Trang

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

HỌC HỎI THÁNH KINH 100 TUẦN: TUẦN 26 - 27 - 28 - 29

HỌC HỎI THÁNH KINH 100 TUẦN: TUẦN 26 VÀ 27
Tuần 26: Sách Samuel 2

(chương 1-12) 
I. THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI 

Vua Đavít được gọi là vua thánh Đavít nhưng trong thân phận con người, nhà vua cũng đã phạm những lầm lỗi nặng nề. Trình thuật Thánh Kinh về tội của Đavít soi sáng cho ta nhiều điều về ý nghĩa của tội lỗi cũng như đưa ra những cảnh giác cụ thể về mối nguy hiểm của tội. 

1. Sự kiện tội lỗi (11,1-5) 

Vua Đavít say mê bà Bathsêba, vợ của tướng Uria, và tìm cách chiếm đoạt bà: “Vua sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Nàng đã thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đavít rằng: “Tôi có thai.”

2. Sự tàn phá của tội (11,6-26) 

Tội này lôi kéo theo tội khác. Khi nghe tin Bathsêba đã có thai, nhà vua phải tìm cách che giấu tội lỗi của mình. Trước hết, vua cho gọi Uria, chồng bà về gặp vua, rồi ra lệnh cho ông về nhà nghỉ ngơi. Nếu Uria về thăm gia đình và sau đó bà Bathsêba có thai, âu cũng là chuyện bình thường. Nhưng “Uria nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình,” và lý do ông đưa ra thật đáng khâm phục, “Hòm Bia cũng như Israel và Giuđa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Gioap và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao?” (11,11). Nhưng vua Đavít phải tìm mọi cách che giấu tội lỗi của mình nên khi sử dụng trò gian dối không thành, nhà vua phải dùng đến thủ đoạn tàn ác nhất. Ông viết thư cho tướng Goap, căn dặn rằng: “Hãy đặt Uria ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết” (11,15). Oái ăm thay, chính Uria lại là người cầm bản án tử cho mình để nộp cho Gioap (11,14). Và Đavít đã toại nguyện. Bà Bathsêba làm tang lễ cho chồng, sau đó vua Đavít đón bà về làm vợ mình (11,23-27).  

Như thế, trong trường hợp của vua Đavít, gian dâm dẫn đến gian dối rồi dẫn đến sát nhân. Tội này kéo theo tội khác. Đây cũng là thực tế trong đời sống mỗi người, có điều nhiều khi ta không đủ can đảm và khiêm tốn nhận ra sự thật này. Và vì không thấy đúng sự thật nên không thấy rõ sự tàn phá của tội, cũng không đủ quyết tâm để xa tránh tội. 

3. Dịp tội 

Khi mô tả tội của Đavít, Sách Thánh ghi nhận, “Vào một buổi chiều, vua Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng có nhan sắc tuyệt vời” (11,2). Sau đó nhà vua cho vời người phụ nữ đó vào cung. 

Như thế, tội của Đavít khơi nguồn từ chỗ “nhìn thấy người phụ nữ đang tắm.” Giác quan là cánh cửa cho tâm hồn mở ra với thế giới bên ngoài, nhờ đó nhận biết thế giới, thiết lập tương giao, và làm cho đời sống thêm phong phú. Chính vì thế, bị mất đi một giác quan, vd. khiếm thị hay khiếm thính, đều làm cho cuộc sống trở thành nghèo nàn và khó khăn hơn. Tuy nhiên thế giới giác quan cũng có thể trở thành cửa ngõ cho những ham muốn tội lỗi. Vì thế, các nhà đạo đức mới nói đến việc canh chừng ngũ quan.  

Xa hơn, phải nói đến những dịp tội. Không phải vô lý khi trong kinh ăn năn tội, người Công giáo nói đến quyết tâm xa tránh dịp tội, vì bất cứ tội nào ta phạm cũng đều có dịp của nó. Không xa tránh dịp tội, sẽ khó lòng tránh được chính tội lỗi. Một người nghiện rượu sẽ khó tránh được chuyện uống rượu nếu hẹn hò với bạn bè trong quán nhậu. Hai bạn trẻ sẽ khó tránh được quan hệ xác thịt khi hẹn nhau nơi tăm tối và kín đáo. Quyết tâm không chỉ là những ý hướng tốt chung chung, nhưng một quyết tâm chân thành hàm chứa nỗ lực xa tránh dịp tội, nhờ đó có thể giữ mình khỏi tội lỗi. 

Vua Đavít được gọi là vua thánh, và quả thật, cuộc đời ông là tấm gương sáng cho các nhà lãnh đạo cũng như cho từng người tín hữu về nhiều phương diện. Thế nhưng con người tốt lành đó cũng đã có những giây phút sa ngã trầm trọng, từ một đam mê nhất thời dẫn đến nhiều hậu quả trầm trọng. Âu cũng là lời nhắc nhớ cho ta về sự thật hiển nhiên mà Chúa Giêsu đã dạy, “Tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Ý thức đó sẽ giúp ta khiêm tốn hơn, nhờ đó biết cảnh giác trước những cám dỗ trong đời sống đức tin.

Tuần 27: Sách Samuel 2
(Chương 13-34)

I. SÁM HỐI

1. Biết mình: khởi điểm của hành trình sám hối (12,1-15)

Đavít phạm tội và tìm cách che giấu tội lỗi. Có lẽ ông đã thành công vì âm mưu của ông khéo léo quá và vì ông là vua nên không ai dám đụng tới. Nhưng hành động của ông không thể qua mắt Thiên Chúa (11,27). Ngài sai tiên tri Natan đến để giúp Đavít nhận ra sự thật mà ông đang tìm cách che giấu.

“Bạn hãy biết chính mình.” Người Hi Lạp coi đây là khởi điểm của triết học, và thực sự đây là chân lý căn bản nhất trong đời người nhưng cũng lại là chân lý bị lãng quên nhiều nhất. Đavít cũng không dễ dàng nhận ra sự thật về chính mình. Oâng vẫn tỏ ra là một vị minh quân sáng suốt và đầy tình nhân ái. Vì thế khi nghe tiên tri Natan kể chuyện về một người giàu cóù đã ức hiếp người nghèo đến độ bắt cả con chiên duy nhất của người nghèo mà làm tiệc đãi khách của mình, Đavít đã hùng hồn tuyên bố, “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết” (12,5). Nhưng trong khi ông sáng suốt nhận diện sự bất công mà tên nhà giàu gây ra cho đồng loại, thì ông vẫn không nhận ra sự bất công trầm trọng chính ông đã gây ra. Trong khi ông hùng hồn lên án tên nhà giàu, ông không biết rằng ông đang tuyên án chính mình! Chỉ đến khi tiên tri Natan thẳng thắn công bố, “Kẻ đó chính là ngài” (12,7), ông mới ngỡ ngàng.

Đavít đã không thể biết mình khi chỉ dựa trên dư luận. Ơng chỉ nhận ra sự thật khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài. Cũng vậy, người Công giáo có thói quen xét mình để nhận ra sự thật về mình. Nhưng ta sẽ không nhận ra sự thật đó khi xét mình dựa vào dư luận xã hội, dựa vào sự đánh giá của người đời, hoặc tự so sánh mình với người khác. Ta chỉ có thể biết rõ về mình khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài : “Lạy Chúa, trong ánh sáng Chúa, chúng con nhìn thấy ánh sáng.”

2. Đền tội

Khi nghe tiên tri Natan kể về một trường hợp bất công, Đavít đã tuyên án: “Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót” (12,6). Lời tuyên án này báo trước chính hình phạt ông phải chịu, tức là mất bốn người con. Đau đớn nhất cho Đavít là ở chỗ những cái chết này lại do chính anh em trong nhà sát hại lẫn nhau:

- 12,18 : con bà Bathsheba chết,

- 13,28 : Amnon chết dưới tay Absalom,

- 18,15 : Absalom chết dưới tay quân sĩ của Đavít,

- 1V 2,24-25 : Adonijah chết dưới tay Salomon.

Theo lẽ công bằng, nếu tội lỗi đã gây ra những bất công trầm trọng cho tha nhân, thì người phạm tội cũng phải chịu hình phạt cho cân xứng. Phải chăng sự trừng phạt của Thiên Chúa cũng chỉ nhẳm tái lập sự công bằng? Chắc chắn là thế nhưng còn hơn thế. Từng bước một, Thiên Chúa giúp Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

3. Đỉnh cao: khám phá lòng thương xót

Absalom là đứa con phản loạn. Anh ta đã giết Amnon (13,23-29) cho dù với lý do xem ra chính đáng là để báo thù cho em gái mình đã bị Amnon làm nhục! Sau đó, dù đã được vua Đavít tha thứ, anh ta vẫn tìm cách tạo vây cánh (15,1-5) và làm loạn chống lại chính vua cha (15,7-12) đến độ vua Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy trốn. Absalom còn làm những hành vi xúc phạm trầm trọng đến cha già (16,20-22).

Dù con cái ngỗ nghịch như thế, vua Đavít vẫn một niềm tha thứ. Đavít đã chấp nhận cho Absalom trở về sau khi anh ta đã giết Ammon(14,1-21). Hơn thế nữa, dù Absalom làm loạn khiến Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy, ông vẫn không muốn giết con. Ơng yêu cầu các tướng sĩ của mình nương tay với Absalom (18,5). Đến khi được tin Absalom tử trận, không những ông không vui mừng mà còn than lan khóc lóc, đòi được chết thay cho con: “Vua Đavít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: Abasalom con ơi, Abasalom con ơi! Phải chi cha chết thay cho con!” (19,1-5).

Đây quả là đỉnh cao của câu chuyện thương tâm và cũng là đỉnh cao của tình phụ tử. Nhưng cũng chính từ kinh nghiệm làm cha như thế, vua Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa là Cha. Trước kia, Đavít có lẽ chỉ thấy được một Thiên Chúa công bằng vì tuy Người tha thứ nhưng vẫn bắt đền tội nặng nề cho xứng với tội nhà vua đã phạm. Thế nhưng kinh nghiệm ông có trước cái chết của Abasalom đã giúp ông khám phá dung mạo đích thực của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Mặc cho ông ngỗ nghịch đến đâu, mặc cho ông tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn một niềm thương xót. Tình thương của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi con người đã phạm.

Và đối với người Kitô hữu, kinh nghiệm này lại chẳng trở thành chân lý sống động nơi thập giá Chúa Giêsu đó sao? Ở đó, Thiên Chúa không chỉ nói, “Con ơi, phải chi Cha chết thay cho con,” nhưng là “Này đây, Cha chấp nhận chết thay cho con.” Bạn có cảm nhận được điều đó khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh?


Tuần 28: Sách Các Vua 1
(chương 1 - 11)
I. TỔNG QUÁT

Sách Các Vua 1 & 2 ghi lại những diễn tiến trong lịch sử Israel từ cuối triều đại Đavít đến biến cố Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, tổng cộng khoảng 410 năm. Có thể trình bày lược đồ tổng quát của sách như sau:

1V chương 1-2 : Những ngày cuối đời của vua Đavít

1V chương 3-10 : Thời cực thịnh của vua Salomon

1V chương 11 : Vua Salomon suy tàn

1V chương 12-13 : Đất nước phân chia

1V chương 14-22 :Vương quốc Giuđa (Nam) và Israel (Bắc)
Sách Các Vua ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng lại trình bày những sự kiện đó từ quan điểm tôn giáo. Bao lâu dân Israel thờ phượng Thiên Chúa của giao ước thì bấy lâu họ sẽ được hưởng an bình thịnh vượng. Trong thực tế, dân Israel đã gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên và chạy theo các ngẫu tượng ngoại giáo, đặc biệt là thần Baal của dân Canaan. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thiết lập các tiên tri để họ kêu gọi dân trở về với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.

II. LỜI CẦU XIN CỦA SALOMON

Salomon được xức dầu tấn phong làm vua vào năm 970 trước Công nguyên. Khi lên ngôi vua, ông đã cầu xin Chúa “ban cho ông một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái” (3,9). Lời cầu xin của ông đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài đã ban cho ông sự minh triết khiến ông nổi tiếng là khôn ngoan và được coi như hình mẫu của sự khôn ngoan trong lịch sử dân Israel.

Lời cầu xin của Salomon đẹp lòng Chúa vì ông không cầu xin cho cá nhân ông nhưng chỉ nhằm phục vụ Dân Chúa. Lời cầu xin đó phát xuất từ tâm hồn khiêm tốn, ý thức rằng sẽ không thể chu toàn trách nhiệm lớn lao được trao phó nếu không có ơn Chúa phù trì. Lời cầu xin đó cũng cho thấy tầm quan trọng của sự lắng nghe, lắng nghe tiếng Chúa và lắng nghe tiếng dân, vì nếu không lắng nghe thì sẽ không nhận ra sự thật và không thể đáp trả những nguyện vọng của Dân Chúa.

Điều đáng tiếc là Salomon đã không trung thành mãi với ý nguyện ban đầu. Oâng đã không còn lắng nghe tiếng Chúa, cũng chẳng nghe tiếng than thở của dân (chương 9), càng ngày càng sa đà vào lối sống của dân ngoại, và vì thế đưa đất nước đến chỗ suy vong.

Lời cầu xin của Salomon có giúp bạn nhìn lại việc cầu nguyện của bạn không? Bạn có ý thức rằng việc quan trọng nhất khi cầu nguyện không phải là nói mà là lắng nghe? Bạn có thái độ lắng nghe tâm tư của người khác hay chỉ muốn người khác lắng nghe nỗi lòng của mình?

III. XÂY DỰNG ĐỀN THỜ

Vua Đavít ước mong xây dựng Đền thờ kính Đức Chúa, nhưng ước nguyện này chỉ được hoàn thành dưới triều Salomon. Vào năm thứ tư triều đại của ông, Salomon đã bắt đầu công trình xây dựng đền thờ, và sau bảy năm, công trình được hoàn thành (chương 6). Sau khi hoàn thành, nhà vua đã cho kiệu Hòm Bia của Đức Chúa vào Đền thờ, và vinh quang Đức Chúa tràn ngập Đền thờ. Trong dịp này, vua Salomon đã thưa lên Chúa những lời thật sâu sắc, “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây?” (8,29).

Quả thật, Thiên Chúa chẳng lệ thuộc vào một ngôi nhà bằng gạch đá. Ngài chỉ hiện diện ở đó vì tình thương đối với Dân Ngài. Khi dân không còn trung tín nữa thì ngay cả sự hiện diện của Đền thờ cũng không cần thiết! Sách Các Vua đã kết thúc với sự kiện bi đát là Đền thờ bị phá huỷ và dân bị đem đi lưu đày. Chính Chúa đã cảnh báo Salomon từ trước, “Nếu ngươi và con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối Ta…. Thì Ta sẽ tiêu diệt Israel khỏi phần đất Ta đã ban cho chúng. Còn Đền thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta, và Israel trở thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu” (9,2).

Những điều này lại chẳng giúp chúng ta suy nghĩ về nhà thờ của ta và về việc thờ phượng ngày nay sao? Những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ của ta có đi đôi với đời sống thờ phượng chân thành và đời sống luân lý tốt đẹp không?
 
Tuần 29:  Sách Các Vua 1
(chương 12-22)

I. CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO

Sau cuộc ly khai về chính trị, Giơroboam làm vua toàn Israel, chỉ còn Giuđa theo nhà Davit (12,20). Giơroboam quyết định đặt 2 bò mộng bằng vàng ở Bethel và Dan nhằm mục đích chính trị là để dân khỏi phải lên Giêrusalem để làm việc thờ phượng, và như thế ông giữ dân ở lại với mình (12,26-33). Như thế, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho ý đồ chính trị.

Đây là điều tái diễn thường xuyên trong lịch sử nhân loại. Hãy thử nhớ lại tôn giáo thờ hoàng đế trong đế quốc Roma. Hãy thử nhớ đến chính sách trong các chế độ độc tài khi người ta tìm cách thần thánh hoá một con người để thay thế Thiên Chúa đích thực, hoặc sử dụng tôn giáo như công cụ cho ý đồ chính trị của mình. Thiên Chúa không còn là Đấng được tôn thờ nhưng chỉ là phương tiện phục vụ những tính toán quyền lực của con người. Đương nhiên Thiên Chúa không thể chấp nhận điều đó (13, 1-5), và Hội Thánh phải luôn luôn cảnh giác trước nguy cơ này.

II. TRUNG THÀNH VỚI LỜI CHÚA

Sách 1V 13,11-32 kể lại một câu chuyện thật khó hiểu. Người của Thiên Chúa đã trung thành với Lời Chúa đến nỗi khước từ lời mời của nhà vua, thế rồi một người khác cũng tự xưng là tiên tri đã đến khuyến dụ và người của Thiên Chúa đã nghe theo. Cũng vì thế mà ông phải chịu hình phạt khủng khiếp là bị sư tử vồ. Tại sao Thiên Chúa lại khó khăn và độc ác như thế? Người ta bị lừa dối chứ đâu phải cố tình làm trái mà bị Thiên Chúa trừng phạt?

Ta có thể nêu lên những câu hỏi tương tự, tuy nhiên bài học cần quan tâm ở đây là sự trung thành tuyệt đối với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh. Bài học này cần thiết cho các tín hữu ngày nay hơn bao giờ. Ngày nay ta đang đối diện với cơn cám dỗ thoả hiệp với thế gian và sự thoả hiệp này được biện minh bằng những lý do hết sức tốt đẹp. Chẳng hạn, tại sao Giáo Hội không cho phép ly dị, bắt người ta phải sống trong cảnh đau khổ mãi? Tại sao Giáo Hội không cho phép sử dụng những phương tiện ngừa thai để hạn chế sinh sản và bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại? Tại sao Giáo Hội lại loại trừ những người đồng tính luyến ái, không biết cảm thông với họ? ...

Cũng ở đây, ta mới hiểu tại sao Giáo Hội Công giáo cương quyết trong nhiều lập trường về đức tin và luân lý, là vì Giáo Hội muốn trung thành với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, và xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới đem lại sự sống đích thực và vĩnh cửu cho con người.

III. TẬP TRUNG VÀO TIÊN TRI ELIA

1. Một vài ghi nhận về Elia

Tên gọi của tiên tri Elia có nghĩa: Giavê là Thiên Chúa của tôi. Ta không có đầy đủ những sử liệu về việc sinh hạ và thiếu thời của tiên tri. Tuy nhiên, ta biết chắc rằng tiên tri Elia đã hoạt động dưới thời các vua Ahab, Ahaziah, và Jehoram (873-843 BC). Các vua thời đó thờ phượng Thiên Chúa nhưng cũng chạy theo các thần ngoại (Baal và Ashera) để cầu mưa nhằm làm tươi tốt đất đai. Nhiều tiên tri và tư tế khác cũng chạy theo, nhưng Elia cương quyết đòi hỏi một niềm tin trọn vẹn và tinh tuyền vào Giavê. Hoàng hậu Jezabel là người Phoenician, cũng là người đỡ đầu cho những việc thờ cúng ngoại giáo này, và tiên tri Elia đã gặp nhiều khó khăn với bà hoàng hậu này.

2. Lòng nhiệt thành của Elia

Sách Các Vua kể lại việc tế lễ trên núi Carmel (18, 20-40). Với con người ngày nay, có nhiều chi tiết trong câu chuyện này khó được chấp nhận, ví dụ tiên tri Elia thách đấu với các tư tế Baal, cuối cùng đã ra lệnh bắt và giết họ... Thiết nghĩ cần vượt lên trên những chi tiết trên để nắm bắt ý nghĩa chính của câu chuyện. Dân Chúa lúc đó là những kẻ hai lòng, đi khập khiễng (18,20-21), và tiên tri Elia đã làm mọi cách để lôi kéo mọi người về với niềm tin đích thực là niềm tin vào Thiên Chúa của giao ước. Tất cả làm nổi bật lòng nhiệt thành của vị tiên tri đối với công việc của Chúa (19,4).

Lòng nhiệt thành của tiên tri Elia chất vấn đức tin và lương tâm Kitô giáo của mỗi chúng ta. Tình trạng mà Elia gọi là khập khiễng, hai lòng, nghĩa là không toàn tâm toàn ý với Chúa, không phải là không có trong đời sống đức tin của ta. Ta cũng không dám chiến đấu cho chính nghĩa của Chúa như Elia đã chiến đấu, chủ yếu là vì sợ hãi, sợ mất quyền lợi, địa vị hay một thứ gì khác ... trong khi điều đáng sợ nhất là đánh mất chính Chúa thì lại không sợ!

3. Nỗi chán nản của vị tiên tri

Vì nhiệt thành với công việc Nhà Chúa, tiên tri Elia phải đối diện với mối đe doạ đến từ chính bà hoàng Jezabel, và phải chạy trốn (19, 1-3). Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa, “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19,4). Nỗi chán nản của Elia khiến ta nhớ đến tâm trạng của thánh Gioan Tẩy giả trong ngục thất (x. Lc 7,18-23) và của chính Chúa Giêsu trong Vườn Ghetsemani.

Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cũng có những giây phút mệt mỏi, chán nản, đôi khi ngã lòng và sinh ra nghi nan vì thấy mình phải chịu nhiều thiệt thòi trên đường theo Chúa, và dường như Chúa không hành động gì cả. Trong những giây phút đó, hãy nhớ đến Elia, Gioan Tẩy giả và chính Chúa Giêsu để gặp được ở đó những người bạn đồng hành.

4. Chúa luôn đồng hành với tôi tớ Ngài

Chúa vẫn luôn đồng hành với Elia. Khi vị tiên tri mỏi mệt và chán nản, có thiên sứ đem bánh và nước đến cho ông (19, 5-8) để ông có sức đi tiếp hành trình đến núi của Thiên Chúa. Ở đó vị tiên tri đã gặp gỡ Chúa không phải trong cơn động đất kinh hoàng hay lửa cháy bừng bừng nhưng trong tiếng gió hiu hiu (19,12).

Cũng thế, Chúa không bao giờ bỏ rơi ta trong hành trình đức tin. Người luôn đồng hành với ta và ban sức mạnh cho ta. Bánh Thánh Thể chính là lương thực thần linh cho lữ khách trên đường hành hương, là nguồn sức mạnh cho người chiến sĩ trong cuộc chiến của đức tin. Hình ảnh Elia gặp gỡ Chúa trong tiếng gió hiu hiu cũng là lời mời gọi ta biết trở về trong tĩnh lặng; ở đó ta có thể gặp gỡ Chúa và lắng nghe tiếng gọi thầm kín của Người.

ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét