Trang

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2014

Hãy khóc lên hỡi Israel ! (bài 2)

Hãy khóc lên hỡi Israel ! (bài 2)
*Trần Vinh



    Một dân tộc bị nạn ngoại xâm hoặc bị nạn mất nước rồi bị lưu đầy phiêu bạt thì luôn luôn phải chịu những nỗi thống khổ đắng cay vô bờ bến. Huống chi trường hợp dân tộc Do Thái đã phải chịu cả hai nạn ấy, vừa liên tục bị nạn ngoại xâm vừa bị cảnh phiêu bạt tứ tán khắp tứ phương thiên hạ, cho nên nỗi thống khổ của dân tộc này chồng chất không bút nào tả xiết.

    Hai lần bị phiêu bạt:

    Lần thứ nhất: Ngay từ năm 722 trước T.L., dân tộc Do Thái đã bị lưu đầy. Thời đó, dân tộc Do Thái chia ra 2 tiểu quốc. Tiểu quốc phương Bắc là Israel bị Assyria xâm lăng và đẩy hàng ngàn người Do Thái đi Trung Á. Tiều quốc phương Nam là Judea cũng bị Babylon tiêu diệt và bắt đi hàng vạn tù nhân Do Thái. Từ nơi lưu đầy, người Do Thái đã than khóc: Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion…(Thánh Vịnh 137).

    Lần thứ hai: Dưới ách đô hộ của người Roma, dân Do Thái đã liên tục nổi dậy. Năm 70, quân đội Roma đốt phá tan tành thành Jerusalem và xua đuổi người Do Thái ra khỏi xứ sở của họ. Một phần tản mác khắp vùng Tiểu Á, một phần đi châu Âu, Bắc Phi, Ethiopia. Chỉ còn một số rất nhỏ ở lại được và chung sống với người Ả Rập.
    Thân phận kẻ lưu đầy:

    Ban đầu, ở các nơi, người Do Thái sống riêng rẽ, giữ tôn giáo riêng, cho nên tuy có bị đối xử phân biệt, nhưng chưa đến nỗi bị hà hiếp quá đáng.

    Thời Trung cổ, tương đối đưọc an thân:

    Tại các nước Hồi giáo: Khoảng hơn 1 triệu người Do Thái sống tại các nước Hồi giáo. Số phận không quá bi đát. Ở Ba Tư, người Do Thái bị coi là tiện dân, hễ đụng tay vào đâu là cái đó bị coi là dơ bẩn; không được mở cửa hàng buôn bán; phải sống trong những mellahs là khu dành riêng cho người Do Thái. Ở Marốc, người Do Thái bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, không được pháp luật che chở. Ở Yemen, người Do Thái không được nói lớn tiếng trước người khác; phải đứng dậy trước mặt người Hồi giáo; không được động vào ai; không được buôn bán cùng thứ hàng hoá với người bản xứ; cấm mặc đồ màu lợt; không được mang vũ khí; không được ra khỏi khu Do Thái trước khi mặt trời mọc.

    Tóm lại, người Do Thái sống ở các nước Ả Rập tuy có bị phân biệt đối xử, nhưng không đến nỗi quá đáng và cũng mới chỉ bị kì thị vì lí do kinh tế, lí do xã hội, chứ chưa phải là vì lí do tôn giáo như ở Âu châu.

    Tại các nước Âu châu: Từ khi có những chiến dịch Thập Tự Quân, ở Âu châu, người Do Thái bắt đầu bị xua đuổi tàn sát thê thảm. Trong cuốn Naissance d’Israel (Gallimard, 1857), tác giả Chaim Weizmann (tổng thống đầu tiên của Israel) đã liệt kê những biến cố đàn áp lớn mà dân tộc của ông đã phải chịu:

    1138: Bọn Alhomade tàn sát người Do Thái ở Tây Ban Nha .

    1182-1198 vua Philippe Auguste lưu đầy “bọn Do Thái”.

    1189: Thập Tự chinh lần thứ ba. Người Do Thái ở Anh bị tàn sát.

    1215: Giáo chủ Innocent III bắt người Do Thái phải đeo một cái bánh xe nhỏ trước ngực.

    1254: Vua St Louis lưu đầy người Do Thái.

    1290: Người Do Thái bị nước Anh trục xuất.

    1330-1338: Người Do Thái bị tàn sát ở Đức.

    1348: Nhân có nạn bệnh dịch hạch hoành hành ở Âu châu, người ta đổ tội cho người Do Thái và tàn sát họ.

    1391: Người Do Thái bị tàn sát ở Seville và bắt buộc cải giáo ở Tây Ban Nha.

    1394: Vua Charles VI lưu đầy người Do Thái.

    1421: Người Do Thái bị trục xuất khỏi Vienne.

    1492: Người Do Thái bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha.

    1495: Người Do Thái bị trục xuất khỏi Lithuanie.

    1498: Người Do Thái bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha.

    1516: Thành lập ghetto đầu tiên ở Venise.

    1563-1656: Người Do Thái bị tàn sát ở Ukraine, Đức, Ba Lan và Áo.

    1679: Người Do Thái bị trục xuất khỏi Vienne
    .
    1740: Người Do Thái ở Prague bị lưu đầy.

    1768: Nhiều vụ pogrom xẩy ra ở Ukraine.

    1827: Nga hoàng Nicolas I bắt trẻ em Do Thái cải giáo.

    1866: Nhiều vụ pogrom xẩy ra ở Roumanie.

    1883: Nhiều vụ pogrom xẩy ra ở Nga.

    1891: Người Do Thái bị trục xuất khỏi Moscou.

    1894: Vụ án Dreyfus.

    1903: Một vụ pogrom xẩy ra ở Kichinev (Roumanie).

    1905: Nga thua Nhật. Cách mạng nổi lên ở Nga. Người ta đổ mọi tội lên đầu    người Do Thái. Nhiều vụ pogrom xẩy ra vào tháng 10.

    1919-1921: nhiều vụ pogrom xẩy ra ở Nga.

    Ngay từ năm 1096, trước khi gia nhập Thập Tự Quân đi chiếm lại mộ của Chúa, người Âu châu đã từng rủ nhau tới tàn sát ngưòi Do Thái vì tội người Do Thái đã giết Chúa! Thật vậy, suốt 10 thế kỉ, người Do Thái ở các nước Âu châu đã chịu nhiều thống khổ: bị cấm làm nhiều nghề, phải đóng thuế rất nặng, có khi bị tịch thu tài sản, bị xua đuổi, bắt phải cải giáo, nhiều nơi bị bắt phải tập trung sống trong ghetto là khu dành riêng cho người Do Thái, nhiều nơi bị nạn pogrom (tiếng Nga, có nghĩa là bạo hành, phá hủy) tức là lấy một cái cớ nào đó rồi người ta kéo tới khu Do Thái đốt phá, chém giết bừa bãi. Kết quả những cơn bách hại không tiêu diệt được tinh thần người Do Thái, trái lại, càng làm cho họ đoàn kết hơn, kiên vững hơn trong tinh thần và trong đức tin tôn giáo.

    Nạn kì thị chủng tộc:

    Nguời Do Thái đã chịu quá nhiều đau khổ bên Âu châu kể từ thời Trung cổ, nhưng những đau khổ ấy chưa thấm tháp vào đâu so với những gì họ phải chịu trong thời Đức quốc xã do Hitler lãnh đạo lên nắm quyền tại Âu châu từ 1933 cho tới khi đại chiến thế giới lần thứ hai chấm dứt vào năm 1945. Cuộc bách hại lần này có tính toán kĩ lưỡng hơn, có kế hoạch quy mô và ‘khoa học’ hơn, cho nên người Do Thái phải chịu sự tổn thất, nhất là về nhân mạng, vô cùng kủng khiếp.

    Để chuẩn bị chiến dịch tàn sát người Do Thái, Đức quốc xã đưa ra một lí thuyết kì thị chủng tộc. Tìm cách chứng minh “khoa học” rằng chỉ có giống da trắng Âu châu là thượng đẳng… Giống Do Thái có máu xảo quyệt, ti tiện, keo kiệt, hay phản trắc (đổ tội giết Chúa!), không chịu sống hoà đồng, hay phản loạn (đổ tội ông tổ Cộng sản Karl Marx là người Do Thái).

    Thực hiện chiến dịch: Khởi đầu là những biện pháp kềm kẹp như cấm nhiều nghề, cấm vào rạp hát, cấm vào thư viện hay viện bảo tàng, cấm mướn người làm công, phải đính ngôi sao David lên áo… Sau đó tới đợt cướp hết tài sản của người Do Thái rồi tống cổ họ ra khỏi xứ. Những vĩ nhân cỡ Eistein, Freud, Stephan Weig… đều phải đào thoát đi Hoa Kì hoặc Anh quốc.

    Cao điểm chiến dịch là lệnh truy nã bắt bớ tập trung tất cả mọi người Do Thái tại Đức cũng như tại các nước Đức quốc xã đang chiếm giữ, dù là đã lai đến mấy đời. Khi đã bị bắt tập trung, người Do Thái bị coi như không còn là người: gia đình bị phân tán, chịu bạo hành, đói khát, rách rưới, giá lạnh, mắng chửi…

    Tàn ác nhất là chủ trương sát hại hết, sát hại tập thể người Do Thái. Bọn Đức quốc xã như không còn nhân tính, chúng coi mạng người Do Thái không bằng mạng một con vật. Tên mật vụ (SS.) Gebauer có cái thú bóp cổ hoặc dìm nước trẻ em cho đến chết. Có tên nắm hai chân em bé, đưa lên cao và xé toạc ra. Tên khác tung một bé lên trời rối nhắm bắn. Tên Heinen thì xếp hàng một các nạn nhân để bắn “trổ tài”. Tên tướng Frank Jaekeln “lập thành tích” trong 48 ngày giết chết 30,000 người Do Thái. Tận cùng của sự tàn ác là các trại tập trung kèm theo lò sát sinh tập thể, sản phẩm của trí tuệ, của khoa học. Nguyên trại Maidenneck đã giết 750,000 người; trại Chelmno giết 1 triệu người. Còn nhiều trại tập trung và lò sát sinh khác như: Dachau, Buchenwald, Mauthausen, Oranienbourg, Bliziny, Fossenberg, Natgweiler, Ravensbruck. Nhưng không đâu khủng khiếp bằng tại Aushwitz. Trại này đã giết chết 3 triệu người Do Thái. Khi Đức quốc xã thua trận, bọn họ đã để lại những núi giày, những phòng kính đeo mắt, những kho tóc, những kho răng vàng… mà bọn họ đã thu từ những nạn nhân bị sát hại trong các lò sát sinh.

    Sang năm 1944, Đức quốc xã nhắm chừng sẽ thua trận, sẽ bị người Do Thái trả thù, cho nên chúng đã chuyển 20,000 người Do Thái thuộc thành phần trí thức từ Tiêp Khắc về trại Birkeneau để thủ tiêu. Tại đây còn nhiều đợt sát hại kế tiếp. Cuối cùng trại Birkeneau đã giết chết 1,900,000 người Do Thái: gần 1 triệu người Do Thái Ba Lan, 50 ngàn người Do Thái Đức, 100 ngàn người Do Thái Hòa Lan, 100 ngàn người Do Thái Pháp và 200 ngàn người Do Thái Hung.

    Tổng kết con số người Do Thái bị Đức quốc xã sát hại lên tới 6 triệu người. Những người sống sót nhờ chạy thoát sang Anh hoặc sang Hoa Kì và các quốc gia khác không bị Đức chiếm đóng. Một số rút vào các bưng biền kháng chiến. Chỉ một số nhỏ ở lại còn sống sót nhờ được những người hảo tâm che dấu. Trường hợp em Ann Frank cũng được bạn cứu giúp và đã để lại cuốn nhật kí nổi tiếng của em.

    Kết thúc chiến tranh, năm 1946, tòa án quốc tế ở Nuremberg đã gọi tội ác sát hại người Do Thái của bọn Đức quốc xã là tội diệt chủng. Lịch sử nhân loại bị một chương đen tối nhất, đẫm máu kẻ vô tội nhất. Công lao hun đúc tinh thần của bao triết gia, bao văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ…lừng danh Âu châu sao lại đưa tới kết quả chính người Âu châu đã phạm tội ác tấy trời như thế này. Thêm vào đó, chính những tên tội phạm và cả những kẻ a dua cộng tác đều là người Âu châu từng chịu ảnh hưởng văn hóa Kitô giáo lâu đời!

     *Trần Vinh
    Hình ảnh sưu tầm Interne

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét