiều lúc chỉ là phiên dịch thẳng từ câu văn Việt ngữ” (Xem tái bản của Tinh Việt xuất bản, Sài Gòn, 1961. Chúng ta hãy lưu ý đến lối chính tả đương thời, đặc biệt về lối viết hoa các vế các nhận định). Cũng như tác giả đã thêm phần chú giải La ngữ trong cuốn Tự điển theo lệnh của các đức hồng y, tác giả đã phụ thêm thoại La ngữ để cuốn Phép giảng tám ngày giúp ích cho các thừa sai.
 
Sách chia làm tám ngày như nhan đề đã nói rõ, mỗi ngày là một chương, không ghi đại mục và tiểu mục. Trong khi sao lục để tái bản, Andre Marillier có dựa vào nguyên tác để đặt đại mục và tiểu mục (Xem tái bản của Tinh Việt xuất bản, Sài Gòn, 1961. Chúng ta hãy lưu ý đến lối chính tả đương thời, đặc biệt về lối viết hoa các vế của nhân danh) giúp ta thấy rõ bố cục toàn sách và toàn chương như sau:
 
Ngày thứ nhất: “Đạo thánh đức Chúa Trời”
 
- Đời này, đời sau
 
- Trời và đức Chúa Trời
 
- Ba đấng bề trên
 
- Ba đấng thưởng phạt
 
- Đạo Chúa không phải đạo Pha lang
 
Ngày thứ hai: Đức Chúa trời
 
- Đức Chúa trời là cội rễ đầu
 
- … chứ không phải loài người
 
- cũng không phải một thể chất nào
 
- Cội rễ đầu là đấng thế nào?
 
- Ba loài như bậc thang
 
- Phép tắc vô cùng
 
- Tính vô cùng
 
- Hằng sống vô cùng
 
- Lòng lành vô cùng
 
- Công bằng vô cùng
 
- Ta phải đối lại thế nào với những sự trọn lành của Chúa.
 
Ngày thứ ba: Đức thợ cả
 
- Ngày thứ nhất: chín đấng Thiên thần
 
- Lucifer và đức thánh Michael
 
- Năm ngày sau
 
- Loài người: ông Adam
 
- Bà Eva
 
- Ngày thứ bảy
 
- Trong vườn vui vẻ
 
- Tổ tông phạm tội.
 
Ngày thứ tư: Những đạo vạy
 
- Con cháu ông Adam
 
- Ông Noe và lụt cả
 
- Tháp Babel
 
- Nước Đại minh phân ra nhiều đạo vậy
 
- Đạo bụt: giáo ngoài và giáo trong
 
- Đạo Lão
 
- Đạo Nho: Việc thờ ông Khổng
 
- Những sự dối trá của Thích ca về linh hồn ta
 
- Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
 
- Linh hồn ta chẳng hay chết
 
Ngày thứ năm: Một đức Chúa Trời Ba Ngôi–Đức Chúa trời ra đời cứu thế.
 
- Sáng siêu nhiệm [26]
 
- Một Đức Chúa Trời ba ngôi
 
- Đức Chúa Trời ra đời cứu thế
 
- Đức bà Maria đồng thân
 
- Thiên thần truyền tin
 
- Đức Mẹ Chúa Trời
 
- Đức Mẹ viếng bà thánh Elisabeth
 
- Ông thánh Joseph định để bạn mình
 
- Đức Chúa Jesus sinh đẻ ở Bethléem
 
- Đức Mẹ vẫn còn đồng thân
 
- Kẻ chăn chiên đến thờ lạy.
 
- Ba vua dâng cúng của lễ.
 
- Lạy ảnh tượng Đức Mẹ và đức Chúa Con.
 
Ngày thứ sáu: Thầy thuốc cả
 
- Chúa Jesu tại Nazareth
 
- Chúa Jesu giảng đạo “gratia”.
 
- Chúa Jesu làm nhiều phép lạ
 
- Phép lạ đầu hết ở Cana
 
- Phép lạ bắt cá
 
- Chúa Jesu làm cho bánh ra nhiều
 
- Người đàn bà tật huyết
 
- Con gái ông câu đàng nhà thánh.
 
- Con trai bà góa
 
- Chúa Jesu bỏ mình là Đức Chúa Trời
 
- Người Seribae và Pharisaei ghen ghét chúa Jesu
 
- Người đau nặng đến ngày thứ bảy
 
- Người liệt chân tay
 
- Người tối mắt từ thủa mới sinh
 
- Chúa Jesu biến hình
 
- Ông Lazaro sống lại
 
- Người Iudaeo lo toan giết Chúa Jesu
 
Ngày thứ bảy: con chiên lành và chó sói dữ
 
- Thằng Juda nộp Chúa Jesu cho oan gia
 
- Quân dữ đến bắt Chúa Jesu
 
- Đến thày cả Caipha
 
- Trước quan tòa Pontio Pilato
 
- Lên núi Calvaria
 
- Chúa Jesu bị đóng đanh
 
- Chúa Jesu linh hồn ra khỏi xác
 
- Trước ảnh Chúa Jesu bị đóng đanh
 
- Viếng địa ngục “limbo”
 
- Chúa Jesu trong mả
 
- Chúa Jesu sống lại
 
- Hiện ra cùng đầy tớ
 
- Chúa Jesu lên trời
 
- Chúa Spirito Sancto hiện xuống
 
- Dân Jerusalem tan hoang
 
Ngày thứ tám: Mười bậc thang lên thiên đàng
 
- Phán xét chung
 
- Những dấu hiện báo trước
 
- Mọi người đều sống lại
 
- Chúa Jesu lại xuống thế phán xét
 
- Lên thiên đàng hay xuống địa ngục
 
- Mười điều răn
 
- Lời răn thứ nhất
 
- Lời răn thứ hai
 
- Lời răn thứ ba
 
- Lời răn thứ tư
 
- Lời răn thứ năm
 
- Lời răn thứ sáu
 
- Lời răn thứ bảy
 
- Lời răn thứ tám
 
- Lời răn thứ chín và thứ mười
 
- Dọn mình chịu phép rửa tội
 
- Những điều trở ngại.”
 
Qua sự phân tích trên đây, chúng ta thấy bố cục của cuốn Phép giảng tám ngày rất chặt chẽ, nội dung cốt trình bày giáo lý trong màu sắc minh giáo, thích hợp với văn hóa và xã hội Việt Nam trong tiền bán thế kỷ XVII.
 
***
Còn tiếp 

Kontum ngày 15/02/2016
  
Lm. Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn

http://www.truyen-tin.net/ViewNewsDetail.aspx?tabid=111&NewsPK=18530

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét