HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ
GIÁO HỘI
LUMEN GENTIUM
Bản dịch Việt Ngữ
của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Chương VIII
Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ
Thiên Chúa
Trong Mầu Nhiệm Chúa
Kitô Và Giáo Hội [228]*
I. Lời Mở Ðầu
52. Nhập đề.[229]* Thiên Chúa là Ðấng vô cùng
nhân hậu và khôn ngoan đã muốn hoàn tất việc cứu chuộc thế giới, nên "khi
đến thời viên mãn, Ngài đã sai Con Mình đến, sinh bởi người nữ... để chúng ta
được nhận làm nghĩa tử" (Gal 4,4-5). "Vì loài người chúng ta và để
cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người
đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria"[230]. Mầu nhiệm cứu rỗi thần linh
này được mạc khải cho chúng ta và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội, Giáo Hội mà Chúa
đã lập làm thân thể Người. Trong Giáo Hội ấy, liên kết với Chúa Kitô Thủ Lãnh,
và hiệp thông với toàn thể các Thánh Người, các tín hữu cũng phải kính nhớ
"trước hết đức Maria vinh hiển, trọn đời Ðồng Trinh, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ
Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta"[231]*
53. Ðức Maria và Giáo
Hội. Thực vậy, khi
sứ thần truyền tin, Ðức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong
tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và
tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Ðấng Cứu Thế. Ðược cứu chuộc cách kỳ
diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con,
Ðức Maria đã lãnh nhận sứ mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa,
do đó làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận
ân sủng vô cùng cao quí này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất.
Nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người
cần được cứu rỗi; hơn nữa, "Ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Kitô)...
vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi
thể của Ðầu ấy" [232]. Vì thế, Ngài cũng được chào kính như chi thể của
Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường
của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái. Và Giáo Hội Công Giáo, được
Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Ngài tình con thảo, như đối với một người Mẹ
rất dấu yêu.[233]*
54. Ý hướng của Công
Ðồng. Bởi thế, khi
trình bày giáo lý về Giáo Hội - trong Giáo Hội này, Chúa Cứu Thế thực hiện cuộc
cứu độ - Thánh Công Ðồng ân cần mong muốn làm sáng tỏ vai trò của Ðức Nữ Trinh
trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể, cũng như làm sáng tỏ bổn phận
những người được cứu chuộc đối với Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân
loại, cách riêng Mẹ các tín hữu. Tuy nhiên, Công Ðồng không có ý đưa ra một học
thuyết đầy đủ về Ðức Maria và giải quyết các vấn đề mà sự nghiên cứu của các
nhà thần học chưa làm sáng tỏ trọn vẹn. Những ý kiến được tự do trình bày trong
các trường phái công giáo về Ðấng có địa vị cao cả nhất trong Giáo Hội thánh
sau Chúa Kitô, và cũng là Ðấng rất gần chúng ta[234], những ý kiến ấy đều được
duy trì cách hợp pháp[235]*.
II. Vai Trò Ðức Nữ Trinh trong Nhiệm Cuộc Cứu Rỗi[236]
55. Mẹ Ðấng Cứu Thế
trong Cựu Ước.
Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng kính, trình bày ngày
một sáng tò hơn vai trò của Mẹ Ðấng Cứu Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và đưa vai
trò ấy ra cho chúng ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Ước thuật lại lịch sử
cứu rỗi, trong đó ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới được chuẩn bị cách
tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu theo
ánh sáng mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh người nữ, Mẹ
Ðấng Cứu Thế. Theo ánh sáng mạc khải ấy, người nữ này đã được phác họa trước
trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà Tổ Tông đã nhận được sau khi phạm
tội (x. Stk 3,15). Cũng thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên
là Emmanuel (x. Is 7,14 so sánh với Mik 5,2-3; Mt 1,22-23). Ngài trổi vượt trên
các người khiêm hạ và khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và
lãnh nhận ơn cứu độ nơi Chúa. Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực
hiện, với Ngài, người Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời gian đã nên trọn và
Nhiệm Cuộc mới được thiết lập: khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại
nơi Ngài để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác
Chúa.[237]
56. Ðức Maria trong
việc truyền tin.
Nhưng Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự ưng thuận của người mẹ được tiền định
trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì
cũng một người nữ hợp tác cho sự sống. Ðiều đó đặc biệt thích hợp với Mẹ Chúa
Giêsu, vì Ngài đem đến cho thế giới chính Nguồn Sống cải tạo mọi sự, và đã được
Chúa ban cho nhiều ơn cân xứng với sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không có gì
lạ, nếu các Thánh Giáo Phụ đã thường xưng tụng Mẹ Thiên Chúa là Ðấng toàn
thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần
uốn nắn và tác thành[238]. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc
mới được thụ thai, Ðức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên Thần vâng lệnh Chúa
đến truyền tin và kính chào là "Ðấng đầy ân phúc" (x. Lc 1,28). Và
Trinh Nữ đã đáp lời Thiên Sứ rằng: "Này tôi là Tôi Tá Chúa, xin hãy xảy ra
cho tôi theo lời Ngài" (Lc 1,38). Như thế, Ðức Maria, con cháu Adam, vì
chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu
rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở Ngài, Ðức Maria đã tận hiến
làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thể và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng
của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với
Con Ngài. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã
không thu dụng Ðức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào
việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh
Ireneô nói: "Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho
mình và cho toàn thể nhân loại"[239]. Và cùng với thánh Ireneô còn có rất
nhiều Thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: "Nút
dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của
Ðức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Ðức Trinh Nữ
Maria đã tháo ra nhờ lòng tin [240]; và so sánh với Evà, các ngài gọi Ðức Maria
là "Mẹ kẻ sống" [241], và thường quả quyết rằng: "bởi Evà đã có
sự chết, thì nhờ Maria lại được sống"[242]*
57. Ðức Maria và thời
thơ ấu Chúa Giêsu.
Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Ðức Maria
thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước
hết, Ðức Maria vội vã đến thăm bà Elizabeth và được bà ấy chào mừng là người có
phúc vì đã tin vào sự cứu rỗi Chúa đã hứa, trong lúc đó vị tiền hô nhảy trong
lòng mẹ (x. Lc 1, 41-45). Rồi ngày sinh nhật, Mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới
thiệu với các mục đồng và các nhà bác học đứa Con đầu lòng của mình, mà khi sinh
ra đã không làm giảm bớt nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài
[243]. Trong đền thánh, sau khi hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Ðức Maria
dâng Con lên cho Thiên Chúa, và đã nghe Simeon báo trước Con mình sẽ là dấu chỉ
sự phản kháng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng mẹ, nhờ đó tư tưởng trong lòng
nhiều người sẽ được bày tỏ (x. Lc 2, 34-35). Khi trẻ Giêsu lạc mất, Cha Mẹ đã
lo âu tìm kiếm và gặp lại Con trong đền thánh đang bận tâm lo việc của Cha
Người. Các Ngài không hiểu lời Con nói; nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả các
điều ấy và suy gẫm trong lòng (x. Lc 2, 41-51). [244]*
58. Ðức Maria và đời
sống công khai Chúa Giêsu. Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện rõ
ràng, và ngay từ đầu, trong tiệc cưới thành Cana xứ Galilêa, vì động lòng
thương xót, Ngài đã cầu bầu, khiến Chúa Giêsu, Ðấng Thiên Sai, làm phép lạ đầu
tiên của Người (x. Gio 2, 1-11). Trong thời gian Chúa truyền đạo, Ðức Maria đã
đón nhận lời của Con Ngài, những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lý do và
liên hệ huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên
Chúa (x. Mc 3,35 và song song; Lc 11,27-28) như chính Ngài hằng thực hành những
điều đó cách trung tín (x. Lc 2,19 và 51). Như thế Ðức Nữ Trinh cũng đã tiến
bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập
giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng đó (x. Gio 19,25). Ðức Maria đã
đau đớn chịu khổ cực với Con một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm
lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra.
Và cuối cùng chính Chúa Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm
Mẹ của môn đệ qua lời này: "Thưa Bà, này là con Bà" (x. Gio 19,26-27)
[245]*
59. Ðức Maria sau khi
Chúa lên trời. Vì
Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước
khi Ngài đổ tràn Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông Ðồ
trước ngày Hiện Xuống "đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ,
với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em Người" (CvTđ 1,14). Ðức Maria
cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Ngài
trong ngày Truyền Tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên
tổ[246], và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được
đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác[247], và được Thiên Chúa tôn
vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa
(x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết[248]*
III. Ðức Nữ Trinh Và
Giáo Hội [249]*
60. Ðức Kitô, Ðấng
trung gian độc nhất và Mẹ Maria. [250]* Chúng ta chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất, như
lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ
có một Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa với nhân loại, đó là Chúa Giêsu
Kitô, là Người, đã dâng mình làm giá chuộc mọi người" (1Tm 2,5-6). Nhưng
vai trò làm mẹ của Ðức Maria đối với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt
vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ
mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Ðức Nữ Trinh
trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý
định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa
Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa
Kitô, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm
cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực tiếp với Chúa Kitô.
[251]*
61. Cộng tác vào việc
cứu chuộc. Từ muôn
đời, Ðức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc
nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng,
trên trần gian Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Ðấng Cứu Chuộc thần linh, và
cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá
khiêm hạ của Chúa. Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng
Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên
thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu
Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập
sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật
là Mẹ chúng ta.[252]*
62. Vai trò tùy thuộc
trong việc cứu rỗi.
Nhưng trong nhiệm cuộc ân sủng, Ðức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ
khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà Ngài đã
không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu
rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài
trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để
đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời[253]. Với
tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương
thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê
trời. Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu:
Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian[254]. Tuy nhiên phải hiểu
các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của
Ðấng Trung Gian duy nhất [255].
Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hàng
với Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng như chức linh mục của Chúa Kitô
được thông ban dưới nhiều hình thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và
cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các
tạo vật, thì sự trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Thế không những không loại bỏ
mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác, trong sự tùy thuộc vào nguồn mạch
duy nhất.
Vai trò tùy thuộc ấy của Ðức Maria, Giáo Hội không ngần ngại
tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng để
nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Ðấng
Trung Gian và Cứu Thế. [256]*
63. Maria trinh nữ và
người mẹ là mẫu mực của Giáo Hội. [257]* Ðức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên
Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu Chuộc, và nhờ các ơn và
nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh
Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin,
đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô[258]. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo
Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức Nữ Trinh
Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời
và hiếm có [259]. Vì, bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã sinh chính Con Chúa
Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần
bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đã đặt niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ
không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai
nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đã sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm Trưởng Tử trong
nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh
hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ. [260]*
64. Giáo Hội là trinh
nữ và là mẹ. Tuy
nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Ðức Maria,
và khi trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời
Thiên Chúa mà Giáo Hội trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và
ban phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép
Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và
bất diệt. Giáo Hội cũng là trinh nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền lòng
trung nghĩa đã hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của
Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy
bền vững và một đức mến chân thành[261]*
65. Giáo Hội phải bắt
chước nhân đức của Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội, qua con người của Ðức Nữ Trinh, đã đạt
tới sự toàn thiện làm cho mình nên thanh sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27), nhưng
Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để tiến trên đường thánh
thiện. Vì thế, họ ngước mắt nhìn lên Ðức Maria là một mẫu gương nhân đức sáng
ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Ðức
Maria và chiêm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội cung
kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu nhiệm nhập thể, và nên
giống Phu Quân mình ngày một hơn. Thực vậy, Ðức Maria đã mật thiết gắn liền với
lịch sử cứu rỗi, và có thể nói là Ngài đã qui tụ và phản chiếu nơi mình những
đòi hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe rao giảng về Ngài và
tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ của Con Ngài và yêu
mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa Kitô càng nên giống
Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến,
và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công
cuộc tông đồ, Giáo Hội có lý để nhìn lên Ðấng đã sinh Chúa Kitô là người được
thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Ðức Nữ Trinh sinh ra để, nhờ Giáo
Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu. Ðời sống của Ðức Nữ Trinh
là một gương sáng của tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy phải là động lực
của tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân
loại. [262]*
IV. Việc Tôn Kính Ðức
Nữ Trinh Trong Giáo Hội [263]*
66. Bản tính và nền
tảng của việc tôn kính Ðức Mẹ. Nhờ hồng ân Thiên Chúa, Ðức Maria được tôn vinh, sau Chúa
Con, vượt trên hết các thiên thần và loài người, vì Ngài là Mẹ rất thánh của
Thiên Chúa và đã tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô; do đó Ngài đáng được
Giáo Hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa,
Ðức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các
tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Ngài trong mọi cơn gian nan
khốn khó[264]. Nhất là từ công đồng Ephêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn
kính Ðức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng
như lời Ngài đã tiên báo: "Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Ðấng toàn năng
đã làm cho tôi những việc trọng đại" (Lc 1,48-49). Sự tôn kính ấy, như vẫn
luôn có trong Giáo Hội, tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt
với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể và lên Chúa Cha và Chúa Thánh
Thần; việc tôn kính Ðức Maria khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba
Ngôi. Giáo Hội đã chấp nhận nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới
hạn của giáo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và nơi
chốn, hợp với tính khí cùng tinh thần của tín hữu; những hình thức ấy, qua việc
tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận biết đúng đắn, yêu mến, làm vinh danh,
và tuân giữ giới răn Chúa Con, vì Người mà muôn vật được tạo thành (x. Col
1,15-16) và nơi Người, Chúa Cha hằng hữu "muốn có đầy đủ mọi sự" (Col
1,19). [265]*
67. Chiều hướng mục vụ. Thánh Công Ðồng cố ý dạy giáo lý
công giáo ấy, đồng thời Giáo Hội cũng khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt
tâm phát huy lòng sùng kính Ðức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng
những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn ngài và đã được quyền Giáo
Huấn Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết
định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô,
Ðức Nữ Trinh và các Thánh[266]. Công Ðồng cũng hết lòng khuyến khích các nhà
thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm chức phi thường
của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng đại sai lầm cũng như
mọi tư tưởng hẹp hòi quá đáng[267]. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các Thánh Giáo Phụ,
các tiến sĩ và học hỏi các phụng vụ trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của quyền
Giáo Huấn, họ hãy làm sáng tỏ đúng mức những chức vụ và đặc ân của Ðức Trinh
Nữ; những chức vụ và đặc ân này luôn qui hướng về Chúa Kitô, nguồn mạch toàn
thể chân lý, thánh thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay
việc làm có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý
đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân
chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin
phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Ðức tin dẫn chúng ta đến
chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình
con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta.[268]*
V. Ðức Maria, Dấu Chỉ
Lòng Cậy Trông Vững Vàng Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành[269]*
68. Ðức Maria, dấu chỉ
của Dân Thiên Chúa.
Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi
thủy của Giáo Hội sẽ hoàn thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày
Chúa đến (x. 2P 3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và
niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành.[270]*
69. Ðức Maria chuyển
cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Thánh Công Ðồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy ngay
giữa các anh em ly khai không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh
dự Ngài đáng được, nhất là các anh em Ðông Phương, những người nhiệt thành và
hết lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh[271]. Tất cả mọi Kitô hữu
hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đã
trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay được tôn
vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng Con Ngài trong
sự hiệp thông toàn thể các Thánh cho tới khi mọi gia đình dân tộc hoặc đã mang
danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết Ðấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ
trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh
danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia.[272]*.
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này
đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa
Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng
Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng
quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền Thánh
Phêrô,
ngày 21 tháng 11 năm
1964.
Tôi, Phaolô Giám Mục
Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký
của các Nghị Phụ.
Chú thích:
[198]* Chương này được khai sinh theo ước muốn
của Ðức Gioan XXIII.
Ðược Ủy ban Thần học soạn thảo lại,
chương này được mọi người công nhận là một phần của hiến chế mới (lược đồ đệ
trình bấy giờ chỉ có 4 chương). Nội dung của chương được tổng hợp trong tựa đề.
Công Ðồng nhấn mạnh tới hành động tôn vinh Thiên Chúa của tất cả Thân Thể Chúa
Kitô là Giáo Hội dưới đất cũng như trên trời. Cơ cấu của chương như sau: số 48
nói lên hai giá trị của Giáo Hội trong đó những thành phần dưới thế cùng tồn
tại với những thành phần cố định; các số 49 và 50 trình bày những mối dây liên
kết Kitô hữu còn ở trần gian với những người đã lên trời hoặc ở trong luyện
ngục: các Thánh trên trời cầu bầu cho chúng ta là những kẻ lữ hành (số 49), mối
tương quan giữa các Ngài với chúng ta (số 50). Từ giáo lý này mà số 51 rút ra
những hậu kết có tính cách mục vụ.
[199]* Số 48: Ðặc tính cánh chung của ơn gọi chúng ta.
Trong cuộc sống hiện tại, ơn gọi của
chúng ta là: được Chúa Kitô thánh hóa, chúng ta cùng với Người tiến về sự thánh
thiện viên mãn trong đời sống vĩnh cửu, khi chúng ta được chiêm ngưỡng chính
Thiên Chúa. Cuộc lữ hành đòi chúng ta phải ý thức về mối liên hệ giữa đời sống
hiện tại của chúng ta với đời sống vĩnh cửu, để với lòng tin vững chắc vào Chúa
Kitô Cứu Thế và hy vọng một vinh quang mai hậu, chúng ta chịu đựng những nghịch
cảnh đời này, và chống lại ma quỉ. Ðời sống Kitô giáo có sự liên tục giữa đời
sống dưới thế và đời sống vĩnh cửu trên trời. Có ý thức sống động được chân lý
này, chúng ta mới nghĩ đến những người đã về trời. Và điều đó làm chúng ta hiểu
sâu sắc hơn về chính mầu nhiệm Giáo Hội: là thực hiện sự hiệp thông giữa mọi
người trong Chúa Kitô, là sự hiện diện sống động của các thực tại trên trời
giữa dòng đời trần gian. Như thế, khi tín hữu nhớ lại lời Chúa và các Tông Ðồ
đã nói, có thể nhận ra sự liên lạc mật thiết giữa các chân lý này và tầm quan
trọng nền tảng của chúng đối với đời sống Kitô giáo.
[200]* Các số 49-50: Sự hiệp thông
giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời.
Ðây là nền tảng giáo lý của cả
chương, nghĩa là Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời tạo thành một Dân
Chúa, một Thân Thể Chúa Kitô. Công Ðồng giải thích sự hiệp nhất này vì dựa vào
căn bản là những mối dây liên lạc sống động giữa chúng ta, những người lữ hành
trên dương thế, và những người đã đạt tới quê trời. Trong số những hoạt động và
những mối liên quan ấy, điều đáng kể là việc các Thánh cầu bầu cho cả Giáo Hội.
[201] CÐ Firenze, Decretum pro
Graecis: Dz 693 (1305).
[202] Ngoài những tài liệu xưa hơn
có từ thời Ðức Alexandrô IV ngăn cấm mọi hình thức chiêu hồn (27-9-1258), xem
Tđ. của Bộ thánh vụ De magnetismi abusu, 4-8-1856: ASS (1865) trg 177-178; Dz
1653-1654 (2823-2825); câu trả lời của Bộ thánh vụ, 24-4-1917: AAS 9 (1917),
trg 268, Dz 2182 (3642).
[203] Xem bài đúc kết học thuyết này
của T. Phaolô, trong Tđ. Piô XII, Mystici Corporis: AAS 35 (1943), trg 200 và
nhiều nơi khác.
[204] Xem T. Augustinô, Enarr. in
Ps. 85, 24: PL 37, 1099. T. Hieronimô, Liber contra Vigilantium, 6: PL 23, 344.
T. Tôma, In Ivm Sent., d. 45, q. 3, a. 2. T. Bonaventura, In Ivm Sent., d. 45,
a. 3, q. 2; v.v...
[205] Xem Piô XII, Tđ. Mystici
Corporis : AAS 35 (1943), trg 245.
[206]* Số 49: Nền tảng giáo lý và sự liên hệ giữa các Thánh trên trời và
Giáo Hội.
Nền tảng tín lý được trình bày rõ
ràng và chính xác để tránh những khuynh hướng cực đoan và để giúp cho nhu cầu
hiệp nhất được dễ dàng hơn. Công Ðồng dạy rằng, cho tới khi Chúa lại đến trong
vinh quang, một số người đã ở trên Nước Trời, một số khác ở trong luyện ngục,
một số khác nữa đang trên đường tiến về đời sau, nhưng tất cả đều kết hiệp với
Chúa Kitô làm nên một Giáo Hội duy nhất. Công Ðồng cũng dạy rằng, các Thánh
trên trời lấy tình thương phù trợ đặc biệt cho những người anh em khác, và củng
cố cũng như làm làm đẹp Giáo Hội trần gian.
[207] Xem rất nhiều bi ký trong các hầm
mộ cổ ở Roma.
[208] Xem Gelasiô I, giáo lệnh De
libris recipiendis, 3 : PL 59, 160; Dz 165 (353).
[209] Xem Methodiô, Symposion VII, 3
: GCS (Bonwetsch), trg 74.
[210] Xem Benedictô XV, Decretum
approbationis virtutum in Causa beatificationis et canonizationis Servi Dei
Joannis Nepomuceni Neumann: AAS 14 (1922), trg 23. Nhiều diễn văn của Ðức Piô
XI về các thánh: Inviti all'eroismo, trong Discorsi e Radiomessaggi bộ I-III,
1941-1942, và nhiều nơi khác. Ðức Piô XII, Discorsi e Radiomessaggi, bộ 1949, 37-43.
[211] Xem Piô XII, Tđ. Mediator Dei
: AAS 39 (1947), trg 581.
[212] Xem Dth 13,7; Hđ 44-50; Dth
11,3-40. Xem thêm Piô XII, Tđ. Mediator Dei: AAS 39 (1947), trg 582-583.
[213] Xem CÐ Vat. I, Hiến chế về đức
tin công giáo Dei Filius, ch. 3: Dz 1794 (3013)
[214] Xem Piô XII, Tđ. Mystici
Corporis : AAS 35 (1943) trg 216.
[215] Về sự biết ơn đối với chính
các thánh, xem E. Diehl, Inscriptiones latinae veteres, I, Berlin , 1925, các số 2008, 2382 và nhiều nơi
khác.
[216] CÐ Trentô, sắc lệnh De
invocatione... sanctorum: Dz 984 (1821).
[217] Sách nguyện Roma, Tiền xướng
trong lễ các Thánh
[218] Xem ví dụ: 2Th 1,10.
[219] CÐ Vaticanô II, Hiến chế Phụng
vụ Thánh, Sacrosanctum Concilium, ch. 5, số 104 : AAS 56 (1964), trg 125-126.
[220] Xem Sách lễ Roma, Lễ qui.
* Số 50: Sự
liên hệ giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời.
Số này trình bày cách thức mà Giáo
Hội lữ hành phải có, để trong thực hành, tạo được sự hiệp thông đã nói trong
đoạn trước. Công Ðồng đưa ra những động lực chính yếu giúp xây dựng và phát huy
sự hiệp thông của chúng ta với Giáo Hội trên trời. Những động lực đó như sau:
những người đã về trời nêu gương cho chúng ta một đời sống đạo chính thực; sự
liên lạc với họ sẽ đưa chúng ta tiến tới việc kết hợp khắng khít hơn với Chúa
Kitô; sự hiệp thông với họ làm cho việc phụng tự qui về Chúa Kitô nơi Giáo Hội
trần gian được sung mãn. Ở nhiều nơi, Hiến Chế ám chỉ tới lịch sử Giáo Hội, để
làm sáng tỏ hơn những nền tảng thần học của giáo lý đã trình bày và cũng để cho
sự trình bày này được sống động hơn, tương xứng hơn với nhu cầu mục vụ.
Ðoạn nhất nói lên những cách thức
hiệp thông tổng quát với các người anh em không thuộc về Giáo Hội trần gian:
kính nhớ và vọng độ cách chung, tôn kính và nài xin cầu bầu. Ðoạn hai nhấn mạnh
tới gương mẫu các Thánh nêu ra cho đời sống Kitô giáo chúng ta, hoặc dưới khía
cạnh sư phạm hoặc dưới khía cạnh minh giáo. Ðoạn ba chúng ta thấy việc tôn kính
các Thánh chính thực sẽ thúc giục chúng ta thực thi bác ái huynh đệ và liên kết
chúng ta với Chúa Kitô bền chặt hơn. Tình bác ái huynh đệ nơi chúng ta là những
khách lữ hành không bị suy giảm, trái lại còn làm gia tăng đặc tính qui về Chúa
Kitô của Kitô giáo. Cũng vì lý do đó, sự liên lạc và hiệp thông với các Thánh
trên trời đã không làm cản trở nhưng còn giúp đỡ cách lạ lùng cho tình yêu và
sự kính thờ Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðoạn bốn có xác quyết căn bản như sau: việc tế
tự phụng vụ của Giáo Hội thực hiện tất cả những gì đã nói về sự liên hệ với các
Thánh trên trời.
[221] Xem CÐ Nicea II, văn kiên VII
: Dz 302 (600).
[222] Xem CÐ Firenze, Decretum pro
graecis : Dz 693 (1304).
[223] Xem CÐ Trentô, sắc lệnh De
invocatione, veneratione et reliquiis Sanctorum et sacris imaginibus: Dz
984-988 (1821-1824), sắc lệnh De Purgatorio: Dz 983 (1820); sắc lệnh De
justificatione, khoản 30: Dz 840 (1580).
[224] Sách lễ Roma, kinh Tiền tụng,
dùng trong các giáo phận Pháp.
[225] Xem T. Phêrô Canisiô,
Catechismus Maior seu Summa Doctrinae christianae, ch. III, x.b. F. Streicher,
phần I, trg 15-16, số 44 và trg 100-101, số 49.
[226] Xem CÐ Vat II, Hiến chế về
Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, ch. I, số 8: AAS 56 (1964), trg 401.
[227]* Số 51: Hậu kết mục vụ.
Một vài hậu kết có tính cách mục vụ
theo sau những nguyên tắc đã đề ra. Hậu kết đó bao gồm một số ý hướng căn bản
để việc tôn kính các Thánh được thực hiện trong tinh thần đúng đắn và để có thể
ngăn ngừa những hình thức thái quá hay bất cập ở một vài nơi. Một đàng Công
Ðồng chủ trương rõ ràng giá trị việc tôn kính các Thánh không cốt tại gia tăng
các hành động bên ngoài, nhưng do cường độ tình yêu của chúng ta; đàng khác
Công Ðồng quả quyết việc tôn kính ấy không đi ngược với tình yêu Thiên Chúa,
với việc tôn thờ dành cho mình Ngài. Số này chứa đựng nhiều điều có thể cổ võ
cho việc hiệp thông với các anh em ly khai, đặc biệt với anh em Ðông Phương, vì
giáo lý thuộc đức tin của chúng ta đây đối với họ hết sức quan trọng, làm nên
một di sản chung về đức tin và về sự kính nhớ.
Phần kết luận cho toàn chương (51,
đoạn hai) quả quyết rằng hiện đại hóa sự hiệp thông của tất cả những người
thuộc về Chúa Kitô là đã bắt đầu cuộc sống vinh quang, và như vậy là ngay ở
chốn lưu đày này đã thực hiện được cùng đích của đời ta vì đã được tham dự và
thưởng thức phụng vụ vinh hiển trên trời.
[228]* Ðây là một trong những chương
được tranh luận nhiều nhất. Việc khai sinh ra nó cũng gây nhiều sôi nổi. Trong
số những lược đồ được đệ trình, có một lược đồ về Ðức Maria. Vì những lý do có
tính cách hoặc thần học hoặc mục vụ hoặc hiệp nhất, một vài Nghị Phụ muốn cho
lược đồ về Ðức Maria xen vào Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội. Ngày 29-10-1963, các
Nghị Phụ đứng trước một câu hỏi như sau: "Các Nghị Phụ Công Ðồng có muốn
lược đồ về Ðức Trinh Nữ Mẹ Giáo Hội đổi thành chương cuối cùng của lược đồ về
Giáo Hội chăng?" Trước khi bỏ phiếu, có hai bản phúc trình chính thức về
vấn đề này: Hồng Y Konig, người muốn cho xen vào hiến chế, và Hồng Y Santos
muốn làm một lược đồ riêng. Cả hai dùng những luận chứng dồi dào và vững chắc
để trình bày trước các Nghị Phụ và sự thích hợp của quan điểm mình. Kết quả
cuộc đầu phiếu thật sát nút: với 2,193 Nghị Phụ có mặt thì 1,114 vị bỏ phiếu
thuận, 1,074 phiếu chống. Phiếu thuận chỉ hơn có 40 phiếu và Công Ðồng chấp
nhận việc xen lược đồ vào trong Hiến Chế.
Một vấn đề thứ hai được đặt ra: nếu
xen thì xen vào chỗ nào? Mẹ Thiên Chúa liên kết khắng khít với mầu nhiệm Giáo
Hội, nhưng muốn giải thích sự liên kết này, cần quan niệm vai trò của Mẹ Thiên
Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Ðối với khía cạnh này, giáo lý về Ðức
Maria vượt quá giáo lý về Giáo Hội. Do đó chỉ có thể đặt vào phần cuối Hiến
Chế. Ðấy là lý do tại sao có chương VIII và vị trí của nó trong Hiến Chế.
Bố cục của chương này như sau: trong
phần nhập đề (các số 52-54), Công Ðồng xác định địa vị của Ðức Maria trong Giáo
Hội và những nguyên tắc giáo lý làm kim chỉ nam cho việc trình bày về Ðức Maria.
Ðồng thời Công Ðồng cũng cho biết chủ đích của mình. Phần nhất (các số 55-59)
giải thích địa vị của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Phần hai
(các số 60-65) trình bày địa vị đó trong viễn tượng Giáo Hội, nói lên những
liên lạc của Ðức Maria với Giáo Hội. Phần ba (các số 66-67) đề cập những bổn
phận Kitô hữu đối với Ðức Maria. Phần kết luận vắn tắt (các số 68-69) trình bày
Mẹ Thiên Chúa như dấu hiệu hy vọng và sự liên quan của Ngài với việc hiệp nhất
các Kitô hữu.
[229]* Các số 52-54: Nhập đề.
Các số này thống nhất với nhau
(trong lần soạn thảo đầu chúng ở trong cùng một số) có mục đích trình bày đối
tượng của chương VIII. Ý tưởng chính rất đơn giản: mạc khải đã minh nhiên làm
nổi bật địa vị của Mẹ Thiên Chúa, trong ý định cứu rỗi từ đời đời của Chúa,
trong sự thực hiện ý định ấy do Chúa Giêsu Kitô, bởi vì có sự liên tục (chương
VII) giữa công việc dưới đất và công việc trên trời của Chúa Kitô và ngày nay
Ðức Mẹ cũng vẫn còn giữ nguyên địa vị này (số 52). Maria là phần tử đặc biệt và
là khuôn mẫu Giáo Hội (số 53). Chủ đích của Công Ðồng là: trình bày vai trò của
Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội và những bổn phận của Kitô
hữu đối với Mẹ (số 54).
[230] Kinh tin kính của CÐ
Constantinopla: Mansi 3, 566. Xem CÐ Ephesô, n.v.t., 4, 1130 (và n.v.t., 2, 665
và 4, 1071). Xem CÐ Calcedonia, n.v.t., 7, 111-116. CÐ Constantinopla II
n.v.t., 9, 375-396. Sách lễ Roma, kinh tin kính.
[231] Sách lễ Roma, lễ qui.
* Số 52. Việc cứu thế được thực hiện nhờ Thiên Chúa đã gửi Con Ngài
đến, sinh bởi người nữ. Ðó là nền tảng của cả khoa Thánh Mẫu học. Ðức Nữ Ðồng
Trinh Maria liên kết mật thiết với việc Nhập Thể Cứu Chuộc đó.
[232]T. Augustinô, De S.
Virginitate, 6 : PL 40, 399.
[233]* Số 53.
Số này đặt Mẹ Chúa Kitô Cứu Thế
trong tương quan với Giáo Hội. Ðầu tiên là quả quyết Ðức Maria đã tự ý chấp
nhận lời thiên thần báo tin sẽ sinh Ðấng Cứu Thế. Câu chuyện báo tin được đặt
nổi bật. Sau đó Công Ðồng nghiên cứu sâu xa những mối liên hệ giữa Maria và Ba
Ngôi Thiên Chúa trong viễn tượng Giáo Hội theo một đề tài quen thuộc với Hiến
Chế như đề tài Giáo Hội từ mầu nhiệm Ba Ngôi. Vì trách vụ được Chúa trao phó
nên Mẹ được cứu chuộc kỳ diệu hơn, do công nghiệp Con Mẹ, Ðấng mà Mẹ đã kết
hiệp mật thiết và bền chặt. Trong chiều hướng ấy, Công Ðồng không ngần ngại
liên tiếp trình bày Ðức Trinh Nữ như là Mẹ của Con Thiên Chúa, là ái nữ của
Chúa Cha, là cung thánh của Chúa Thánh Thần. Cả ba danh hiệu hoàn toàn theo
truyền thống. Nhưng tâm điểm của số này ở chỗ Công Ðồng quả quyết rằng Maria
vừa có các danh hiệu đó, nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Mẹ cũng liên
kết với tất cả mọi người, và Mẹ đã cộng tác vào công việc cứu thế. Do đó, Mẹ
Chúa Kitô vẫn là phần tử Giáo Hội, dù là phần tử tuyệt hảo và đặc biệt, một
trật cũng là khuôn mẫu của Giáo Hội. Bởi vậy Giáo Hội tôn kính Mẹ như Mẹ thật
với tình con thảo.
[234] Xem Phaolô VI, Diễn văn trong
Công Ðồng, ngày 4-12-1963 : AAS 56 (1964), trg 37.
[235]* Số 54.
Công Ðồng giải thích vắn tắt về vai
trò Ðức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và về các bổn phận của tín hữu đối với
Mẹ. Công Ðồng tự giới hạn trong viễn tượng này chứ không nhằm trình bày đầy đủ
giáo lý về Ðức Maria, cũng không nhằm giải quyết các vấn đề mà các nhà thần học
tranh luận.
[236]* Các số 55-59: Phần I - Ðịa vị và vai trò của Ðức Maria trong nhiệm
cuộc cứu rỗi.
Bố cục phần này rất rõ ràng, vì dựa
theo các dữ kiện lịch sử mạc khải về Mẹ Thiên Chúa trong Thánh Kinh, bắt đầu từ
Cựu Ước tới thời kỳ Giáo Hội, qua sự kiện truyền tin, tới cuộc đời thơ ấu và
công khai của Chúa Giêsu. Cứ như bản phúc trình chính thức đã nói, đây là phần
chính yếu nhất trong Chương VIII.
[237] Số 55: Trong Cựu Ước.
Thứ tự của số này theo sát lịch sử
cứu rỗi như thấy trong Cựu Ước, để chúng ta thấy rằng người phụ nữ làm Mẹ Chúa
Kitô trong Phúc Âm cũng là Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết qua thần học và
qua việc tôn kính nơi các dân Kitô giáo. Như thế là Công Ðồng cho biết sự tiến
triển của mạc khải về Ðức Maria và không ngần ngại chấp thuận phương pháp lịch
sử cứu rỗi, một phương pháp mà một số người chuyên về Thánh Mẫu học không mấy
tin tưởng. Không muốn gây ra cuộc bút chiến, nên Công Ðồng chỉ nhằm trình bày
một "bản tiểu sử" về người Phụ Nữ, dựa trên toàn thể chứng từ được
linh ứng của Mạc Khải trọn vẹn và trên chứng từ của đời sống Giáo Hội.
[238] Xem T. Germanô, Const. Hom. in
Annunt. Deiparae: PG 98, 328 A; In Dorm. 2: 357 Anatasiô thành Antiokia, Serm.
2 de Annunt. 2: PG 89, 1377 AB: Serm. 3, 2 : 1388 C. T. Anrê Cret., Can.
in B.V. Nat. 4 : PG 97, 1321 B; in B.V. Nat. 1: 812 A; Hom. in dorm. 1: 1068 C.
T. Sophroniô, Or. 2 in Annunt. 18: PG 87 (3), 3237 BD.
[239] T. Ireneô, Adv. Haer. III, 22,
4: PG 7, 959 A; Harvey 2, 123.
[240] T. Ireneô, n.v.t., Harvey , 2, 124.
[241] T. Epiphaniô, Haer. 78, 18 :
PG 42, 728 CD-729 AB
[242] T. Hieronimô, Epist. 22, 21:
PL 22, 408. Xem T. Augustinô, Serm. 51, 2, 3 : PL 38, 335; Serm. 232, 2: 1108.
T. Cyrillô Jerusalem. Catech., 12, 15: PG 33, 741, AB. T. Gioan Kim Khẩu, In
Ps. 44, 7: PG 55, 193. T. Gio Damascenô, Hom. 2 in dorm. BMV. 3: PG 96, 728.
* Số 56: Truyền tin.
Công Ðồng theo vết các Giáo Phụ, coi
câu chuyện truyền tin rất quan trọng, vì nhìn thấy ở đó thái độ căn bản của mọi
Kitô hữu. Giáo Hội thuở đầu đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận này
của Ðức Maria, vì là kết quả của đức tin và tình yêu của Mẹ. "Chấp nhận"
không những là tiếng nói then chốt trong cả câu chuyện nhưng đồng thời còn là
tiếng nói lược tóm tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa
đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong ta, vừa biết quảng đại phục vụ cho công
cuộc cứu thế; cũng như Ðứa Maria, chúng ta tích cực cộng tác mà không tự mãn,
và qua việc chấp nhận ấy, ân sủng đem lại sự sống: trong Chúa Kitô, Ðức Maria
đã ban cho thế giới Nguồn Sống đổi mới mọi sự.
[243] Xem CÐ Lateranô, năm 649, đ.
th. 3: Mansi 10, 1151. T. Leô Cả, Epist. ad Flav.: PL 54. 759. CÐ Calcedonia:
Mansi 7, 462. T. Ambrosiô, De inst. Virg.: PL 16, 320.
[244]* Số 57: Ðức Maria và cuộc đời thơ ấu Chúa Giêsu. Câu đầu tiên của số
này nêu lên ý tưởng chỉ dẫn: Ðức Maria liên kết với Chúa Con trong công cuộc
cứu thế từ lúc thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn đồng trinh cho tới mầu nhiệm cuộc tử
nạn của Chúa. Công Ðồng trình bày chân lý này rõ ràng hơn bao giờ hết. Chủ đề
trở lại ba lần: lần Ðức Maria đi thăm bà Elizabeth ,
lần sinh Chúa ở Bêlem và lần dâng Chúa trong đền thờ. Câu chuyện tìm thấy Chúa
trong đền thờ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự liên kết ấy.
[245] Xem Piô XII, Tđ. Mystici
Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 247-248.
* Số 58: Ðức Maria và cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
Một cách vắn tắt, Công Ðồng đóng
khung hoạt động của Ðức Maria trong cuộc đời công khai của Chúa, vì theo thánh
Gioan, lúc khởi đầu và kết thúc sứ vụ công khai đều có sự hiện diện của Ðức
Maria. Trong hai lúc này Ðức Maria mới chỉ được gọi là "Bà". Ðó là
lúc ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới chân
Thánh Giá. Hai lời Chúa nói xem ra như hất hủi Ðức Maria. Việc can thiệp của
Ðức Maria có nhiều ý nghĩa, nhưng lại nằm trong văn mạch mới đầu có thể coi là
kỳ lạ. Ý tưởng chính là: Nước Thiên Chúa vượt quá mọi mối liên hệ xác thịt và
hoàn toàn ở trên sự tính toán của con người. Câu chính trong số này trình bày
một ý tưởng ít quen thuộc hơn: Ðức Maria cũng tiến tới trong cuộc hành trình
Ðức Tin qua đau khổ và u tối.
[246] Xem Piô IX, sắc chỉ
Ineffabilis, 8-12-1854 : văn kiện của Ðức Piô IX, 1, I, trg 616; Dz 1641 (2803).
[247] Xem Piô XII, Tông hiến
Munificentissimus, 1-11-1950: AAS 42 (1950); Dz 2333 (3903). Xem T. Gio
Damascenô, Enc. in dorm. Dei Genitricis, bài giảng 2 và 3: PG 96, 721-761. nhất
là cột 728B. T. Germanô Constantinopla, In S. Dei gen. Dorm. bài giảng 1: PG 98
(6); 340-348; bài giảng 3: cột 361. T. Modestô Jerusalem, In dorm. SS.
Deiparae: PG 86 (2) 3277-3312.
[248] Xem Piô XII, Tđ. Ad caeli
Reginam, 11-10-1954: AAS 46 (1954), trg 633-636; Dz 3913tt. Xem T. Anrê Gret.,
Hom. 3 in dorm. SS. Deiparae: PG 97, 1089-1109. T. Gioan Damascenô, De fide
orth., IV, 14: PG 94, 1153-1161.
* Số 59: Ðức Maria sau khi Chúa lên trời.
Có hai vấn đề nói ở đây: 1) Lời cầu
nguyện của Ðức Maria trước lễ Hiện Xuống cùng với các Tông Ðồ, các phụ nữ và
các anh em Chúa. Ðức Maria ở giữa dân chúng chứ không ở trong số những người
điều khiển cộng đoàn. Mẹ tham dự vào kinh nguyện chung. Mẹ thuộc thành phần
Giáo Hội cầu nguyện đang chuẩn bị thi hành sứ mệnh của mình, và Mẹ cầu nguyện
với tước hiệu duy nhất là Mẹ Chúa Giêsu (CvTđ 1,14). 2) Công Ðồng tái xác nhận
hai tín điều đã được Giáo Hội tuyên bố khi lập lại những lời của các câu định
tín liên hệ. Hai tín điều này có liên quan mật thiết với nhau. Ðức Maria được
suy tôn làm Nữ Vương của vũ trụ, để trở nên giống với Con Mẹ là Chúa các Chúa
một cách hoàn toàn hợn, và được suy tôn là Ðấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.
[249]* Các số 60-65: Phần II - Sự liên lạc giữa Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội.
Phần này trực tiếp bàn về sự liên
lạc giữa Ðức Maria và Giáo Hội. Trước hết, Công Ðồng nhấn mạnh tới sự đồng công
cứu chuộc của Ðức Maria do sự tự ý chấp thuận việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa,
do việc dâng hy tế trên Thánh giá và do việc cầu bầu liên lỉ trên trời. Trong
văn mạch này, giữa những tước hiệu khác nhau Công Ðồng đề cập đến tước hiệu
Ðấng Trung Gian. Một số người trong Ủy ban thần học chưa nhìn thấy rõ tước hiệu
này nên Công Ðồng giải thích cho biết tước hiệu này vẫn không làm lu mờ sự
tuyệt hảo Ðấng Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô (các số 60-62). Sau đó (trong
các số 63-64) Công Ðồng giải thích lý do khiến Ðức Maria, là Trinh Nữ và là Mẹ,
lại là hình bóng của Giáo Hội. Giáo lý này có tầm quan trọng đặc biệt, vì Công
Ðồng rất lưu tâm đến những khía cạnh trổi vượt của mầu nhiệm Giáo Hội. Sau cùng
(số 65), Ðức Maria được coi như gương mẫu các nhân đức.
[250]* Các số 60-62: Ðức Maria trong
công trình cứu chuộc.
[251]* Số 60: Những nguyên tắc giáo lý.
Số này tóm lược các nguyên tắc giáo
lý và chỉ dẫn cho biết giáo lý trình bày trong những số kế tiếp phải được hiểu
theo những nguyên tắc này. Mọi nỗ lực và hành động của Ðức Maria đều do vị
Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô, Ðấng đã muốn cho Ðức Maria cộng tác vào công
trình cứu chuộc. Sự trung gian của Ðức Maria biểu lộ rõ rệt hơn và còn giúp cho
sự trung gian của Chúa Kitô nữa. Chỉ vì ý muốn hoàn toàn nhưng không của Thiên
Chúa nhân từ và quyền năng, Ðấng Cứu Thế đã thông truyền ảnh hưởng cứu rỗi cho
các chi thể và đặc biệt cho Mẹ Người, là Ðấng ngay từ đầu đã cộng tác với Người
và với công việc Người. Ðó chính là nguyên tắc của kế hoạch cứu rỗi hay nguyên
tắc ban phát đời sống thần linh. Giáo Hội sẽ trở nên bí tích để ban phát đời
sống đó. Còn Ðức Maria, là chi thể trổi vượt đầu tiên, sẽ là khuôn mẫu cho Giáo
Hội.
[252]* Số 61: Trong cuộc đời trần gian.
Số này nói rất vắn tắt đến trọng tâm
việc cộng tác của Ðức Maria. Là mẹ Thiên Chúa, là tôi tớ khiêm hạ của Chúa, Mẹ
là cộng sự viên quảng đại của Ðấng Cứu Thế và là Mẹ chúng ta trên bình diện ân
sủng. Bản văn theo sát với sự thể hiện của nhiệm vụ này. Nhờ hoàn toàn sẵn sàng
tuân theo ý Chúa, Ðức Trinh Nữ đã mang thai Chúa Giêsu, Ðấng sẽ xóa hết tội lỗi
Dân Người. Ðức Maria đã sinh con và đã nuôi nấng. Mẹ đã dâng Con cho Chúa Cha
trong Ðền Thánh, đã đau khổ với cái chết của Con trên Thánh Giá. Mẹ đã cụ thể
hóa việc cộng tác tuyệt đối duy nhất này trong sự tuân phục vô điều kiện, sự
tuân phục thấm nhuần đức tin, đức cậy và đức mến hăng nồng. Sự trung thành của
Mẹ trong việc chấp thuận chương trình cứu rỗi là then chốt cho việc quảng diễn
các ý tưởng khác (x. các số 53, 56, 63 và 64).
[253] Xem Kleutgen, ch. IV bản đã
sửa: De Mysterio Verbi incarnati: Mansi 53, 290. Xem T. Anrê Gret. In nat.
Mariae, bài giảng 4: PG 97, 865A. T. Germanô Constantinopla, In annunt.,
Deiparae: PG 98, 321 BC; In dorm. Deiparae III, 361D. T. Gio Damascenô, In
dorm. BV. Mariae, bài giảng 1, 8 : PG 90, 712BC-713A.
[254] Xem Leô XIII, Tđ. Adjutricem
populi, 5-9-1895: ASS 28 (1895-96), trg 229. T. Piô X, Tđ. Ad diem illum,
2-2-1904, văn kiện I, trg 154; Dz 1978a (3370). Piô XI, Tđ. Miserentissimus,
8-5-1928: AAS 20 (1929), trg 178. Piô XII, sứ điệp truyền thanh, 13-5-1946: AAS
38 (1946), trg 266.
[255] Xem T. Ambrosiô, Epist. 63 :
PL 16, 1218
[256]* Số 62: Trên trời.
Là Mẹ ban ân sủng, ở trên trời Ðức
Maria tiếp tục một địa vị khác trong công trình cứu rỗi. Tình mẫu tử của Mẹ tiếp
tục hoạt động. Chắc chắn Mẹ không ban phát ân sủng riêng, nhưng là ân sủng Chúa
Kitô, vì không có ân sủng nào khác. Sứ mệnh của Ðức Maria là liên kết Chúa Kitô
với những phần tử làm thành Giáo Hội. Ðó là ý nghĩa của tiếng Maria, Mẹ đầy ơn.
Mẹ thực hiện sứ mệnh qua việc bầu cử cho nhân loại. Do đó, mà Giáo Hội gọi Mẹ
bằng các danh hiệu: Ðấng Bảo Vệ, Ðấng Phù Trợ, Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Ðấng Trung
Gian. Các nhà thần học tranh luận về ý nghĩa gán cho các tước hiệu ấy, nhất là
tước hiệu sau cùng. Công Ðồng không muốn giải quyết cuộc tranh luận, nhưng chỉ
quả quyết một thực tại hoàn toàn được toàn thể Giáo Hội chấp nhận, mà không bận
tâm đến những điều xác định rõ rệt có tính cách kỹ thuật. Công Ðồng cũng nói
thêm là tước hiệu này không làm mất cũng không thêm thắt gì vào địa vị và hành
động của Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất, vì không tạo vật nào có thể đóng
vai trò trên cùng một bình diện như Chúa Cứu Thế.
[257]* Các số 63-64: Ðức Maria là mẫu mực Giáo Hội.
Tính cách song đối giữa Ðức Maria và
Giáo Hội đưa ra một chủ đề hoàn toàn mới mẻ trong khoa thần học hiện thời. Quả
thực được liên kết với Con mình trong công trình cứu chuộc, Ðức Trinh Nữ Maria
đã vượt trên mọi người khác và trở nên mẫu mực Giáo Hội. Ðó chính là một phần
tử trong nhóm đang hình thành, gây ảnh hưởng trên người khác, lôi cuốn và làm
gương cho họ. Ở đây Công Ðồng khai triển vắn tắt chủ đề này về Ðức Maria là
hình bóng Giáo Hội, không phải hình bóng hay mẫu mực theo nghĩa thiết lập phẩm
trật hay bí tích, nhưng như người cổ xúy đời sống thiêng liêng trong đó sự đồng
trinh nẩy nở thành tình mẫu tử.
[258] Xem T. Ambrosiô, Expos. Lc II.
7; PL 15, 1555.
[259] Xem Phêrô Dam. Giả, Serm. 63:
PL 144, 861 AB. Godefridus a S. Victore, in nat. BM., Ms. Paris, Mazarine,
1002, tờ 109c. Gerhohus Reich., De gloria et honore Filii hominis, 10 : PL 194,
1105 AB.
[260]* Số 63: Ðức Maria là mẫu mực Giáo Hội, như một Trinh Nữ và một người
Mẹ.
Trước hết là đức đồng trinh, nhưng
hiểu theo chiều hướng thiêng liêng. Nó hệ tại đức tin và đức cậy nhờ đó Ðức
Maria đã sinh Con Chúa do quyền phép Chúa Thánh Thần mà không có sự liên lạc
xác thịt nào với người nam, và như vậy đã trở thành người Mẹ. Ðức Maria đã thụ
thai Ngôi Lời trong tâm hồn trước khi thụ thai trong lòng. Ðức đồng trinh tương
quan với sự chấp thuận bất khả khuyết của đức tin. Ðức Maria đi trước Giáo Hội
ở điểm này; chính do Mẹ mà Chúa Kitô được sinh ra, Ðấng sẽ làm cho Giáo Hội
thành thân thể của Người.
[261] Xem Ambrosiô, Expos. Lc.II,7
và X,24-25; PL 15, 1555 và 1810. T. Augustinô, In Jo Tr. 13,12: PL 35, 1499.
Xem Serm. 191, 2,3: PL 38, 1010; v.v... Cũng xem chân phước Beda, In Lc. Expos.
I, ch. 2 : PL 92, 330. Isaac de Stella, Serm. 51: PL 194, 1863A.
* Số 64: Giáo Hội là Mẹ và là Trinh Nữ.
Hình thức song đối đã nói trên kết
thúc ở đây: tính cách làm Mẹ đồng trinh của Ðức Maria chính là bí tích, dấu
hiệu hoặc hình ảnh của Giáo Hội đồng trinh, cũng thụ thai và sinh dưỡng các con
cái mình. Tính cách làm mẹ của Giáo Hội, noi theo Ðức Maria, là việc đón nhận
Lời Chúa trong tâm hồn. Ðón nhận có nghĩa là thực hành. Như thế Giáo Hội trở
thành mẹ của một cuộc sống bất tử, nhờ Thần Khí của việc sáng tạo mới. Sự đồng
trinh của Giáo Hội - là điều kiện để sinh nhiều con cái - hệ tại việc trung
thành thực thi các nhân đức đối thần, theo gương Ðức Maria và nhờ sức mạnh Chúa
Thánh Thần.
[262]* Số 65: Giáo Hội và việc noi theo các nhân đức của Ðức Maria.
Ở đây, Công Ðồng trình bày Ðức Maria
như gương mẫu các nhân đức mà Giáo Hội phải noi theo. Việc kính nhớ Mẹ Thiên
Chúa làm cho tín hữu thâm hiểu mầu nhiệm Nhập Thể hơn vì có nhiều khía cạnh của
mầu nhiệm này biểu hiện nơi Mẹ Thiên Chúa. Ngay từ thời xa xưa, Giáo Hội đã cầu
khẩn với Ðức Maria, nhờ thế mà Giáo Hội tiến tới trên con đường đức tin và trên
đường sứ mệnh tông đồ, trở nên giống với mẫu mực của mình hơn.
[263] Các số 66-67: Phần III - Việc tôn kính Ðức Trinh Nữ trong Giáo Hội.
Phần này trực tiếp nói đến sự áp
dụng giáo lý vào công việc giảng thuyết và tôn kính. Mối bận tâm mục vụ của
Công Ðồng được biểu lộ rõ rệt. Công Ðồng muốn rằng, trong Giáo Hội, việc tôn
kính và sùng mộ Ðức Maria phải chừng mực và chính đáng; không trễ nải vì những
ngờ vực vô ích hay sợ sệt; không quá khai thác những tình cảm, tưởng tượng hoặc
những điều thần học còn mơ hồ.
[264] Xem Sách Nhật Tụng Roma, xướng
khúc "Sub tuum..." ở kinh chiều I của Tiểu tụng Ðức Mẹ.
[265]* Số 66: Bản tính và nền tảng việc tôn kính Ðức Trinh Nữ.
Nền tảng việc tôn kính Ðức Maria là
do việc Mẹ Thiên Chúa được gắn liền với mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô. Vì Ðức
Maria được dự phần vào mầu nhiệm này hơn bất cứ ai khác, nên Giáo Hội đặc biệt
tôn kính Mẹ. Việc tôn kính - bản chất của việc sùng mộ - được gọi là đặc biệt
(so sánh với việc tôn kính các Thánh), nhưng xét theo yếu tính thì hoàn toàn
khác biệt với việc tôn thờ chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa. Tiêu chuẩn của
việc tôn kính là phải phù hợp với giáo lý chính thống. Việc tôn kính chỉ có bảo
đảm khi trung thành với ơn linh ứng riêng và phải hoàn toàn hướng về Con duy
nhất mà trong Người, Chúa Cha tác thành mọi sự. Việc sùng mộ sẽ trở nên ảo
tưởng nếu không đưa đến việc tuân giữ các giới răn Chúa. Giả thiết như thế rồi,
cũng còn phải lưu ý đến những hình thức tôn kính khác nhau nhưng vẫn hợp pháp,
do hoàn cảnh thời gian và nơi chốn tạo ra, hay do những tâm tình khác nhau của
mỗi dân tộc. Vậy phải thận trọng nhưng đừng có đầu óc thiển cận. Việc tôn kính
với cùng một hình thức như nhau sẽ trở nên nghèo nàn; phải để quyền cho công
giáo tính.
[266] CÐ Nicea II, năm 787: Mansi
13, 378-379 ; Dz 302 (600-601). CÐ Trentô, khóa 25: Mansi 33, 171-172.
[267] Xem Piô XII, sứ điệp truyền
thanh, 24-10-1954: AAS 46 (1954), trg 679. Tđ. Ad caeli Reginam, 11-10-1954:
AAS (1954), trg 637.
[268]* Số 67: Tinh thần giảng thuyết và tôn kính Ðức Trinh Nữ.
Sau cùng, Công Ðồng ban bố một vài
qui tắc mục vụ cho việc giảng thuyết và tôn kính Ðức Maria. Công Ðồng giới
thiệu đặc biệt việc tôn kính có tính cách phụng vụ, nhưng cũng không quên những
hình thức, những việc thực hành đạo đức không đi ngược với những nguyên tắc đã
đề ra. Việc tôn kính theo phụng vụ được chú trọng hơn là vì có sự chỉ dẫn trực
tiếp của Giáo Hội. Những hình thức tôn sùng cũng như Công Ðồng cổ võ, dù không
bàn đến chi tiết. Những tiêu chuẩn để giảng thuyết rất đơn giản: đừng tán tụng
thái quá, không hẹp hòi thiển cận, hoàn toàn tuân theo chỉ thị của Giáo Hội,
biết dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền. Như vậy Công Ðồng muốn ngay cả việc
giảng thuyết về Ðức Mẹ cũng phải qui về Chúa Kitô. Kết luận của số này là vài
lời khuyên tổng quát về việc sùng mộ đích thực nhằm gửi tới Dân Chúa (không chỉ
bằng tình cảm nhất thời, không phải niềm tin viễn vông, nhưng là sự thực hành
sâu xa của một đức tin chính thực, lấy tình yêu hàm chứa lòng biết ơn mà tuyên
xưng sự cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và đức tin đó còn làm cho chúng ta biết quảng
đại noi theo sự hiệp nhất giữa Mẹ với Thiên Chúa).
[269]* Các số 68-69: Kết luận.
Hai vấn đề được đặt ra ở Ðức Maria
như dấu hiệu cậy trông và như dấu hiệu hiệp nhất.
[270]* Số 68: Ðức Maria như dấu hiệu cậy trông.
Số này bàn đến một ý tưởng quan
trọng: ý nghĩa địa vị được tôn vinh của Mẹ Chúa Giêsu đối với toàn thể Giáo
Hội. Ðức Maria là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội. Mẹ là dấu hiệu cậy trông.
Mẹ cũng đã phải chịu thử thách nên do kinh nghiệm riêng mà biết được gánh nặng
của chúng ta. Tình thương Mẹ dành cho chúng ta sẽ khuyến khích chúng ta cố gắng
không ngừng.
[271] Xem Piô XI, Tđ. Ecclesiam Dei,
12-11-1923: AAS 15 (1923), trg 581. Piô XII, Tđ. Fulgen corona, 8-9-1953: AAS
45 (1953), trg 590-591.
[272]* Số 69: Ðức Maria và sự hiệp nhất các Kitô hữu.
Ðây là một điểm tế nhị. Nhiều người
nghĩ dường như Ðức Maria là một trở ngại trên con đường hiệp nhất các Kitô hữu.
Công Ðồng đã đề cập vấn đề theo khía cạnh tích cực: Công Ðồng nhận định một sự
kiện không ai chối cãi: trong số những anh em ly khai, cũng có người kêu cầu
đến Trinh Nữ hèn mọn thànhNazareth. Như vậy vẫn còn hy vọng. Công Ðồng muốn mọi
Kitô hữu cầu xin Ðức Maria cho việc hiệp nhất, vì Mẹ bầu cử cho mọi người tuyên
xưng Con Mẹ là Ðấng Cứu Thế, và cho cả những ai chưa biết Mẹ. Mẹ vẫn luôn giữ
vai trò làm mẹ. Như thế sẽ có ánh sáng làm rạng ngời vinh quang Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét