Thánh Charles de Foucauld 1858-1916-
Phó tế Phạm Bá Nha
Thánh Charles de Foucauld 1858-1916
Từ nhiều năm, người ta mong đợi Giáo Hội phong thánh cho Cha Charles de Foucauld. Tin vui đã đến. Ngày 13.11. 2005, Cha được phong Chân Phước, và 5 2022, Giáo Hội tôn vinh Ngài lên Hiển Thánh một vị ẩn tu thánh thiện, chết như vị tử đạo, có tinh thần truyền giáo mạnh mẽ, rao giảng Tin Mừng bằng đời sống khó nghèo. Bước theo Thánh mới của Giáo Hội, các anh chị dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội đang lăn xả để tuyên chứng đức tin giữa mọi tầng lớp dân nghèo. Đúng như tôn chỉ của Dòng: Chúa Kitô Là Tình Yêu (Jésus est Caritas).
I. Người thiếu niên nơi quê ngoại. (1858-1876)
II. Mất đức tin, nhập ngũ xây dựng sự nghiệp (1876-1881)
Từ 1874-1876, về Paris, Charles vào học nội trú trường các cha Dòng Tên. Tháng 8.1875, Charles đậu Tú tài phần hai, xuất sắc điểm sử địa, và rất rành rẽ về Algérie. Theo thời khóa biểu của trường, phải dậy từ 4g30, xem lễ, ca hát, đọc kinh, kỷ luật khắt khe, ăn uống sơ xài, không được ra ngoài. Trong trường, người học trò này khép kín và nhạy cảm bắt đầu trống vắng, và để lấp đầy, cậu bắt đầu làm quen với sách vở nhảm nhí. Hậu quả là vào năm thứ nhất triết học, đức tin anh bị lung lay. Rồi dần dần xa Chúa, đến mất luôn đức tin. Anh xác nhận: ‘‘Con cứ xa Chúa và càng ngày càng xa. Sự sống của con bắt đầu trở nên sự chết. Trong 12 năm tôi sống trong trình trạng đó. Không chối mà không tin Chúa. Vì Ngài không có bằng chứng nào rõ rệt đối với con’’.
Từ đây người thiếu niên trẻ tuổi bị khủng hoảng tinh thần làm anh mất đức tin, nên lao mình vào cuộc ăn chơi trác táng. Không còn lối nào khác, ngày 30.10.1876, Charles thi đậu nhập trường sỹ quan Saint Cyr, mới 18 tuổi. Đối với Anh là quá may, xếp hạng 82 / 112 sinh viên được chọn. Năm 20 tuổi, đang học năm thứ hai trường sỹ quan Saint Cyr, thì ông ngoại qua đời (1878). Anh càng chới với. Biến cố này ảnh hưởng rất mạnh người cháu tài ba.
III. Mạo hiểm ở Algérie và Maroc (1882-1885)
Năm 22 tuổi, năm 1876, Charles tốt nghiệp sỹ quan Saint Cyr, với cấp bậc thiếu úy, và được gửi đi làm việc tại Saumur, Algérie, năm 1882. Năm 1883, Anh mạo hiểm phiêu lưu qua Maroc. Anh muốn chinh phục Maroc, nhưng anh đã bị Maroc chinh phục. Tại Maroc, anh nhờ người hướng dẫn là Mardochée Abi Serour, sinh viên nghèo. (Charles de Foucauld, JJ Antier. tr. 58-81). Ở đây, qua chứng từ những người Hồi Giáo, Anh thức tỉnh và tự hỏi: "Thiên Chúa có thực hiện hữu hay không? Anh viết: Nhìn nơi họ một đức tin sống động cùng sự liên lỷ kết hợp với Chúa, tôi cảm thấy một cái gì cao cả chân thật hơn các bận tâm trần thế. Hồi Giáo đã đánh động mạnh, sâu xa nơi tôi. Cử chỉ thờ Chúa đó tiếp tục thâm nhập sâu xa hơn nơi Anh, làm cho Anh hăng hái tìm kiếm vị Thiên Chúa tối cao của họ: Tôi tự ép mình học hỏi về đạo đó cùng Thánh Kinh. Nhờ ơn Chúa đánh động, đức tin trong thời thơ ấu được củng cố và canh tân dần dần lại nơi tôi. Ngoài ra, Anh còn thán phục tinh thần huynh đệ của họ. Do đó, Anh muốn trở nên một người anh em của họ. (GXVN. 28. 11.1986, tr. 9)
IV. Trở lại Paris, người con nay trở về (1886-1888).
Sau khi phiêu bạt giang hồ, năm 1886, trở lại Paris, gia đình không hất hủi, lại đón tiếp Anh rất tử tế và thân mật. Anh có dịp tiếp xúc với nhiều người, thông minh, đạo đức và sống sâu xa tinh thần Kitô giáo. Anh tự hỏi: ‘‘có lẽ đạo này không phi lý như mình nghĩ’’. Có gì thúc đẩy, anh hay đến các nhà thờ. Mặc dầu chưa tin gì, nhưng tại đây anh cảm thấy thoải mái. Từng giờ trong nhà thờ, anh thường nhắc lại lời cầu nguyện: ‘‘Lạy Chúa, nếu Chúa có thật, xin cho con biết Chúa’’. Một ý kiến nảy sinh. Phải tìm hiểu biết về tôn giáo này. Giờ đây cần tìm đến linh mục, xin chỉ dẫn. Sáng 29.10.1886, Charles đến nhà thờ St Augustin, Paris tìm gặp linh mục Henri Huvelin (1838-1910), Giáo sư Cao Đẳng Sư Phạm. Cha đang ngồi tòa giải tội. Sau đối dáp, vị linh mục âu yếm nhìn người thanh niên trụy lạc và nói: Này anh, anh lầm rồi. Còn một trở ngại làm anh không tin, là tâm hồn phải trong sạch. Thôi, hãy quì xuống và khiêm nhượng thú nhận tội lỗi trước mặt Chúa, rồi anh sẽ tin. Chàng thanh niên xua tay phản đối. Do dự, một lúc sau, và cuối cùng anh quì gối, xưng tội và ăn năn sám hối. Ngay sau đó, cha giải tội đã cho anh rước Mình Thánh Chúa luôn. Người thanh niên Charles đã tin và trở nên người thánh thiện. Ngày nay, tại nhà thờ St Augustin, quận 5, bên trái, người ta còn để hình ảnh kỷ niệm nơi chính Charles xưng tội và được ơn hoán cải. Từ đây, Anh được linh mục Huvelin tận tình nâng đỡ và hướng dẫn. Anh Charles de Foucauld đã đổi mới hoàn toàn cuộc đời và sống cho bác ái.
V. Cuộc sống ẩn tu, truyền giáo trong sa mạc (1888-1916)
Ngày 7.10.1900, Anh đến Dom Martin, vào Notre-Dame-des-Neiges cấm phòng và chuẩn bị nhận các chức thánh. Ngày 23.3.1901, Anh nhận chức Phó tế và thụ phong linh mục, tại giáo phận Viviers, ngày 09.06.1901, tai Dòng Lazariste. (SSđ. tr. 157-163). Giống như Chúa Giêsu, Cha Charles có những năm ẩn tu và những năm công khai truyền giáo và kết thúc bằng hy sinh mạng sống. Sau khi lãnh chức Linh mục, Cha Charles khời sự truyền giáo, đầy gian lao và nguy hiểm: Đầu tiên là ở Benis Abbès (1900-1902). Làm quen và thực sự sống giữa sa mạc Sahara (1903-1904). Đến Tamanrasset nguy hiểm hơn (1905). Xây tịch liêu ở Touareg, chiêu mộ tu sinh (1905-1908). Thân một mình (1908-1909). Cô đơn ở Asekrem (1911-1924). Bị hăm dọa từ miền Đông (1915-1916)
Ngày 10.9.1901, Cha xin qua sống trong sa mạc miền khô cằn Bénis-Abbès, tại Algérie. Đến Alger Cha tạm trú tại nhà các Cha Dòng Áo Trắng ít lâu. Với tư cách là cựu sỹ quan, Cha nhờ một số sỹ quan Pháp giúp đỡ, Cha xây dựng cơ sở đầu tiên, với diện tích đất 9 mẫu. Đời sống trong sa mạc, được Cha viết lại cho một đan sỹ: Phải bước vào sa mạc và dừng lại để lãnh nhận ơn thánh. Tại đây chúng ta có thể loại bỏ tất cả những gì không thuộc về Ngài. Tâm hồn chúng ta cần có bầu khí thinh lặng và tĩnh mịch, cần quên đi tạo vật để Thiên Chúa có thể thiết lập vương quốc Ngài, và vun trồng nơi chúng ta đời sống nội tâm thân mật với Ngài. Tâm hồn chúng ta có thể đàm đạo chuyện vãn với Ngài trong đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Nội tâm chúng ta càng được thao luyện bao nhiêu, sau này càng mang lại hoa trái bấy nhiêu. (Chúa là Tình Yêu. tr.41).
Ngày 27.5.1903, qua trung gian của hai cha Dòng Áo Trắng khám phá ra khu mới đông người ở. Ngã ba giữa Algérie, Maroc và Sahara. Cha Charles đến làm quen rồi sinh sống với họ. Đây là nơi quân đội Pháp thường qua lại. Họ sống có qui củ thành làng và chỉ biết có trời, không biết gì về Thiên Chúa.
Sau đó, ngày 11.8.1905, Cha chuyển qua sa mạc Tamanrasset. Bắt đầu từ miền hoang vu nóng bỏng cát trắng. Cha may mắn gặp bạn cũ học ở Saint-Cyr là tướng Lyautey, người đạo đức rất tốt. Cha bắt đầu bị bệnh, mệt mỏi và cô đơn. Cha bị người ta gán ghép cho là ‘‘thầy phù thủy’’ và tìm cách hãm hại. Đã có lần Cha bị thương dọc đường. Ông đề nghị cho lính hộ tống Cha đi đó đây. Nhưng Cha từ chối, thích đi một mình. Tại đây, thiếu tá Laperrine đã giúp Cha dựng nhà tường đất, mái lá. Đặc biệt Cha có Paul Embarek, giáo lý viên đắc lực và tận tâm giúp phụng vụ. Anh là người nô lệ đen, đã được Cha chuộc từ Soudan về. Ngoài ra, Cha cũng gặp bác sỹ Béraud, chăm sóc sức khỏe. Riêng ĐC Guérin Giám Mục Sahara, người đã nâng đỡ tinh thần và khuyên nhủ Cha Charles trong lúc cô đơn. (Charles de Foucauld. JJ Aantier, tr. 206-227)
Những ngày tại sa mạc, Cha say mê tìm đến với những người du mục sống trong hoang địa, làm quen, học tiếng của họ. Cha đã dịch Phúc m ra tiếng? Rập. Ban ngày cha giúp đỡ họ những công việc cần và chiều tối một mình về nhà suy gẫm. Cha không thuyết phục họ theo Đạo, nhưng cố nêu cao đời sống tông đồ bác ái. Chính nơi đây, lòng nhiệt thành của Cha Chúa đã đón nhận như của lễ hy sinh.
VI. Như của lễ hy sinh vào cuối đời
Ngày 1.12.1916, khi trời vừa tối, khoảng 40 người đến vây quanh khu Tamarasset, sa mạc Sahara, nơi Cha Charles de Foucauld mới đến cư ngụ được 5 tháng. Họ là những người Touareges ở Ajjer, nổi lên chống lại người Pháp. Họ có nhiệm vụ bắt cóc ‘‘thầy bùa ngải’’ mà họ nhắm và gán ghép vào Cha Charles, đã sinh sống ở vùng này hơn 10 năm. Họ nghĩ rằng phải giết hoặc bắt làm con tin người u Châu này, vì Cha có ảnh hưởng nhiều đến các thủ lãnh bản xứ. Đó là ý định của nhóm nhỏ thuộc nhóm ‘‘thánh chiến’’ của Hội tôn giáo của Senoussiya ở Fezzan, miền Lybie.
Những người Touareges bất bạo động, đã dùng khoảng 30 khẩu súng, của quân đội Pháp để lại cho dân làng, có nhiệm vụ tự vệ. Nhóm Touareges bắt ép đem theo vợ chồng Paul Embarek, đã quen lối sinh sống của Cha làm chỉ điểm, đến gõ cửa nhà Cha.
Hôm ấy, cha Charles một mình sống trong tịch liêu. Như thường lệ, anh Lazaoui ben Amdour, người thường dân Ả Rập phát thơ, từ chiều hôm trước, đến trao cho Cha 8 lá thơ, rồi nhận thơ mới của Cha đi gửi. Các thơ Cha nhận có: ba thơ của chị họ Marie, một của anh rể Raymond de Blic, hai của Laperrine, hai của Masssignon và một của Saint-Léger. Ngay sáng đó, Cha đã trả lời đầy đủ cho từng người (thơ chưa gửi đi). Đang khi Cha Charles đợi người đem thơ về, thường vào chiều.
Ba người đến trước cửa tịch liêu, đứng sẵn ngoài cửa là: El Madani, Mohammed agg Akda d’Iherir và Elghlem agg Afekou ở Ayt Loayen. El Madani gõ cửa. Cha ra mở và khi Cha mới thò một tay ra ngoài cửa. Lập tức Madani nắm, kéo tay Cha. Cha rị lại. Lập tức, hai người kia xông vào và kéo Cha ra ngoài. Họ trói hai tay Cha lại phía sau lưng, bắt qùi xuống và chất vấn. Cha vẫn thinh lặng. Rồi họ để Cha cho cậu bé Sermi ag Tora, 15 tuổi canh giữ Cha. Còn họ vào trong lục soát đồ đạc...
Bỗng có báo động hô lên. Những người A Rập cỡi lạc đà ào ào tới. Thế là có tiếng súng nổ vang lên. Không biết họ có bao nhiêu? Cha có cựa quạy để cởi trói không? Vì sợ Cha trốn chạy, cậu Sermi chỉ để miệng súng vào dưới tai trái của Cha, như để hăm dọa. Trong lúc hốt hoảng súng nổ, viên đạn đâm thâu mắt trái của Cha và đầu đạn cắm vào tường. Cha nằm sóng sượt trên mặt đất. Máu chảy lai láng, Cha chết không kịp nói. Cậu Sermi cùng đồng bọn bỏ chạy. Sau chốc lát vụ nổ súng của nhóm Touareges, nhóm lính? Rập bạn Cha mới tới. Sáng hôm sau, người ta thấy người mang thơ cũng bị giết. Thi hài Cha được chôn cất vội vàng sơ sài trong một rãnh bờ cát gần nhà. Từ 1929, ngôi mộ của Cha đặt ở El Goléa, giữa đồng cát trống. (Frère Charles de Foucauld, tr.38).
Cha Charles de Foucauld qua đời giữa cuộc thế chiến và đầy bạo loạn. Cha bị sát hại tại Hoggar, miền nóng bỏng của sa mạc Tamanrasset. Như một vị tử đạo. (Fêtes et Saisons. No. 386, Juin Juillet. 1984, tr. 4; La Mort de Charles de Fioucauld, tr. 102-104, 137-142, 172-181). Ba tuần sau khi Cha qua đời, người ta tìm thấy Chén và Mình Thánh Chúa chôn vùi dưới cát nơi Cha bị giết. (GXVN, số 28. 11-1986. tr. 8).(La Mort de Charles de Foucauld, tr. 160. Chúa là Tình Yêu. tr. 73). 15 năm trước khi từ trần, Cha đã viết: Hãy sống ngày hôm nay như tôi phải tử đạo chiều nay (Vivre aujourd’hui comme si je devais mourir ce soir. Martyr.).
Phép lạ nhờ lời cầu bầu của thánh nhân
Trưa 4.3.2003, ĐHY Dionigi Tettamanzu, TGM Milan, bắc Ý đã chủ sự nghi thức kết thúc tiến trình điều tra cấp giáo phận về một phép lạ nhờ lời cầu bầu của cha Charles de Foucauld. Tham dự có bà Giovanna, 46 tuổi, sinh quán tại Desio, gần Milan, bà bị ung thư xương và vú, được khỏi một cách kỳ lạ, năm 1984. (TTĐM. Số 304, 4-2003. tr.53). Ngày 20.12.2004, ĐHY Von Galen, công bố công nhận phép lạ trên và loan báo sẽ phong chân phước cho Cha Charles de Foucauld vào trong năm 2005.
VII. Thành lập Dòng của Cha Charrles de Foucauld
Sau cái chết của Cha Charles de Foucauld (1916), tưởng là những hy sinh cao cả và cuộc đời đạo đức thánh thiện của Ngài sẽ đi vào quên lãng. Nhưng Ngài như hạt giống đã chôn vùi chờ ngày trổ sinh hoa trái. Quả thật, Cha Charles de Foucauld là người cha của các dòng Tiểu Muội cho Nữ và Tiểu Đệ cho Nam, một dòng hoạt động và phát triển mạnh trên thế giới. Năm 1933, Ngành Nam do Cha René Voillaume thành lập. Còn ngành Nữ do Chị Magdeleine lập năm 1939. Toàn thế giới có 1.324 Tiểu Muội và 1.286 Tiểu Đệ.
Người khởi sự và lập Dòng
Cha Charles de Foucauld muốn thiết lập Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, nhưng không ai chịu theo. Mãi đến năm 1933, sau 17 năm Cha qua đời mới có người khởi sự đứng ra lập Dòng cho Nam, và năm 1939 Dòng cho Nữ:
A. Ngành Nam, Tiểu Đệ, do Cha René Voillaume, người Pháp, lập năm 1933. Cùng với 5 linh mục thuộc giáo phận Paris, các Cha lập một nhà đầu tiên ở El Abiod sidi Cheikh, Algérie. Dòng có hai loại: linh mục và tu sỹ
Ban đầu, mới có nhóm nhỏ gồm linh mục, tu sy và giáo dân tu họp trao đổi tư tưởng của Cha Charles de Foucauld, như tưởng niệm. Năm 1917, nhóm này do sinh viên Louis Masaignon đứng đầu, hoạt động như ‘‘hiệp hội’’, được phép của Tòa Thánh. Trong đó có đại chủng sinh chủng viện Issy les Moulineaux là René Voillaume, sau làm linh mục. Được phép của bề trên, René đem chia sẻ và phổ biến cho các bạn khác trong chủng viện.
Châm ngôn và mục đích: Bắt chước và sống như Chúa Giêsu ở Nazareth
Chúa Giêsu sống ẩn dật tại Nazareth 30 năm. Một cuộc đời bình thường của mọi người, của người nghèo lẫn thợ thuyền. Đây là con đường vạch ra cho những ai muốn hiến dâng cho Thiên Chúa. Con đường dẫn đến Chúa Cha, đến Ơn Cứu Độ. Khi sống như người thợ ở Nazareth, một người nghèo giữa người nghèo, Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc cứu rỗi của mình. Những gì Ngài giảng dạy trong 3 năm, thì Ngài sống, thực hiện trong 30 năm.
Đời sống của anh em Tiểu Đệ
Như Chúa Giêsu Nazareth, Anh Charles và các Tiểu Đệ được kêu gọi sống đời bình thường cho Thiên Chúa và cho hết mọi người, nhưng thiện cảm với những người bị bỏ rơi trong xã hội. Anh em đến với họ không để giảng dạy, nhưng để sống giữa họ, và chia sẻ thân phận với họ. Trở nên người anh em dịu hiền. Tự kiếm kế sinh nhai bên cạnh người lao động.
Anh em Tiểu Đệ sống thành cộng đoàn nhỏ là nhà Huynh Đệ. Một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ như những nhà khác, trong hoàn cảnh đa dạng: với những người nông dân, thợ thuyền, bệnh tật, già yếu, hay bị bỏ rơi.
Quan trọng hơn, đời sống thiêng liêng của Tiểu Đệ phải sống chiêm niệm giữa đời và gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể. (GHCGVN. Niên Giám 2004. ttr. 328-329). Nhà chính Tiểu Đệ ở Pháp: Congrégation des Petits Frères de Jésus, 22 rue Tapis Vert. Marseille. France (VNCG. Niên Giám 1964, tr.433).
B. Ngành Nữ, Tiểu Muội, do cô Elisabeth Hutin, người Pháp, sau làm bề trên tổng quyền mãn đời gọi là Magdeleine de Jésus (1898-1989), thành lập năm 1939.
Tinh thần và lịch sử, công trình lập Dòng chị Magdeleine viết: Chúa đã nắm tay tôi và tôi nhắm mắt bước đi theo Ngài...Trong cảnh bề ngoài hoàn toàn u tối và tất cả mọi phương tiện nhân sự đều vắng bóng. Nhưng với lòng tin cậy vô bờ bến vào sức toàn năng của Chúa Giêsu. Chính Ngài là Thầy những gì mà sức người không làm nổi..
Chúa đã chọn Chị và trao phó công việc: Ngài đã chuẩn bị tôi từ thời thơ ấu, và đã kêu gọi tôi theo Ngài, chắc chắn ngay khi tôi bước vào tuổi có trí khôn. Ngài đã gieo vào lòng tôi yêu mến Châu Phi, đồng thời cũng làm tôi yêu chuộng những người bé nhỏ nhất, nghèo nàn nhất và bị bỏ rơi nhất.
Chị Magdeleine đã lập Huynh Đoàn các Tiểu Muội Chúa Giêsu, ngày 8.9.1939, tại Touggourt, sa mạc Sahara, bên Algérie. Sau hai năm lập dòng, Chị kể lại cảm nghĩ ban đầu: Chúa theo đuổi tôi với câu nói này: ngài đã gửi họ đi từng hai người một đến các phố làng mạc’’. Câu nói ấy là kỷ niệm tản mát của các Tông Đồ. Tôi thấy các Tiểu Muội ở khắp nơi cùng lúc, gieo rắc tình thương như một tia sáng thật nhỏ. Mặc dầu các chị đầy khuyết điểm, hèn kém. Tôi thấy chính mình đang làm lan rộng ngọn lửa Chúa ủy thác. Tôi chẳng có gì đẹp hoặc tốt, mà chỉ có ngọn đuốc đang cháy. Tôi phải mang nó đi khắp nơi. Nó sẽ khêu dậy và bừng sáng khi tỏa lan và truyền được sức sống.
Điểm nổi bật nơi con người Magdeleine là chất chứa tình yêu Chúa Kitiô nóng bỏng. Tinh yêu này thúc đẩy Chị không ngừng đi đến với những người nghèo khổ nhất, những người bị bỏ rơi ở khắp nơi. Qua họ, từ tình bạn, trao truyền tình yêu thương dịu hiền của Thiên Chúa (Sđd. tr 5). Nhà chính của Tiểu Muội ở Ý: via di Aque Salvie 2, Tre Fontaine. 00142. Roma. Italia.
VIII. 150 năm sau, như hạt giống cần mục nát
Cha Charles de Foucauld như cây chính có hai nhánh là Cha René Voillaume và Chị Magdeleine. Từ gốc chính này, đã sinh hoa quả rờm rà tỏa bóng mát khắp nơi.
Gia đình thiêng liêng của Cha Charles de Foucauld có 11 Dòng: 6 nữ và 5 nam (Congrégitions) và 10 hiệp hội (Associations) và 18 gia đình (Familles). Tờ báo chung là Jesus Caritas, phát hành 3 tháng một lần.
Các nhà Dòng của Cha Charles có mặt ở khắp nơi, như: Hong Kong, Iraq, Syrie, Afrique, Ukraine, BaLan, Áo, Mỹ Châu La Tinh, Pakistan, Ấn Độ, Egypte, Maroc, Thụy Sỹ. Ý, Pháp: Aix en Provence, Marseille, Bagnolet, Rennes, Việt Nam
Hiện có nhiều người trẻ Vìệt Nam, cả nam lẫn nữ đang tu và hoạt động trong Dòng này, ở ngay Việt Nam và ngoại quốc. Tại hải ngoại có 10 chị đang hoạt động tại Ý, Pháp, Úc, Giêrusalem.
Tại Việt Nam có cả Tiểu Đệ và Tiểu Muội.
Ồ Dòng Tiểu Muội có mặt tại Việt Nam từ 1953,.
Châm ngôn: Giêsu Tình Yêu. Đặc sủng: Chiêm niệm giữa đời theo tinh thần con trẻ của Tin Mừng. Hoạt động: sống đời thường như Chúa Giêsu Nazareth. Bổn mạng lễ Giáng Sinh 12-12. Địa chỉ liên lạc: 25/ 4 Phan Văn Hân, Q. Bình Thạnh. TP Hồ Chí Minh. Bề trên là Matta Emmanuelle Nguyễn thi Nguyệt Ánh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 374)
Ồ Dòng Tiểu Đệ có mặt tại VN từ 1954, nhà đầu tiên ở Bàn Cờ, Sài gòn. Hiến pháp được Tòa Thánh phê chuẩn năm 1968. Châm ngôn và mục đích: Bắt chước Chúa Giêsu Nazareth. Bổn Mạng là lễ Giáng Sinh, 25-12. Hoạt động: Kiếm kế sinh nhai bằng lao động, đến và chia sẻ với những người nghèo. Địa chỉ liên lạc: 243/48 Tôn Thất Thuyết, Q 4, TP Hồ Chí Minh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 328). Việt Nam có ĐTGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, nhập Dòng năm 1955.
Các chứng từ để kết luận
Xin chọn lời của hai Đức Giáo Hoàng nói về Cha Charles de Foucauld:
Thánh GH Phaolô VI đã viết trong thông điệp Populorum progressio (26-3-1967): Cha Charles de Foucauld là vị truyền giáo bằng bác ái, là gương mẫu anh em sống đại đồng, luôn hướng dẫn mặt tu đức. Thánh GH Gioan Phaolô II đã 5 lần (1980, 1983, 1984, 1991 và 1994) nói về con người và tinh thần của Cha Charles: Nhờ Cha Chrales mà có đối thoại với người thổ dân du mục để dễ rao giảng Tin Mừng. Cha Charles xứng đáng là vị truyền giáo lớn như François d’Assisie, như Matteo Ricci. Trong thế kỷ chúng ta, có nhiều người biết đến đạo Chúa là nhờ Cha Charles, nêu gương đơn nghèo, kết hợp với Thiên Chúa, sống bác ái, huynh đệ, và yêu thương (4-1984). (Sđd. tr. 306)
Ngày nay, biết bao nhiêu người trẻ, tại nhiều nơi trên thế giới, không biết mệt mỏi theo gương Thánh Charles de Foucauld, làm tròn bổn phận với Chúa, với Giáo Hội và giữ đúng tinh thần trách nhiệm liên đới với anh em chung quanh.
Những dòng trên chưa khám phá được hết những hoạt động của người chứng nhân đạo Bác Ái, đạo Yêu Thương Thiên Chúa. Sống tinh thần Phục Sinh là cần phải canh tân và hòa giải. Thiết nghĩ không gì bằng đến với Chúa nhân từ trong tòa giải tội.? đây, Ngài sẽ rửa sạch tâm hồn và khoác lại cho chúng ta chiếc áo trắng ngày Phục Sinh. Chiếc áo này sẽ là bằng chứng tình yêu không hề phai giữa chúng ta với Ngài và sự liên kết bền chặt với anh em. Õ
Phạm Bá Nha
Tài liệu tham khảo
Jean-jacques Antier: Charles de Foucauld, Ferrin, Paris 2004
Từ nhiều năm, người ta mong đợi Giáo Hội phong thánh cho Cha Charles de Foucauld. Tin vui đã đến. Ngày 13.11. 2005, Cha được phong Chân Phước, và 5 2022, Giáo Hội tôn vinh Ngài lên Hiển Thánh một vị ẩn tu thánh thiện, chết như vị tử đạo, có tinh thần truyền giáo mạnh mẽ, rao giảng Tin Mừng bằng đời sống khó nghèo. Bước theo Thánh mới của Giáo Hội, các anh chị dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội đang lăn xả để tuyên chứng đức tin giữa mọi tầng lớp dân nghèo. Đúng như tôn chỉ của Dòng: Chúa Kitô Là Tình Yêu (Jésus est Caritas).
I. Người thiếu niên nơi quê ngoại. (1858-1876)
Charles de Foucauld sinh ngày 15.9.1858, tại Strasbourg, Pháp. Thân phụ là Édouard de Foucauld làm kiểm lâm. Thân mẫu là Élisabeth Beaudet de Morlet, nội trợ. Trong cùng một năm 1864, ông bà thân sinh của Charles đều qua đời. Anh em Charles và Marie mồ côi cha mẹ. Người cô và ông ngoại nhận hai cháu nuôi chăm sóc, ở Saverne. Những ngày vui bên nhà bà cô, để lại ấn tượng tốt về đời sống gia đinh Công Giáo đạo hạnh và kiểu mẫu. Năm 1869, ông ngoại về hưu, nên gia đình di chuyển, sinh sống ở Nancy, Alsace. Ngày 18.4.1872, Charles được xưng tội, rước lễ lần đầu, và chịu phép Thêm Sức, ở Nancy. Charles đi học trường tiểu học Công Giáo Saint-Arbogast và học tiếp lên trung học Strasbourg. Ở trường cậu là học sinh lanh lợi, thông minh, ngoan, nhưng sức khỏe yếu nên đôi khi vắng mặt. Ngày 12.8.1874, Charles đậu Tú tài phần nhất, hạng bình thứ (assez bien).
II. Mất đức tin, nhập ngũ xây dựng sự nghiệp (1876-1881)
Từ 1874-1876, về Paris, Charles vào học nội trú trường các cha Dòng Tên. Tháng 8.1875, Charles đậu Tú tài phần hai, xuất sắc điểm sử địa, và rất rành rẽ về Algérie. Theo thời khóa biểu của trường, phải dậy từ 4g30, xem lễ, ca hát, đọc kinh, kỷ luật khắt khe, ăn uống sơ xài, không được ra ngoài. Trong trường, người học trò này khép kín và nhạy cảm bắt đầu trống vắng, và để lấp đầy, cậu bắt đầu làm quen với sách vở nhảm nhí. Hậu quả là vào năm thứ nhất triết học, đức tin anh bị lung lay. Rồi dần dần xa Chúa, đến mất luôn đức tin. Anh xác nhận: ‘‘Con cứ xa Chúa và càng ngày càng xa. Sự sống của con bắt đầu trở nên sự chết. Trong 12 năm tôi sống trong trình trạng đó. Không chối mà không tin Chúa. Vì Ngài không có bằng chứng nào rõ rệt đối với con’’.
Từ đây người thiếu niên trẻ tuổi bị khủng hoảng tinh thần làm anh mất đức tin, nên lao mình vào cuộc ăn chơi trác táng. Không còn lối nào khác, ngày 30.10.1876, Charles thi đậu nhập trường sỹ quan Saint Cyr, mới 18 tuổi. Đối với Anh là quá may, xếp hạng 82 / 112 sinh viên được chọn. Năm 20 tuổi, đang học năm thứ hai trường sỹ quan Saint Cyr, thì ông ngoại qua đời (1878). Anh càng chới với. Biến cố này ảnh hưởng rất mạnh người cháu tài ba.
III. Mạo hiểm ở Algérie và Maroc (1882-1885)
Năm 22 tuổi, năm 1876, Charles tốt nghiệp sỹ quan Saint Cyr, với cấp bậc thiếu úy, và được gửi đi làm việc tại Saumur, Algérie, năm 1882. Năm 1883, Anh mạo hiểm phiêu lưu qua Maroc. Anh muốn chinh phục Maroc, nhưng anh đã bị Maroc chinh phục. Tại Maroc, anh nhờ người hướng dẫn là Mardochée Abi Serour, sinh viên nghèo. (Charles de Foucauld, JJ Antier. tr. 58-81). Ở đây, qua chứng từ những người Hồi Giáo, Anh thức tỉnh và tự hỏi: "Thiên Chúa có thực hiện hữu hay không? Anh viết: Nhìn nơi họ một đức tin sống động cùng sự liên lỷ kết hợp với Chúa, tôi cảm thấy một cái gì cao cả chân thật hơn các bận tâm trần thế. Hồi Giáo đã đánh động mạnh, sâu xa nơi tôi. Cử chỉ thờ Chúa đó tiếp tục thâm nhập sâu xa hơn nơi Anh, làm cho Anh hăng hái tìm kiếm vị Thiên Chúa tối cao của họ: Tôi tự ép mình học hỏi về đạo đó cùng Thánh Kinh. Nhờ ơn Chúa đánh động, đức tin trong thời thơ ấu được củng cố và canh tân dần dần lại nơi tôi. Ngoài ra, Anh còn thán phục tinh thần huynh đệ của họ. Do đó, Anh muốn trở nên một người anh em của họ. (GXVN. 28. 11.1986, tr. 9)
IV. Trở lại Paris, người con nay trở về (1886-1888).
Sau khi phiêu bạt giang hồ, năm 1886, trở lại Paris, gia đình không hất hủi, lại đón tiếp Anh rất tử tế và thân mật. Anh có dịp tiếp xúc với nhiều người, thông minh, đạo đức và sống sâu xa tinh thần Kitô giáo. Anh tự hỏi: ‘‘có lẽ đạo này không phi lý như mình nghĩ’’. Có gì thúc đẩy, anh hay đến các nhà thờ. Mặc dầu chưa tin gì, nhưng tại đây anh cảm thấy thoải mái. Từng giờ trong nhà thờ, anh thường nhắc lại lời cầu nguyện: ‘‘Lạy Chúa, nếu Chúa có thật, xin cho con biết Chúa’’. Một ý kiến nảy sinh. Phải tìm hiểu biết về tôn giáo này. Giờ đây cần tìm đến linh mục, xin chỉ dẫn. Sáng 29.10.1886, Charles đến nhà thờ St Augustin, Paris tìm gặp linh mục Henri Huvelin (1838-1910), Giáo sư Cao Đẳng Sư Phạm. Cha đang ngồi tòa giải tội. Sau đối dáp, vị linh mục âu yếm nhìn người thanh niên trụy lạc và nói: Này anh, anh lầm rồi. Còn một trở ngại làm anh không tin, là tâm hồn phải trong sạch. Thôi, hãy quì xuống và khiêm nhượng thú nhận tội lỗi trước mặt Chúa, rồi anh sẽ tin. Chàng thanh niên xua tay phản đối. Do dự, một lúc sau, và cuối cùng anh quì gối, xưng tội và ăn năn sám hối. Ngay sau đó, cha giải tội đã cho anh rước Mình Thánh Chúa luôn. Người thanh niên Charles đã tin và trở nên người thánh thiện. Ngày nay, tại nhà thờ St Augustin, quận 5, bên trái, người ta còn để hình ảnh kỷ niệm nơi chính Charles xưng tội và được ơn hoán cải. Từ đây, Anh được linh mục Huvelin tận tình nâng đỡ và hướng dẫn. Anh Charles de Foucauld đã đổi mới hoàn toàn cuộc đời và sống cho bác ái.
V. Cuộc sống ẩn tu, truyền giáo trong sa mạc (1888-1916)
Sau khi được hoán cải, Anh Charles đã thực sự đi tìm đời sống ẩn tu khổ hạnh, qua các nơi: Tìm Chúa qua Thánh tích ở Jérusalem, Bethlem, Nazareth (1888-1890).Thực tập như thầy khổ tu Xitô (1890-1896). Về Roma một năm (1896-1897). m thầm làm vườn cho Dòng Clarisses (1897-1900) (Charles de Foucauld, JJ Antier. tr. 139-156)
Ngày 7.10.1900, Anh đến Dom Martin, vào Notre-Dame-des-Neiges cấm phòng và chuẩn bị nhận các chức thánh. Ngày 23.3.1901, Anh nhận chức Phó tế và thụ phong linh mục, tại giáo phận Viviers, ngày 09.06.1901, tai Dòng Lazariste. (SSđ. tr. 157-163). Giống như Chúa Giêsu, Cha Charles có những năm ẩn tu và những năm công khai truyền giáo và kết thúc bằng hy sinh mạng sống. Sau khi lãnh chức Linh mục, Cha Charles khời sự truyền giáo, đầy gian lao và nguy hiểm: Đầu tiên là ở Benis Abbès (1900-1902). Làm quen và thực sự sống giữa sa mạc Sahara (1903-1904). Đến Tamanrasset nguy hiểm hơn (1905). Xây tịch liêu ở Touareg, chiêu mộ tu sinh (1905-1908). Thân một mình (1908-1909). Cô đơn ở Asekrem (1911-1924). Bị hăm dọa từ miền Đông (1915-1916)
Ngày 10.9.1901, Cha xin qua sống trong sa mạc miền khô cằn Bénis-Abbès, tại Algérie. Đến Alger Cha tạm trú tại nhà các Cha Dòng Áo Trắng ít lâu. Với tư cách là cựu sỹ quan, Cha nhờ một số sỹ quan Pháp giúp đỡ, Cha xây dựng cơ sở đầu tiên, với diện tích đất 9 mẫu. Đời sống trong sa mạc, được Cha viết lại cho một đan sỹ: Phải bước vào sa mạc và dừng lại để lãnh nhận ơn thánh. Tại đây chúng ta có thể loại bỏ tất cả những gì không thuộc về Ngài. Tâm hồn chúng ta cần có bầu khí thinh lặng và tĩnh mịch, cần quên đi tạo vật để Thiên Chúa có thể thiết lập vương quốc Ngài, và vun trồng nơi chúng ta đời sống nội tâm thân mật với Ngài. Tâm hồn chúng ta có thể đàm đạo chuyện vãn với Ngài trong đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Nội tâm chúng ta càng được thao luyện bao nhiêu, sau này càng mang lại hoa trái bấy nhiêu. (Chúa là Tình Yêu. tr.41).
Ngày 27.5.1903, qua trung gian của hai cha Dòng Áo Trắng khám phá ra khu mới đông người ở. Ngã ba giữa Algérie, Maroc và Sahara. Cha Charles đến làm quen rồi sinh sống với họ. Đây là nơi quân đội Pháp thường qua lại. Họ sống có qui củ thành làng và chỉ biết có trời, không biết gì về Thiên Chúa.
Sau đó, ngày 11.8.1905, Cha chuyển qua sa mạc Tamanrasset. Bắt đầu từ miền hoang vu nóng bỏng cát trắng. Cha may mắn gặp bạn cũ học ở Saint-Cyr là tướng Lyautey, người đạo đức rất tốt. Cha bắt đầu bị bệnh, mệt mỏi và cô đơn. Cha bị người ta gán ghép cho là ‘‘thầy phù thủy’’ và tìm cách hãm hại. Đã có lần Cha bị thương dọc đường. Ông đề nghị cho lính hộ tống Cha đi đó đây. Nhưng Cha từ chối, thích đi một mình. Tại đây, thiếu tá Laperrine đã giúp Cha dựng nhà tường đất, mái lá. Đặc biệt Cha có Paul Embarek, giáo lý viên đắc lực và tận tâm giúp phụng vụ. Anh là người nô lệ đen, đã được Cha chuộc từ Soudan về. Ngoài ra, Cha cũng gặp bác sỹ Béraud, chăm sóc sức khỏe. Riêng ĐC Guérin Giám Mục Sahara, người đã nâng đỡ tinh thần và khuyên nhủ Cha Charles trong lúc cô đơn. (Charles de Foucauld. JJ Aantier, tr. 206-227)
Những ngày tại sa mạc, Cha say mê tìm đến với những người du mục sống trong hoang địa, làm quen, học tiếng của họ. Cha đã dịch Phúc m ra tiếng? Rập. Ban ngày cha giúp đỡ họ những công việc cần và chiều tối một mình về nhà suy gẫm. Cha không thuyết phục họ theo Đạo, nhưng cố nêu cao đời sống tông đồ bác ái. Chính nơi đây, lòng nhiệt thành của Cha Chúa đã đón nhận như của lễ hy sinh.
VI. Như của lễ hy sinh vào cuối đời
Ngày 1.12.1916, khi trời vừa tối, khoảng 40 người đến vây quanh khu Tamarasset, sa mạc Sahara, nơi Cha Charles de Foucauld mới đến cư ngụ được 5 tháng. Họ là những người Touareges ở Ajjer, nổi lên chống lại người Pháp. Họ có nhiệm vụ bắt cóc ‘‘thầy bùa ngải’’ mà họ nhắm và gán ghép vào Cha Charles, đã sinh sống ở vùng này hơn 10 năm. Họ nghĩ rằng phải giết hoặc bắt làm con tin người u Châu này, vì Cha có ảnh hưởng nhiều đến các thủ lãnh bản xứ. Đó là ý định của nhóm nhỏ thuộc nhóm ‘‘thánh chiến’’ của Hội tôn giáo của Senoussiya ở Fezzan, miền Lybie.
Những người Touareges bất bạo động, đã dùng khoảng 30 khẩu súng, của quân đội Pháp để lại cho dân làng, có nhiệm vụ tự vệ. Nhóm Touareges bắt ép đem theo vợ chồng Paul Embarek, đã quen lối sinh sống của Cha làm chỉ điểm, đến gõ cửa nhà Cha.
Hôm ấy, cha Charles một mình sống trong tịch liêu. Như thường lệ, anh Lazaoui ben Amdour, người thường dân Ả Rập phát thơ, từ chiều hôm trước, đến trao cho Cha 8 lá thơ, rồi nhận thơ mới của Cha đi gửi. Các thơ Cha nhận có: ba thơ của chị họ Marie, một của anh rể Raymond de Blic, hai của Laperrine, hai của Masssignon và một của Saint-Léger. Ngay sáng đó, Cha đã trả lời đầy đủ cho từng người (thơ chưa gửi đi). Đang khi Cha Charles đợi người đem thơ về, thường vào chiều.
Ba người đến trước cửa tịch liêu, đứng sẵn ngoài cửa là: El Madani, Mohammed agg Akda d’Iherir và Elghlem agg Afekou ở Ayt Loayen. El Madani gõ cửa. Cha ra mở và khi Cha mới thò một tay ra ngoài cửa. Lập tức Madani nắm, kéo tay Cha. Cha rị lại. Lập tức, hai người kia xông vào và kéo Cha ra ngoài. Họ trói hai tay Cha lại phía sau lưng, bắt qùi xuống và chất vấn. Cha vẫn thinh lặng. Rồi họ để Cha cho cậu bé Sermi ag Tora, 15 tuổi canh giữ Cha. Còn họ vào trong lục soát đồ đạc...
Bỗng có báo động hô lên. Những người A Rập cỡi lạc đà ào ào tới. Thế là có tiếng súng nổ vang lên. Không biết họ có bao nhiêu? Cha có cựa quạy để cởi trói không? Vì sợ Cha trốn chạy, cậu Sermi chỉ để miệng súng vào dưới tai trái của Cha, như để hăm dọa. Trong lúc hốt hoảng súng nổ, viên đạn đâm thâu mắt trái của Cha và đầu đạn cắm vào tường. Cha nằm sóng sượt trên mặt đất. Máu chảy lai láng, Cha chết không kịp nói. Cậu Sermi cùng đồng bọn bỏ chạy. Sau chốc lát vụ nổ súng của nhóm Touareges, nhóm lính? Rập bạn Cha mới tới. Sáng hôm sau, người ta thấy người mang thơ cũng bị giết. Thi hài Cha được chôn cất vội vàng sơ sài trong một rãnh bờ cát gần nhà. Từ 1929, ngôi mộ của Cha đặt ở El Goléa, giữa đồng cát trống. (Frère Charles de Foucauld, tr.38).
Cha Charles de Foucauld qua đời giữa cuộc thế chiến và đầy bạo loạn. Cha bị sát hại tại Hoggar, miền nóng bỏng của sa mạc Tamanrasset. Như một vị tử đạo. (Fêtes et Saisons. No. 386, Juin Juillet. 1984, tr. 4; La Mort de Charles de Fioucauld, tr. 102-104, 137-142, 172-181). Ba tuần sau khi Cha qua đời, người ta tìm thấy Chén và Mình Thánh Chúa chôn vùi dưới cát nơi Cha bị giết. (GXVN, số 28. 11-1986. tr. 8).(La Mort de Charles de Foucauld, tr. 160. Chúa là Tình Yêu. tr. 73). 15 năm trước khi từ trần, Cha đã viết: Hãy sống ngày hôm nay như tôi phải tử đạo chiều nay (Vivre aujourd’hui comme si je devais mourir ce soir. Martyr.).
Phép lạ nhờ lời cầu bầu của thánh nhân
Trưa 4.3.2003, ĐHY Dionigi Tettamanzu, TGM Milan, bắc Ý đã chủ sự nghi thức kết thúc tiến trình điều tra cấp giáo phận về một phép lạ nhờ lời cầu bầu của cha Charles de Foucauld. Tham dự có bà Giovanna, 46 tuổi, sinh quán tại Desio, gần Milan, bà bị ung thư xương và vú, được khỏi một cách kỳ lạ, năm 1984. (TTĐM. Số 304, 4-2003. tr.53). Ngày 20.12.2004, ĐHY Von Galen, công bố công nhận phép lạ trên và loan báo sẽ phong chân phước cho Cha Charles de Foucauld vào trong năm 2005.
VII. Thành lập Dòng của Cha Charrles de Foucauld
Sau cái chết của Cha Charles de Foucauld (1916), tưởng là những hy sinh cao cả và cuộc đời đạo đức thánh thiện của Ngài sẽ đi vào quên lãng. Nhưng Ngài như hạt giống đã chôn vùi chờ ngày trổ sinh hoa trái. Quả thật, Cha Charles de Foucauld là người cha của các dòng Tiểu Muội cho Nữ và Tiểu Đệ cho Nam, một dòng hoạt động và phát triển mạnh trên thế giới. Năm 1933, Ngành Nam do Cha René Voillaume thành lập. Còn ngành Nữ do Chị Magdeleine lập năm 1939. Toàn thế giới có 1.324 Tiểu Muội và 1.286 Tiểu Đệ.
Người khởi sự và lập Dòng
Cha Charles de Foucauld muốn thiết lập Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, nhưng không ai chịu theo. Mãi đến năm 1933, sau 17 năm Cha qua đời mới có người khởi sự đứng ra lập Dòng cho Nam, và năm 1939 Dòng cho Nữ:
A. Ngành Nam, Tiểu Đệ, do Cha René Voillaume, người Pháp, lập năm 1933. Cùng với 5 linh mục thuộc giáo phận Paris, các Cha lập một nhà đầu tiên ở El Abiod sidi Cheikh, Algérie. Dòng có hai loại: linh mục và tu sỹ
Ban đầu, mới có nhóm nhỏ gồm linh mục, tu sy và giáo dân tu họp trao đổi tư tưởng của Cha Charles de Foucauld, như tưởng niệm. Năm 1917, nhóm này do sinh viên Louis Masaignon đứng đầu, hoạt động như ‘‘hiệp hội’’, được phép của Tòa Thánh. Trong đó có đại chủng sinh chủng viện Issy les Moulineaux là René Voillaume, sau làm linh mục. Được phép của bề trên, René đem chia sẻ và phổ biến cho các bạn khác trong chủng viện.
Châm ngôn và mục đích: Bắt chước và sống như Chúa Giêsu ở Nazareth
Chúa Giêsu sống ẩn dật tại Nazareth 30 năm. Một cuộc đời bình thường của mọi người, của người nghèo lẫn thợ thuyền. Đây là con đường vạch ra cho những ai muốn hiến dâng cho Thiên Chúa. Con đường dẫn đến Chúa Cha, đến Ơn Cứu Độ. Khi sống như người thợ ở Nazareth, một người nghèo giữa người nghèo, Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc cứu rỗi của mình. Những gì Ngài giảng dạy trong 3 năm, thì Ngài sống, thực hiện trong 30 năm.
Đời sống của anh em Tiểu Đệ
Như Chúa Giêsu Nazareth, Anh Charles và các Tiểu Đệ được kêu gọi sống đời bình thường cho Thiên Chúa và cho hết mọi người, nhưng thiện cảm với những người bị bỏ rơi trong xã hội. Anh em đến với họ không để giảng dạy, nhưng để sống giữa họ, và chia sẻ thân phận với họ. Trở nên người anh em dịu hiền. Tự kiếm kế sinh nhai bên cạnh người lao động.
Anh em Tiểu Đệ sống thành cộng đoàn nhỏ là nhà Huynh Đệ. Một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ như những nhà khác, trong hoàn cảnh đa dạng: với những người nông dân, thợ thuyền, bệnh tật, già yếu, hay bị bỏ rơi.
Quan trọng hơn, đời sống thiêng liêng của Tiểu Đệ phải sống chiêm niệm giữa đời và gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể. (GHCGVN. Niên Giám 2004. ttr. 328-329). Nhà chính Tiểu Đệ ở Pháp: Congrégation des Petits Frères de Jésus, 22 rue Tapis Vert. Marseille. France (VNCG. Niên Giám 1964, tr.433).
B. Ngành Nữ, Tiểu Muội, do cô Elisabeth Hutin, người Pháp, sau làm bề trên tổng quyền mãn đời gọi là Magdeleine de Jésus (1898-1989), thành lập năm 1939.
Tinh thần và lịch sử, công trình lập Dòng chị Magdeleine viết: Chúa đã nắm tay tôi và tôi nhắm mắt bước đi theo Ngài...Trong cảnh bề ngoài hoàn toàn u tối và tất cả mọi phương tiện nhân sự đều vắng bóng. Nhưng với lòng tin cậy vô bờ bến vào sức toàn năng của Chúa Giêsu. Chính Ngài là Thầy những gì mà sức người không làm nổi..
Chúa đã chọn Chị và trao phó công việc: Ngài đã chuẩn bị tôi từ thời thơ ấu, và đã kêu gọi tôi theo Ngài, chắc chắn ngay khi tôi bước vào tuổi có trí khôn. Ngài đã gieo vào lòng tôi yêu mến Châu Phi, đồng thời cũng làm tôi yêu chuộng những người bé nhỏ nhất, nghèo nàn nhất và bị bỏ rơi nhất.
Chị Magdeleine đã lập Huynh Đoàn các Tiểu Muội Chúa Giêsu, ngày 8.9.1939, tại Touggourt, sa mạc Sahara, bên Algérie. Sau hai năm lập dòng, Chị kể lại cảm nghĩ ban đầu: Chúa theo đuổi tôi với câu nói này: ngài đã gửi họ đi từng hai người một đến các phố làng mạc’’. Câu nói ấy là kỷ niệm tản mát của các Tông Đồ. Tôi thấy các Tiểu Muội ở khắp nơi cùng lúc, gieo rắc tình thương như một tia sáng thật nhỏ. Mặc dầu các chị đầy khuyết điểm, hèn kém. Tôi thấy chính mình đang làm lan rộng ngọn lửa Chúa ủy thác. Tôi chẳng có gì đẹp hoặc tốt, mà chỉ có ngọn đuốc đang cháy. Tôi phải mang nó đi khắp nơi. Nó sẽ khêu dậy và bừng sáng khi tỏa lan và truyền được sức sống.
Điểm nổi bật nơi con người Magdeleine là chất chứa tình yêu Chúa Kitiô nóng bỏng. Tinh yêu này thúc đẩy Chị không ngừng đi đến với những người nghèo khổ nhất, những người bị bỏ rơi ở khắp nơi. Qua họ, từ tình bạn, trao truyền tình yêu thương dịu hiền của Thiên Chúa (Sđd. tr 5). Nhà chính của Tiểu Muội ở Ý: via di Aque Salvie 2, Tre Fontaine. 00142. Roma. Italia.
VIII. 150 năm sau, như hạt giống cần mục nát
Cha Charles de Foucauld như cây chính có hai nhánh là Cha René Voillaume và Chị Magdeleine. Từ gốc chính này, đã sinh hoa quả rờm rà tỏa bóng mát khắp nơi.
Gia đình thiêng liêng của Cha Charles de Foucauld có 11 Dòng: 6 nữ và 5 nam (Congrégitions) và 10 hiệp hội (Associations) và 18 gia đình (Familles). Tờ báo chung là Jesus Caritas, phát hành 3 tháng một lần.
Các nhà Dòng của Cha Charles có mặt ở khắp nơi, như: Hong Kong, Iraq, Syrie, Afrique, Ukraine, BaLan, Áo, Mỹ Châu La Tinh, Pakistan, Ấn Độ, Egypte, Maroc, Thụy Sỹ. Ý, Pháp: Aix en Provence, Marseille, Bagnolet, Rennes, Việt Nam
Hiện có nhiều người trẻ Vìệt Nam, cả nam lẫn nữ đang tu và hoạt động trong Dòng này, ở ngay Việt Nam và ngoại quốc. Tại hải ngoại có 10 chị đang hoạt động tại Ý, Pháp, Úc, Giêrusalem.
Tại Việt Nam có cả Tiểu Đệ và Tiểu Muội.
Ồ Dòng Tiểu Muội có mặt tại Việt Nam từ 1953,.
Châm ngôn: Giêsu Tình Yêu. Đặc sủng: Chiêm niệm giữa đời theo tinh thần con trẻ của Tin Mừng. Hoạt động: sống đời thường như Chúa Giêsu Nazareth. Bổn mạng lễ Giáng Sinh 12-12. Địa chỉ liên lạc: 25/ 4 Phan Văn Hân, Q. Bình Thạnh. TP Hồ Chí Minh. Bề trên là Matta Emmanuelle Nguyễn thi Nguyệt Ánh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 374)
Ồ Dòng Tiểu Đệ có mặt tại VN từ 1954, nhà đầu tiên ở Bàn Cờ, Sài gòn. Hiến pháp được Tòa Thánh phê chuẩn năm 1968. Châm ngôn và mục đích: Bắt chước Chúa Giêsu Nazareth. Bổn Mạng là lễ Giáng Sinh, 25-12. Hoạt động: Kiếm kế sinh nhai bằng lao động, đến và chia sẻ với những người nghèo. Địa chỉ liên lạc: 243/48 Tôn Thất Thuyết, Q 4, TP Hồ Chí Minh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 328). Việt Nam có ĐTGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, nhập Dòng năm 1955.
Các chứng từ để kết luận
Xin chọn lời của hai Đức Giáo Hoàng nói về Cha Charles de Foucauld:
Thánh GH Phaolô VI đã viết trong thông điệp Populorum progressio (26-3-1967): Cha Charles de Foucauld là vị truyền giáo bằng bác ái, là gương mẫu anh em sống đại đồng, luôn hướng dẫn mặt tu đức. Thánh GH Gioan Phaolô II đã 5 lần (1980, 1983, 1984, 1991 và 1994) nói về con người và tinh thần của Cha Charles: Nhờ Cha Chrales mà có đối thoại với người thổ dân du mục để dễ rao giảng Tin Mừng. Cha Charles xứng đáng là vị truyền giáo lớn như François d’Assisie, như Matteo Ricci. Trong thế kỷ chúng ta, có nhiều người biết đến đạo Chúa là nhờ Cha Charles, nêu gương đơn nghèo, kết hợp với Thiên Chúa, sống bác ái, huynh đệ, và yêu thương (4-1984). (Sđd. tr. 306)
Ngày nay, biết bao nhiêu người trẻ, tại nhiều nơi trên thế giới, không biết mệt mỏi theo gương Thánh Charles de Foucauld, làm tròn bổn phận với Chúa, với Giáo Hội và giữ đúng tinh thần trách nhiệm liên đới với anh em chung quanh.
Những dòng trên chưa khám phá được hết những hoạt động của người chứng nhân đạo Bác Ái, đạo Yêu Thương Thiên Chúa. Sống tinh thần Phục Sinh là cần phải canh tân và hòa giải. Thiết nghĩ không gì bằng đến với Chúa nhân từ trong tòa giải tội.? đây, Ngài sẽ rửa sạch tâm hồn và khoác lại cho chúng ta chiếc áo trắng ngày Phục Sinh. Chiếc áo này sẽ là bằng chứng tình yêu không hề phai giữa chúng ta với Ngài và sự liên kết bền chặt với anh em. Õ
Phạm Bá Nha
Tài liệu tham khảo
Jean-jacques Antier: Charles de Foucauld, Ferrin, Paris 2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét