Gợi Ý Bài Giảng – Chúa Nhật II Mùa Vọng

–Lm Inhaxiô Hồ Thông–

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng chuẩn bị cho người tín hữu tâm tình chờ đón Chúa đến. Giáo Hội mời gọi người Ki-tô hữu tìm lại ý nghĩa của việc Chúa đến qua những bản văn Kinh Thánh.

Br 5: 1-9

Bài Đọc I, trích từ một bản văn rất muộn thời, mô phỏng lại những đề tài về cảnh lưu đày tại Ba-by-lon và cuộc hồi hương trở về. Thiên Chúa sẽ đích thân đến cứu dân Người và dọn sẵn một con đường để dẫn họ trở về thành thánh Giê-ru-sa-lem.

Pl 1: 4-11

Bài Đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh Phao-lô kêu mời người Ki-tô hữu hãy thăng tiến trên con đường thánh thiện và mở rộng lòng mình trước ân sủng để sống trong tâm thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Ki-tô trở lại.

Lc 3: 1-6

Tin Mừng tường thuật bước khởi đầu sứ vụ của thánh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô khuyên bảo mọi người hãy sống trong tâm thế sẵn sàng đón chào Đức Ki-tô sắp ngự đến.

BÀI ĐỌC I (Br 5: 1-9)

Ông Ba-rúc là “bạn tâm giao” và là “thư ký” của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, nhưng không là tác giả của sách mang tên ông. Sách Ba-rúc này được viết rất muộn thời, chắc chắn từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Sách này thật sự là một tuyển tập: những phần khác nhau của sách không do cùng một tác giả và cũng không thuộc cùng niên biểu.

1. Bối cảnh:

Dù thế nào, sách Ba-rúc đưa chúng ta trở về thời kỳ trào lưu ngôn sứ vắng bóng từ lâu, người ta lấy lại những bản văn cũ, suy niệm chúng và thích ứng chúng (như chúng ta đã đọc bản văn của Giê-rê-mi-a được sửa đổi ở Chúa Nhật I Mùa Vọng). Người ta cố gắng hiện tại hóa sứ điệp khi đặt nó dưới sự bảo trợ của một nhân vật quá khứ nổi tiếng. Tác giả của sách Ba-rúc cũng theo một cách thức như vậy (thể loại văn chương này được gọi là “trào lưu ngôn sứ ẩn danh”).

Tác giả chọn cảnh giam cầm tại Ba-by-lon làm khung cảnh lịch sử, bằng cách tưởng tượng ông Ba-rúc ở giữa những người lưu đày, để báo trước cho họ biết họ sắp được trở về quê cha đất tổ và kêu mời Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng. Thật ra, ông Ba-rúc cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị phát lưu sang Ba-by-lon. Những đề tài, hình ảnh, ngôn từ được mượn ở I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày, cũng như ở I-sai-a đệ tam (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời kỳ những người lưu đày được hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.

2.Sấm ngôn:

Rất dễ nhận ra đoạn văn Ba-rúc này mô phỏng vài bản văn của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và I-sai-a đệ tam (Is 56-66), ở đó chúng ta gặp thấy cũng một lời mời gọi thành thánh Giê-ru-sa-lem hãy vui lên như thế:

“Hỡi Xi-on, thức dậy, thức dậy đi, hãy biểu dương sức mạnh!

Hỡi thành thánh Giê-ru-sa-lem, hãy mặc lễ phục huy hoàng!

Vì từ nay kể không cắt bì cũng như người ô uế

sẽ không còn bước vào thánh điện nữa.

Hỡi Giê-ru-sa-lem bị tù đày, hãy giũ bụi, đứng lên!

Nào thiếu nữ Xi-on bị tù đày, hãy mở tung xích xiềng buộc cổ!” (Is 52: 1-2).

“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.

Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi.

Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;

còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,

vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.

Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,

vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.

Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,

tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:

con trai ngươi từ phương xa tới,

con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60: 1-4).

Và cũng ở đó chúng ta cũng gặp thấy chính thành thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng như vậy:

“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa,

nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!

Vì Người mặc cho tôi đức chính trực công minh,

như chú rễ chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61: 10).

Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sánh ví rồi cuộc hồi hương của những người lưu đày với cuộc Xuất Hành mới ở đó Thiên Chúa còn thực hiện những điều kỳ diệu cho dân Ngài:

“Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,

mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,

nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng,

chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40: 4).

 “Và trong vùng hoang địa,

Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu;

trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật

nào trắc bá, nào du, nào hoàng dương” (Is 41: 19).

3.Những danh hiệu biểu tượng:

Những danh hiệu mà tác giả sách Ba-rúc gán cho Giê-ru-sa-lem như “Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính” hay “Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa”, được định vị vào hàng những danh hiệu thuộc trào lưu ngôn sứ: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã trao cho Giê-ru-sa-lem danh hiệu “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta” (Gr 33: 16); ngôn sứ I-sai-a đệ tam gọi thành thánh là “Xi-on-của-Đức-Thánh-Ít-ra-en” (Is 60: 14) hay “Thành-không-bị-bỏ-rơi” (Is 62: 12), vân vân.

Bù lại, việc Thiên Chúa được gọi là “Đấng Vĩnh Hằng” là một nét mới và đặc thù của sách Ba-rúc. Danh hiệu này được lập đi lập lại đến bảy lần trong toàn bộ bài thơ; đây là một ví dụ độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Qua đó tác giả nhấn mạnh: tất cả những gì Thiên Chúa làm đều “vĩnh hằng”“mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi”Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi…”.

4.Hiện tại hóa sứ điệp:

Vấn đề tất yếu được nêu lên: tại sao có sự mô phỏng này? Tại sao mô phỏng theo cách thức này? Tại sao “loan báo” cuộc hồi hương vốn đã xảy ra bốn trăm năm trước đó? Tại sao thánh thánh Giê-ru-sa-lem lại được tán dương nhiều thế kỷ sau này? Phải đọc ẩn dụ này như thế nào để gặp lại độ nhạy bén của những người đương thời mà tác phẩm gởi đến?

Thay vì đọc và nghĩ đến “những người Do thái lưu đày”, chúng ta nên đọc và nghĩ đến “những người Do thái tha hương”, điều này giúp chúng ta giải đáp được một phần điều bí ẩn này. Đây là những cộng đoàn Do thái Hải Ngoại gởi gắm những tâm tư nguyện vọng của mình vào nơi sách Ba-rúc. Bị phân tán trong thế giới Hy-La và trong miền Trung Đông, sống xa thành thánh Giê-ru-sa-lem, các cộng đồng này cảm thấy mình như “những kẻ lưu đày”; tuy xa mặt nhưng không cách lòng: mọi tâm tư tình cảm của họ đều hướng về Thành Thánh; họ hiệp nhất với Thành Thánh qua lời cầu nguyện (phần thứ nhất của sách Ba-rúc), qua việc thực hành Lề Luật, tức sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (phần thứ hai của sách) và qua niềm hy vọng (phần thứ ba, từ đó đoạn trích dẫn của chúng ta).

5.Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a:

Bản văn được đọc lại trong viễn cảnh này: bài thơ ca ngợi tán dương thánh thánh Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a. “Ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa” sẽ được biểu lộ trong Thành Thánh. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ là Thành Đô Bình An vì được xây dựng trên sự công chính, tức là sự thánh thiện của Thiên Chúa; Thành Thánh sẽ rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa, do “lòng kính sợ Thiên Chúa”. Chính “Lời Đấng Thánh” sẽ quy tụ mọi con cái Thiên Chúa. Kỷ nguyên Mê-si-a này sẽ là Triều Đại chứa chan niềm vui, tràn ngập ánh sáng “của lòng từ bi và sự công chính của Người”.

Người Do thái đã đọc lại bài thánh thi này vào năm 63 trước Công Nguyên, để lấy lại can đảm sau khi tướng Rô-ma là Pom-pê đánh chiếm Giê-ru-sa-lem; họ cũng đã đọc lại bài thánh thi trong nước mắt vào ngày kỷ niệm các đạo binh của tướng Ti-tô phá hủy Đền Thờ thành bình địa vào năm 70; như vậy họ khẳng định niềm hy vọng muôn đời bất biến của họ.

Người Ki-tô hữu đọc bản văn này bởi vì họ hiểu được tầm quan trọng mang tính ngôn sứ của bài thơ này: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Ngài “để dân Ngài tiến bước bình an dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người”.

BÀI ĐỌC II (Ph 1: 4-6, 8-11)

Thánh Phao-lô thiết lập cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên ở thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a, trên vùng đất Châu Âu vào năm 49-50, khi thánh nhân dự tính thực hiện một cuộc mạo hiểm lớn: vượt qua biển Ê-gi-ê để loan báo Tin Mừng cho một lục địa khác.

1.Bối cảnh:

Thành Phi-líp-phê được đặt tên theo vua Phi-líp-phê II, thân phụ của A-lê-xan-đê đại đế. Sau khi đã sáp nhập miền này vào năm 360 trước Công Nguyên, vị đại đế Hy lạp này đã tái thiết và phát triển thành phố. Vào năm 42 trước Công Nguyên, hai tướng Rô-ma, Mác-cô An-tô-ni-ô và Ốt-ta-vi-a-nô (Âu-gút-tô), đã đánh bại Bru-tô và Ca-xi-ô, và đã thiết lập một khu cho các cựu chiến binh thuộc các binh đoàn chiến thắng. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố đã trở thành một đô thị Rô-ma, có quan tổng trấn Rô-ma cai trị và được cấu trúc theo kiểu thành thị Rô-ma.

Vào năm 56 hay 57, thánh Phao-lô có dịp gởi một bức thư cho các Ki-tô hữu Phi-líp-phê. Đối với thánh nhân đó là một niềm vui, vì ngài rất quý mến giáo đoàn này, vả lại họ đã chứng tỏ tấm lòng trung thành đến cảm động. Thánh nhân đã hai lần chấp nhận sự hỗ trợ vật chất của các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu này, trong khi ngài từ chối bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía các cộng đoàn Ki-tô hữu khác. Thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê bộc lộ lòng quý mến của thánh nhân đối với giáo đoàn này mà không có bất kỳ hậu ý trách cứ cũng như vấn đề đạo lý; bức thư này cũng là bức thư hấp dẫn nhất.

Phụng Vụ chọn đoạn văn hôm nay vì nó gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại và cách thức người Ki-tô hữu chuẩn bị chờ đón. Đoạn văn này gồm có hai phần, chứa đựng một suy tư thần học có tầm mức lớn lao theo hình thức tạ ơn và khuyến dụ.

2.Công trình của Đức Giê-su:

Trước hết, thánh Phao-lô nói lên niềm vui và lòng biết ơn của mình đối với các tín hữu Phi-líp-phê vì họ nhiệt tâm đối với Tin Mừng và góp phần vào sứ mạng tông đồ của ngài; thánh nhân nhận ra đó là công việc tốt lành của Thiên Chúa ở nơi họ. Viễn cảnh này vẫn là một quan điểm thường hằng của thánh nhân: chúng ta không thể tự mình thánh hóa chính mình bằng sức riêng của mình, như vậy thánh Phao-lô khẳng định “quyền ưu tiên của ân sủng”.

Tuy thế, người Ki-tô hữu phải luôn luôn sống trong tâm thế sẵn sàng, đó là điều tất yếu. Thánh nhân cũng gởi đến các tín hữu Phi-líp-phê những khuyên nhũ khẩn thiết bằng những lời lẽ trìu mến.

2.Sự cộng tác của con người:

Sau khi bày tỏ niềm vui, thánh Phao-lô nói lên tâm tình của mình: thánh nhân nhắc các tín hữu Phi-líp-phê nhớ đến tấm lòng của ngài đối với họ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi, là tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giê-su Ki tô”. Từ ngữ Hy lạp diễn tả “tình thương của Đức Ki-tô” theo nghĩa rất mạnh; nó gợi lên “tình phụ tử”; Đức Ki-tô đã sinh ra họ trong đức tin qua sứ vụ của vị tông đồ của Ngài; vị tông đồ yêu thương họ bằng tình yêu có nguồn gốc ở nơi tình yêu của Đức Ki tô.

Qua lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê hãy kiên tâm bền chí: động lực thăng tiến tinh thần của họ cốt ở nơi tình yêu, vừa lòng mến đối với Thiên Chúa vừa đức ái đối với nhau. Chính nhờ tình yêu này mà họ đạt được “ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên”. Thánh Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân định: “nhận ra cái gì là tốt hơn” mà thánh nhân thường lập lại ở đây. Sự phân định này là một khía cạnh của đức khôn ngoan Ki-tô giáo, đổi mới thật sự lòng trí con người.

3.Ngày của Đức Ki-tô:

Trong đoạn văn này, thánh Phao-lô hai lần nhắc đến “ngày của Đức Ki-tô”. Như hai thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê làm chứng rằng các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên nao nức mong chờ ngày Quang Lâm của Đức Giê-su Ki-tô sắp đến gần. Vào ngày đó, những người Ki-tô hữu phải được tinh tuyền và không làm gì đáng trách, sinh nhiều hoa trái dồi dào từ đời sống công chính nhờ Đức Ki-tô (từ ngữ công chính theo nghĩa Kinh Thánh là sống cuộc sống đạo hạnh phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa). Chúng ta gặp lại ở đây Thần Học về ân sủng. Đây là phương thức quen thuộc của thánh Phao-lô, thánh nhân thích lập lại ở phần cuối lời khẳng định ban đầu.

Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu này, được định vị trong Đức Ki-tô, nhằm một mục đích tối hậu là “tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa”. Đây là cứu cánh của con người.

TIN MỪNG (Lc 3: 1-6)

Thánh Lu-ca giới thiệu sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả với lời mào đầu long trọng (3: 1-2), qua đó thánh ký định vị biến cố này vào trong lịch sử thế giới khi trích dẫn hoàng đế Rô-ma. Điều này cho thấy thánh Lu-ca quan tâm đến lịch sử, tuy nhiên thánh ký cũng muốn nói rằng lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, loan báo kỷ nguyên cứu độ, liên quan đến hết mọi người. Chính cũng vì lý do này, khi viện dẫn Is 40, thánh Lu-ca tuân theo truyền thống Mc 1: 3 và Mt 3: 3; tuy nhiên, thánh Lu-ca đem đến một điều mới mẽ khi trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của I-sai-a, vì sấm ngôn này chấm dứt với những từ: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Qua câu này, thánh Lu-ca khẳng định tính cách phổ quát của ơn cứu độ mà Is 40: 6 đã loan báo, cũng như thánh Lu-ca đã nói trước ở 2: 30-31: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.

1.Bối cảnh lịch sử (3: 1-2a):

Lời mào đầu giới thiệu sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả trước quần chúng một cách long trọng trong bối cảnh lịch sử thế giới qua đế quốc Rô-ma; lịch sử trong và ngoài miền đất Pa-lét-tin qua ba tiểu vương, các con của vua Hê-rô-đê Cả; cũng như lịch sử dân thánh qua hai vị thượng tế vào thời đó.

-“Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô”: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô xem ra từ ngày 1 tháng 10 năm 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 28. “Thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê”, tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Kể từ năm thứ sáu Công Nguyên, miền Giu-đa không còn có chính quyền bản địa nữa; vào năm này chính quyền Rô-ma đã truất quyền vua Ác-khê-lao, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, và nắm quyền trực tiếp trên miền Giu-đê, miền thường gây ra những cuộc bạo động. Như vậy miền Giu-đê có một thể chế đặc biệt. Chúng ta biết điều đó trong cuộc xét xử Đức Giê-su.

-“Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê”: Miền Ga-li-lê vẫn duy trì chính quyền bản địa do tiểu vương Hê-rô-đê, biệt hiệu An-ti-pa, con Hê-rô-đê Cả. Chính vị tiểu vương này đã giết Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su bị điệu đến trước ông.

-“Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít”: Tiểu vương Phi-líp-phê, cũng là con của Hê-rô-đê Cả, cai trị lãnh địa đông bắc biển hồ Ti-bê-ri-a. Ông là vị tiểu vương ôn hòa, không nhiệt thành lắm với Do thái giáo, thậm chí ưu đãi những việc thờ cúng ngoại giáo.

-“Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên”: Miền A-bi-lên là một lãnh địa nhỏ bé được định vị ở Anti-Liban, phía tây Đa-mát. Tiểu vương Ly-xa-ni-a rất ít được biết đến. Vì thế người ta có thể tự hỏi trong danh sách của thánh Lu-ca vị tiểu vương này đóng vai trò gì. Đế quốc Rô-ma cho ba người con của Hê-rô-đê Cả làm tiểu vương ba lãnh địa, hai trong đất Pa-lét-tin và một ở ngoài đất Pa-lét-tin. Thật hợp lý khi kể thêm tiêu vương Ly-xa-ni-a cho đủ số ba người con của Hê-rô-đê Cả. Nhưng lý do thật sự xem ra còn sâu xa hơn. Rõ ràng ý định của thánh Lu-ca là muốn thông tri cho đọc giả hiểu rằng “biến cố Gioan Tẩy Giả” vượt quá bên ngoài ranh giới miền đất Pa-lét-tin.

-“Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế”: Sau khi nói đến thế quyền, thánh Lu-ca đề cập đến giáo quyền: Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, và Cai-pha, người con rể, vị thượng tế đương nhiệm. Kha-nan được nêu tên, vì thế lực của ông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn. Theo thánh Gioan, sau khi bị bắt, Đức Giê-su bị điệu trước tiên đến thượng tế Kha-nan, sau đó mới đến thượng tế Cai-pha.

Đối diện với thế quyền và giáo quyền này, thánh Lu-ca đưa vào một nhà khổ hạnh sống ẩn dật trong hoang địa, ông Gioan, con ông Da-ca-ri-a. Chính nơi nhân vật khiêm hạ này mà Lời Chúa được gởi đến.

2.Sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả (3: 2b)

“Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa”. Thánh Lu-ca mượn văn phong Kinh Thánh để mô tả ơn gọi ngôn sứ như Hs 1: 1 hay Gr 11: 1. Như vậy thánh ký ghi nhận rằng ông Gioan Tẩy Giả là một vị ngôn sứ, ông nói với tư cách một vị ngôn sứ. Sự kiện này lại càng gây chú ý hơn nữa vì từ năm trăm năm qua đã không có một ngôn sứ nào xuất hiện.

Ông Gioan xuất thân từ gia đình tư tế; cha ông, ông Da-ca-ri-a, là tư tế phụng sự đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, chức vụ tư tế của dân Ít-ra-en là cha truyền con nối. Ông Gioan khước từ chức vụ và danh dự này; được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ông vào sống ẩn mình “trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (Lc 1: 80).

Hoang địa này là sa mạc Giu-đê, dưới chân những ngọn đồi khô cằn, trong miền này được định vị giữa thành Giê-ri-cô và địa danh Qum-ran, có dòng sông Gio-đan đổ nước vào Biển Chết. Để thi hành sứ vụ của mình, ông Gioan Tẩy Giả tiếp cận với dân cư quanh vùng: “Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan”.

3.Phép rửa tỏ lòng sám hối (3: 3)

Phép rửa mà Gioan Tẩy Giả đề xướng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tỏ lòng sám hối. Các vị lãnh đạo Do thái giáo đòi buộc các dự tòng muốn gia nhập vào cộng đồng Ít-ra-en phải chịu phép rửa cùng với phép cắt bì. Các nghi thức thanh tẩy thì rất nhiều; thậm chí người Do thái thời hậu lưu đày vì lòng sốt sáng đã thêm một số lượng lớn; nghi thức thanh tẩy được thực thi hằng ngày và đa dạng tại các tu sĩ Qum-ran. Nhưng phép rửa mà Gioan đề xướng là một nghi thức duy nhất, bất khả lập lại, cũng không thuần túy chỉ là nghi thức. Thanh tẩy của thánh nhân là dấu hiệu thanh tẩy nội tâm, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng tự nó chưa có quyền ban ơn tha thứ này.

4.Ơn cứu độ phổ quát (3: 4-6)

 Cả bốn tác giả Tin Mừng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị hứa với những người lưu đày ở Ba-by-lon, họ sẽ sớm được hồi hương. Thiên Chúa sẽ sai phái một sứ giả “trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa” (Is 40: 3-5), vì chính Thiên Chúa sẽ dẫn đường cho dân Ngài trở về Giê-ru-sa-lem.

Cả ba tác giả Tin Mừng nhất lãm đều đã thấy ở nơi vị sứ giả này dung mạo của ông Gioan Tẩy Giả khi hiện tại hóa bản văn của I-sai-a vào trong hoàn cảnh hiện nay của mình: thay vì “Trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa”, thì lại “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, bởi vì Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ dọn đường cho Đức Chúa ở trong hoang địa. Tuy nhiên, chỉ duy thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a, nhưng thánh sử chủ ý thay đổi một chút câu cuối: thay vì “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy”, thánh sử viết: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Thật ra vinh quang của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi quyền năng rực rỡ của Ngài, Đấng, sau một thời gian dài xem ra không đoái hoài đến dân Ngài, ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm tại Ba-by-lon, tiên trưng một cuộc giải thoát khác, chính xác hơn, giải thoát khỏi mọi giam cầm của tội lỗi.

ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Phụng Vụ Lời Chúa ngày lễ hôm nay nêu bật tấm lòng nhân ái và yêu thương của Thiên Chúa trong kế hoạch cứu độ nhân loại, khởi đi từ lời loan báo cứu độ ngay khi hai ông bà nguyên tổ vị phạm lệnh truyền của Người khiến tội lỗi tràn vào công trình sáng tạo của Người như một vết dầu loang (Bài Đọc I) cho đến khi Con của Người nhập thể trong cung lòng trinh khiết vẹn toàn của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (Tin Mừng). Trong kế hoạch cứu độ này, Đức Ma-ri-a được tiền định là Mẹ của Chúa Cứu Thế, Đấng chiến thắng trên mọi tội lỗi kể cả sự chết, vì thế, Mẹ được đặc ân gìn giữ khỏi mọi tội lỗi. 

St 3: 9-15, 20

Hai ông bà nguyên tổ đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa nên làm xáo trộn tất cả chương trình của Thiên Chúa đối với con người. Trong hoàn cảnh như thế, Thiên Chúa loan báo một mối thù truyền kiếp và một cuộc chiến khốc liệt một mất một còn, giữa Con Rắn và người phụ nữ. Cuối cùng, Con Rắn sẽ bị đánh bại bởi “một người người đàn bà, Mẹ của Đấng Mê-si-a là Đức Ma-ri-a” như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Giê-rô-ni-mô.

Ep 1: 3-6, 11-12

Đây là đoạn trích bài thánh thi ca ngợi Chúa Cha, Đấng đã ban cho chúng ta Thánh Tử của Người. Thánh Tử này cũng là con của Đức Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể. Ở nơi Thánh Tử nhập thể này, chúng ta cũng được trở nên nghĩa tử của Chúa Cha nhờ được dự phần vào tước vị làm Con của Ngài.

Lc 1: 26-38

Thánh Lu-ca thuật lại chuyện tích “Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a”, theo đó Thiên Chúa đã tiền định Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm Mẹ của Thánh Tử của Người, Ngài sinh ra làm người hoàn hảo từ cung lòng trinh khiết vẹn toàn của Đức Ma-ri-a.

BÀI ĐỌC I (St 3: 9-15, 20)

Bài Đọc I trích từ chuyện tích thứ hai về công trình Sáng Tạo của sách Sáng Thế. Về phương diện lịch sử, chuyện tích này là chuyện tích cổ xưa nhất (khoảng thế kỷ X tCn) so với chuyện tích thứ nhất. Chuyện tích thứ hai này không chỉ kể cuộc sáng tạo con người, nhưng còn tiếp tục kể cuộc Thử Thách và Sa Ngã của con người.

Trong chuyện tích cổ xưa thuộc truyền thống Gia-vít này, Thiên Chúa được trình bày theo lối “như nhân”, nghĩa là Ngài hành động như con người. Chuyện tích này thuộc thể loại thần thoại theo lối tiếp cận mầu nhiệm nhờ những dấu chỉ và biểu tượng. Tác giả tận dụng những hình ảnh trong kho tàng bao la của những chuyện tích thần thoại cổ xưa như “người Phụ Nữ”“Cây sự sống”, và “Con Rắn”, đây là những hình ảnh rất kinh điển và phổ biến của khoa tượng ảnh tôn giáo thuộc thiên niên kỷ thứ hai tCn; nhưng tác giả ban cho chúng một tầm mức mới. Xét toàn bộ chuyện tích, ba bài học được rút ra: tội lỗi đã nhận chìm nhân loại; không chỉ con người chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình, nhưng còn cả tên cám dỗ nữa; Thiên Chúa tiên báo một cuộc phục hồi.

Cuộc phục hồi này sẽ là một cuộc chiến thắng trên sự dữ mà “Người Phụ Nữ và Dòng Giống của Bà” mang lại. Lời tiên báo vén mở Đấng Mê-si-a và ám chỉ đến người mẹ không hề vương tội nguyên tổ của Ngài. Vì thế, truyền thống Ki-tô giáo đã giải thích lời tiên báo này là “Tiền Tin Mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ. Đó là lý do Phụng Vụ chọn lựa bản văn này vào ngày lễ tôn vinh “Đức Ma-ri-a Vô Nhiệm Nguyên Tội”.

Trong phần thứ nhất của chuyện tích, tác giả đã phân tích cách tinh tế cuộc thừ thách và sa ngã. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, tác giả phân tích cũng không kém phần tinh tế về tiếng lương tâm của những tội nhân và sử dụng những dấu chỉ để diễn đạt tầm mức thần học. 

1.Những hậu quả tác hại của tội:

Thánh ký tưởng tượng một phiên tòa. Thiên Chúa triệu tập các tội nhân, buộc họ phải thú tội, quy trách nhiệm, và sau cùng công bố những bản án.

Hình ảnh hai nguyên tổ trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Dấu chỉ đầu tiên của tội là kẻ phạm tội sợ diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình.

Người chồng đổ trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Dấu chỉ thứ hai của tội là tác hại đến mối quan hệ thâm giao giữa chồng và vợ. Trước đây, khi mới gặp người phụ nữ đầu tiên mà Thiên Chúa đã giới thiệu cho mình, người chồng đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây lại đổ lỗi cho vợ mình.

Còn người phụ nữ cũng tìm cách thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Lời của người phụ nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho lời nói phỉnh phờ xảo trá của tên cám dỗ lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Đó là dấu chỉ thứ ba của tội, người ta tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình. 

Tội lỗi mở mắt con người để họ phát hiện là mình trần truồng. Sự trần truồng trong vườn địa đàng là biểu tượng cho sự trong trắng vô tội: “Cả hai trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2: 25); sau khi sa ngã: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Đây là một trong những hậu quả tác hại của tội là thấy mình mất tất cả mọi ân sủng.

2.Con rắn, tên cám dỗ:

Nguồn gốc của sự dữ ẩn dấu cách mầu nhiệm dưới hình ảnh con rắn, tên cám dỗ. Vì thế, Thiên Chúa giảm nhẹ trách nhiệm cho con người khi hứa với họ rằng Ngài sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho họ, trong khi con rắn đã không được khoan hồng một chút nào.

Các dân tộc cổ xưa đã nêu bật dung mạo con rắn. Một con vật trồi lên từ lòng đất, nó thuộc về thế giới dưới lòng đất, tức là thế giới đáng sợ của các vong nhân. Theo quan niệm của người xưa, con rắn là một thần thiêng nắm giữ những bí mật về sự sống và sự chết. Tuy nhiên, tác giả sách Sáng Thế cẩn trọng không cho con rắn một chiều kích nào khác ngoài chiều kích một con vật, đơn thuần là một tạo vật của Thiên Chúa (St 4: 1), để tránh cho dân Ít-ra-en nghiêng về cái nhìn nhị nguyên như thử có một Thần Ác đối lập với Thiên Chúa là Thần Thiện. Thái độ cẩn trọng này càng cần thiết hơn nữa vì vào thời này dân Ca-na-an phụng thờ thần rắn.

Sau này, tác giả sách Khôn Ngoan đã vạch mặt chỉ tên con rắn của sách Sáng Thế: “Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2: 24). Chính Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó không đứng về phái sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8: 44).

Thiên Chúa ngỏ lời với con rắn chỉ để kết tội nó. Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một chứng nhận: con rắn không có chân nên phải bò bằng bụng, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”, cách diễn tả một sự toàn thắng trên tên cám dỗ này.

Cũng vậy, sự cao cả của con người, được làm nên theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, có thể đạp dẹp đầu con rắn, trong khi con rắn chỉ có thể cắn vào gót chân của con người. Điều này được giải thích như dấu chỉ cho thấy nhân loại một ngày kia sẽ chiến thắng những quyền lực của Ác Thần.

3.Thần thoại và lịch sử:

Qua chuyện tích này, tác giả linh hứng xây dựng chuyện tích về lịch sử của dân Ít-ra-en. Vườn địa đàng là hình ảnh đầu tiên của Đất Hứa, bảo chứng đầu tiên về Giao Ước của Thiên Chúa với nhân loại. Lệnh cấm của Thiên Chúa là hình thức đầu tiên của Lề Luật. Tự tách mình ra khỏi Lề Luật là vi phạm Giao Ước này.

Thiên Chúa đã để cho con người hoàn toàn tự do tiếp cận với Cây biết điều thiện điều ác. Khi tôn trọng sự tự do của con người, Thiên Chúa chấp nhận cái may rủi của sự thất bại bên ngoài công trình của Ngài. Nhưng Thiên Chúa không thể thất bại được. Thiên Chúa sẽ mang đến một linh dược cho công trình sáng tạo bị tội lỗi làm hư hỏng. Chính ở đây mà Mặc Khải Kinh Thánh vén mở một con đường hy vọng:

“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,

giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;

dòng giống đó sẽ đạp dẹp đầu ngươi, và mi sẽ cắn vào gót chân nó” (3: 14)

4.Mối thù giữa dòng giống của người đàn bà và dòng giống của con rắn:

Người ta có thể giải thích câu này cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua diễn ngữ: “dòng giống của người đàn bà” và tất cả những quyền lực của sự ác qua diễn ngữ: “dòng giống của con rắn”. Lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Vì thế, bản dịch Hy-ngữ đặt đại từ ở giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”.

Các Giáo Phụ đã đọc thấy trong lời hứa này lời tiên báo rằng ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một phụ nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế, vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt đại từ ở giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau những bổ túc cho nhau. Người đàn bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc ảnh tượng về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ thường trình bày Hài Nhi Giê-su trong vòng tay của Mẹ Mình.

Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan đã âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”. Nhưng trong đó Đức Ma-ri- đã không được trực tiếp chỉ ra.

BÀI ĐỌC II (Ep 1: 3-6, 11-12)

Thánh Phao-lô viết bức thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô khi thánh nhân đang bị giam cầm tại Rô-ma, giữa những năm 61-63. Bức thư chỉ hàm chứa một lời chào rất tổng quát: “Kinh gởi dân thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (việc kể thêm “Ê-phê-xô” không gặp thấy trong những thủ bản cổ xưa nhất), điều này khiến nghĩ rằng bức thư này nhằm luân lưu giữa các cộng đồng Ki-tô hữu khác nhau của miền Tiểu Á, trong đó Ê-phê-xô là một thành phố cảng lớn.

1.Đề tài trọng tâm của bức thư:

Đề tài trọng tâm của bức thư này là ý định của Thiên Chúa trên con người, được Đức Ki-tô mặc khải và thực hiện và giao phó cho Giáo Hội theo đuổi sự nghiệp của Ngài.

Thánh Phao-lô hoan hỉ ca ngợi kế hoạch tuyệt vời của Thiên Chúa bằng tâm tình cảm tạ Thiên Chúa theo truyền thống Kinh Thánh: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Chính luôn luôn ở nơi Thiên Chúa là Cha mà thánh Phao-lô quy hướng công trình cứu độ. Như vậy, trong đoạn văn này, Thiên Chúa là chủ từ của tất cả mọi động từ.

2.Ý nghĩa của đoạn trích thư trong Phụng Vụ hôm nay:

Thánh Phao-lô nhấn mạnh bằng cách lập đi lập lại: “Trong Đức Ki-tô, trong Ngài, trong người Con yêu quý của Người…”. Vì ý định ngay từ đầu của Thiên Chúa bao hàm viễn cảnh về việc can dự của Con Thiên Chúa: “Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô”, nên mầu nhiệm về những ơn đặc sủng của Đức Ma-ri-a được định vị vào việc tham dự trước những công nghiệp của Con Thiên Chúa cũng là Con của Mẹ. Phụng Vụ áp dụng bản văn này vào ơn tuyển chọn của Đức Ma-ri-a.

TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca kể cho chúng ta lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a trong khung cảnh thật giản dị nhưng cũng không kém uy nghi. Tiếng “xin vâng” của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cho phép ý định cứu độ của Thiên Chúa cho con người được thành tựu, cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời được hiện thực.

1.Nguồn của câu chuyện:

Ngay trong “Lời Tựa” sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng ông đã muốn tuần tự viết ra bài trình thuật về các biến cố như một sử gia “sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Thật hợp lý để nghĩ rằng thánh ký đã hỏi Đức Ma-ri-a và đã nhận được những lời thổ lộ của Mẹ. Quả thật, không bao lâu sau đó, thánh ký nói với chúng ta đến hai lần “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2: 19, 51). Nhưng tất cả kinh nghiệm trực tiếp về Thiên Chúa đa phần thì bất khả diễn tả và bất khả truyền đạt. Để sắp xếp bài trình thuật của mình, thánh ký cũng đã được khơi nguồn cảm hứng một phần từ vài “lời loan báo” của Cựu Ước, nhất là những lời loan báo được gởi đến những người phận nhỏ, những kẻ bé mọn, nghèo hèn. Nhưng trong bài trình thuật “Truyền Tin” này, nội dung của sứ điệp thì đặc thù, độc nhất vô nhị.

2.Ý nghĩa của câu chuyện:

Việc truyền tin cho Đức Ma-ri-a và việc Ngôi Lời nhập thể hình thành nên một mầu nhiệm sâu thẳm nhất: mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy. Tất cả đều phát xuất từ tấm lòng nhân ái và yêu thương của Chúa Cha trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mỏng dòn trong cung lòng vẹn sạch của Đức Nữ Trinh, tất cả đã xảy ra một cách âm thầm tại tư gia trong một làng quê Na-da-rét hẻo lánh. Thánh Lu-ca kể chuyện tích này theo văn phong rất bình dị, nhưng tất cả đều toát lên một bầu khí trang trọng, tràn ngập niềm vui và tin tưởng.

3.Mầu nhiệm Nhập Thể:

Để ở giữa loài người như một con người, Thiên Chúa khởi sự xây dựng chỗ ở của mình trong cung lòng vô tì vết của Đức Trinh Nữ. Đối ứng với mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm Phục Sinh: Khi tháp nhập vào nhân loại, Con Thiên Chúa đã thúc bách những quy luật của sự sống, khi ra khỏi nhân loại, Ngài đã xô nhào những quy luật của sự chết; hai biến cố kêu gọi lẫn nhau (cũng như Ngài được thụ thai trong cung lòng vô tỳ vết, cũng chính trong nấm mồ mới chưa ai chôn cất mà thân thể của Đức Giê-su được mai táng).

Đức Gioan Phao-lô II giải thích Mầu Nhiệm Nhập Thể như sau: “Mầu nhiệm Nhập Thể là đỉnh cao của việc Thiên Chúa tự hiến thông ban. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất mầu nhiệm Ngôi Hiệp: nối kết thần tính và nhân tính trong ngôi vị duy nhất của Chúa Con. Qua việc ‘trở thành người’ của Ngôi Lời, sự tự hiến của Thiên Chúa đạt tới mức viên mãn trong lịch sử tạo dựng và cứu độ. Mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Con có nghĩa là bản tính nhân loại được nâng lên kết hiệp với Thiên Chúa, nhưng ở đây, bản tính đó hàm chứa tất cả những gì là ‘xác phàm’ nghĩa là cả nhân loại, cả vũ trụ hữu hình vật chất. Như vậy mầu nhiệm Nhập Thể mang chiều kích vũ hoàn” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).

4.Lời đáp trả “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a:

Mặc dù đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được, nhưng Thiên Chúa không làm một mình, Người muốn con người cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Người. Để cho Con Thiên Chúa thật sự làm người, Thiên Chúa đã nhờ đến sự cộng tác của Đức Ma-ri-a.

Còn Mẹ, một khi biết được chương trình của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a hoàn toàn vâng phục ý muốn Thiên Chúa. Dù nhận thức rất rõ sự bất tương xứng vô tận giữa điều Mẹ sẽ trở thành: “Mẹ của Con Thiên Chúa nhập thể”, và điều Mẹ là một thôn nữ thấp hèn ở làng quê Na-da-rét; tuy nhiên Đức Ma-ri-a biết rất rõ đây là điều Chúa muốn xảy ra. Vì thế, với tấm lòng khiêm hạ, Đức Ma-ri-a đáp trả trọn vẹn lời mời gọi của Thiên Chúa qua tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin của Mẹ: “Vâng, tôi đây là tôi tớ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.

Vào giây phút Đức Ma-ri-a thốt lên lời xin vâng tròn đầy niềm tin của mình, biến cố Nhập Thể khởi sự chuyển động. Từ cung lòng vô tỳ vết của Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa tạo hình một con người, và Ngôi Lời đã hiệp nhất chính mình với con người này: trước biến cố Nhập Thể, Ngài đã là Thiên Chúa; sau biến cố Nhập Thể, Ngài vẫn là Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là một phàm nhân. Đấng Tạo Hóa đón nhận kiếp sống của một phàm nhân: thụ thai, sinh ra, lớn lên như bao nhiêu con người khác.

5.Đức Trinh Nữ đầy ân sủng:

Chính ở nơi lời chào của sứ thần: “Đấng đầy ân sủng” mà các nhà thần học nhận ra bốn đặc sủng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Quả thật, trong con cái loài người, Đức Ma-ri-a được Thiên Chúa sủng ái cách đặc biệt. Chỉ một mình Mẹ đón nhận bốn đặc sủng mà không một phàm nhân nào có được: ơn Vô nhiễm nguyên tội, ơn làm Mẹ Thiên Chúa, ơn trọn đời đồng trinh và ơn Hồn Xác lên trời. Trong bốn đặc sủng này, ơn làm Mẹ của “Con Thiên Chúa làm người” là cao cả nhất, bởi vì từ cung lòng vô tỷ vết của Mẹ mà Con Thiên Chúa trở nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; Đấng ấy thật sự là Con Thiên Chúa đồng thời thật sự là con của Đức Ma-ri-a, vì thế Mẹ hiến trọn đời đồng trinh của mình cho ân ban này. Và trong phàm nhân không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su cho bằng Mẹ, mối quan hệ của Mẹ với Con, vì thế Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ chúng ta, không thể nào để cho thân xác của Mẹ Ngài phải chịu hư hoại trong nấm mồ nhưng được kết hiệp với Con mình cả hồn lẫn xác ngay sau khi từ giả cõi trần. Suy cho cùng, chính vì được tuyển chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa làm người mà Đức Ma-ri-a nhận được ba đặc sủng kia.

6.Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội:

Trong ngày lễ tôn kính “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội”, chúng ta chiêm ngắm Mẹ “tràn đầy thánh thiện”, không một chút bợn nhơ nào ngay từ lúc mới được thụ thai trong lòng mẹ. Trong biến cố truyền tin, sứ thần đã xác nhận điều đó khi cung kính chào Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc” (x. Lc 1: 28). Và Trinh Nữ đã đáp trả ý định của Thiên Chúa khi thân thưa: “Này tôi là Tớ Nữ Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo lời Ngài” (Lc 1: 38). Như thế, Đức Ma-ri-a đã chấp nhận trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa làm người. Vì không một tội nào ngăn trở, Đức Ma-ri-a đã hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa qua việc tận tâm tận lực phục vụ cho con người và sự nghiệp của Con Thiên Chúa cũng là Con Mẹ; và nhờ những đặc sủng của Thiên Chúa toàn năng, Đức Ma-ri-a phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền của Con Mẹ và cùng với Con Mẹ. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đã nhận định rất xác đáng rằng : “Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để Mẹ tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Mẹ” (Vatican II, Lumen gentium, 56).

https://kinhthanhvn.net/goi-y-bai-giang/goi-y-bai-giang-chua-nhat-ii-mua-vong.html