Trang

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

LỜI CHÚA MỖI NGÀY Chủ Nhật III Mùa Chay, Năm C




Suy niệm : Chúa Kêu Gọi Thống Hối

Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã đi vào giữa Mùa Chay. Phụng vụ hối thúc chúng ta phải làm công việc quan trọng nhất trong mùa này, là thống hối ăn năn tội lỗi và trở về với Chúa. Những tư tưởng này được trình bày rõ rệt trong bài Tin Mừng và bài Thánh Thư. Nhưng chúng ta cần xem bài Cựu Ước trước, để thấy Chúa 
thương xót những người khổ sở như thế nào và Người sẵn sàng giải thoát họ. Ðược niềm tin như vậy, chúng ta sẽ sung sướng đón nhận Lời Chúa kêu gọi ăn năn thống hối để được cuộc hành trình mùa Chay nói riêng và đời sống nói chung của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn cuộc hành trình của con cái Israen nơi sa mạc mà bài Thánh thư hôm nay còn gợi lại. Chúng ta hãy bắt đầu với bài Cựu Ước.


1. Chúa Muốn Cứu Dân

Bài sách Xuất Hành hôm nay thuật chuyện Chúa gọi Môsê đi cứu dân. Chính ông đã được cứu ra khỏi nước khi mới sinh được ít tháng. Hoàng đế Ai Cập bấy giờ ra lệnh giết hết con trai mới sinh của người Do Thái. Mẹ của Môsê thương con, dấu diếm trong nhà cho đến ngày không dấu được nữa. Bà bỏ con vào thúng đã trét hắc ín và đem đặt bên bờ sông, nhằm lúc Công chúa của Pharaôn đến tắm. Nàng thấy đứa bé xinh, cho tìm vú nuôi và sau đem vào hoàng cung giáo dục. Khi đã thành nhân, một hôm ra khỏi đền vua, Môsê thấy cảnh nô lệ man rợ của đồng bào mình. Ông đã giết một tên Ai Cập để bênh vực một người đồng hương; và sau đó sợ lộ chuyện, ông phải trốn đi và trở thành mục tử chăn dê cừu cho nhạc phụ là Jếthro ở đất Mađian.

Hôm nay Môsê lùa đàn vật đi ăn, ngang qua sa mạc và đến núi của Thiên Chúa. Người Do Thái miền Bắc gọi núi này là Horeb; còn người miền Nam gọi nó là Sinai. Và dân của cả hai miền đều coi nó là núi thánh và là núi của Thiên Chúa. Vì nó vẫn là nơi có điện thờ và có sự hiện diện của Chúa một cách đặc biệt, hay nó chỉ mới trở nên thánh địa kể từ ngày có câu chuyện Chúa hiện ra hôm nay với Môsê? Béthel (Kn 28,11) cũng là một nơi giống như vậy. Israen đến đó và mơ thấy có một bậc thang bắc từ đất đến trời. Ông bừng dậy và nhận ra nơi này là thánh địa. Nơi ấy xưa nay vẫn thánh, hay mới chỉ thánh từ khi Israen được Chúa hiện ra trong chiêm bao ở trên đất này? Dù sao việc Chúa hiện ra cũng đã làm cho những nơi kia trở nên thánh địa một cách khác thường. Và mỗi khi Người hiện ra, các tác giả Thánh Kinh đều nói rằng "thần sứ" của Người hiện ra chứ không dám nói rằng chính Người xuất hiện. Và từ ngữ "thần sứ Giavê" đã trở thành công thức nói về "Thiên Chúa hiện ra".

Vậy hôm nay thần sứ Giavê đã hiện đến với Môsê trong ngọn lửa giữa bụi gai. Thoạt đầu Môsê đâu có biết. Ông chỉ thấy một ngọn lửa cháy giữa bụi gai mà gai không bị thiêu hủy. Thấy lạ, Môsê muốn mon men lại gần để quan sát. Nhưng từ trong lửa giữa bụi gai có tiếng gọi: "Môsê, Môsê"; rồi bảo ông chớ lại gần vì đây là nơi thánh địa.

Ðối với chúng ta, một hình thức Chúa hiện ra như vậy tỏ ra thế nào ấy! Nhưng đối với người xưa đó là hình thức quá tự nhiên để họ khỏi khiếp đảm. Họ vẫn quan niệm thần linh ở trong lửa, trong khói. Có ngọn lửa lạ lùng giữa một bụi gai như vậy là dấu chắc chắn có thần linh muốn hiện ra với người ta. Trong tiếng Do Thái, chữ bụi gai cũng na ná như chữ Sinai. Và vì thế lửa cháy giữa bụi gai hôm nay, như báo trước một ngày nào đó lửa cũng sẽ nghi ngút trên đỉnh Sinai khi Chúa muốn ký kết giao ước với đoàn dân mà Môsê vừa dẫn ra khỏi Ai Cập. Chúa giữa bụi gai cũng là Chúa ở núi Sinai, Người đã hiện diện đến với Môsê ban cho ông những mạc khải vô cùng quan trọng.

Người tự xưng là Chúa của Abraham, Isaac và Giacob, những tổ phụ xa xôi của con cái Israen. Người đã thấy những nỗi thống khổ của họ bên Ai Cập. Người đã nghe tiếng roi của các đốc công người Ai Cập quất trên họ. Người nghe hết những tiếng kêu đau khổ của con cái Israen. Người sẽ ra tay cứu họ ra khỏi Ai Cập, và đưa họ vào Ðất Hứa chảy sữa và mật. Thế nên Người bảo Môsê: "Vậy bây giờ ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô; ngươi hãy đem dân của Ta, con cái Israen ra khỏi Ai Cập".

Lệnh truyền đầy cương quyết và thật an ủi. Nó nói lên lòng thương đầy thông cảm và hiểu biết của Chúa. Nó cho thấy Chúa quan tâm săn sóc những người khổ sở. Họ là "phần riêng" của Người. Họ sẽ trở thành "sở hữu" của Người. Chúng ta muốn nhận được tình thương của Chúa, hãy đứng vào hàng ngũ những thành phần khó nghèo và khổ sở. Nhất định chúng ta sẽ nhận được nhiều tình thương cứu độ, nếu chưa dám nói là nhận được tất cả lòng thương xót của Chúa...

Mà chúng ta đâu có cần đứng vào hàng ngũ những thành phần đáng thương ấy. Bản chất chúng ta là tội nhân đầy những yếu đuối và rồi đây sẽ phải chết. Không ai khổ sở và đáng thương hơn chúng ta; chỉ có điều chúng ta dễ quên và muốn quên thân phận của mình. Chúng ta tự ái muốn che dấu tội lỗi của chúng ta. Chúng ta muốn bám vào những lớp sơn có thể che dấu được con người thật của mình. Chúng ta che thân bằng quần áo thì cũng muốn che tâm hồn và đời sống hèn hạ dưới những cái "mã" tưởng là dễ coi. Chính sự bỏ quên cũng là một bình phong và là một tấm màn phủ lên con người xấu xa của chúng ta...

Nhưng vô ích, lương tâm như một con sâu luôn rúc rỉa tâm hồn. Bài Kinh Thánh hôm nay, những Lời Chúa vừa tuyên bố, mùa Chay đang cử hành, tất cả kêu gọi chúng ta hãy giác ngộ, thú nhận tội lỗi và cầu xin ơn tha thứ. Thiên Chúa đang đến. Người đầy lòng xót thương. Người muốn cứu kẻ lầm than khổ sở. Người sai một Môsê Mới đi cứu những ai thú nhận mình yếu đuối. Ðó là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng để hiểu biết Người, chúng ta hãy tiếp tục xem Môsê cũ.

Nghe Chúa muốn sai mình đi cứu dân. Ông xin được muốn đích danh của Người để khi con cái Israen hỏi ông biết đàng mà thưa. Nhưng không lẽ ông chưa biết danh Giavê! Và chắc chắn ông cũng đã biết con cái Israen vẫn dùng danh Giavê mà xưng tụng Chúa. Có lẽ ở đây tác giả viết như vậy là vì muốn giải thích danh Giavê và muốn cho lời giải thích này khởi sự từ Môsê và từ miệng Chúa. Người trả lời cho Môsê: Ta là Ðấng "Ta có".

Vẫn biết lời của Chúa nói ở đây khó dịch ra tiếng Việt Nam. Nhưng trong mọi thứ tiếng và ngay trong tiếng Do Thái, ý nghĩa của câu Chúa trả lời để mạc khải Danh của Người cũng thật khó hiểu. Nó khó hiểu đến nỗi có thể nói được rằng nghe rồi người ta cũng chẳng hiểu gì hơn. Và điều này chứng tỏ không từ ngữ và quan niệm nào có thể diễn tả được Thiên Chúa. Người là Ðấng Vô Danh theo nghĩa của Lão Tử, tức là theo nghĩa không thể nào gọi tên được. Mọi danh xưng đều bất lực nói về bản tính Thiên Chúa.

Nhưng khi nói Giavê Ðấng đang có, người ta cũng có thể nghĩ đến sự trường tồn của Người, đang khi hết thảy là phù vân không có nền tảng hiện hữu. Nhất là tựa vào ý nghĩa ấy, người ta có thể nghĩ rằng Giavê là Ðấng luôn hiện diện với Môsê và với dân Người để ở với họ, hướng dẫn họ, giúp đỡ họ thi hành kế hoạch của Người. Và điều này sẽ được triển khai khi cũng tác giả Xuất Hành viết: Giavê là Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành (34,6). Mà quả thật mọi trang Kinh Thánh mạc khải đều nói lên lòng từ nhân của Thiên Chúa Giavê. Người không ở xa con cái loài người, nhưng hằng quan tâm độ trì họ.

Ðặc biệt trong bài sách Xuất Hành hôm nay Người tỏ ra thông cảm, lo lắng cho số phận con cái Israen. Người hiện ra với Môsê với tâm trạng ấy, thì khi Người giải thích danh xưng Giavê của Người, chúng ta có thể và có lẽ phải hiểu theo ý nghĩa từ nhân này. Và phụng vụ hôm nay cũng muốn chúng ta biết Thiên Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót đang muốn cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nghe thêm lời Con của Người nói trong bài Tin Mừng để hiểu Người hơn và mến Người hơn nữa.

 2. Chúa Kêu Gọi Thống Hối

Thánh Luca kể, hôm ấy người ta đưa tin cho Ðức Giêsu biết: Pilatô mới giết một số người Galilê, khi họ dâng lễ. Vụ này ai cũng biết nên tác giả không cần nói rõ thêm. Ðàng khác Pilatô đã làm nhiều vụ như vậy mà sử sách còn kể lại. Phản ứng của Ðức Giêsu không chính trị tí nào, mà chỉ hoàn toàn đạo đức. Người đáp: các ngươi tưởng đó là những người tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Không đâu, nếu không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế.
Người còn nói thêm về vụ 18 người bị tháp Silôam đổ xuống đè chết. Vụ này chắc cũng phải thời danh lắm. Ai nghe nói cũng hiểu tức thời. Nhưng 18 người kia có phải là hạng tội lỗi hơn mọi kẻ cư ngụ ở Giêrusalem không? Không đâu, Người nói: "Nếu các ngươi không hối cải, các ngươi cũng sẽ bị tiêu diệt in như thế".

Trong phản ứng của Người, chúng ta có thể nhận ra một số quan niệm Người không coi những kẻ bị tai họa bên ngoài tất nhiên phải là hạng tội lỗi hơn mọi người khác. Cũng như trong sách của Gioan, Người không coi một kẻ mù từ khi mới sinh là vì tội của nó, hay của cha mẹ nó. Ðối với Người ai cũng có tội hết, cả những người ở Galilê và cả những người ở Giêrusalem. Tất cả những người đang ở trước mặt Người và nghe Người nói đều có tội. Họ hãy thống hối và cải thiện; nếu không họ cũng sẽ bị tiêu diệt, dĩ nhiên không phải hết thảy sẽ bị giết hay tháp đè. Nhưng tất cả đều sẽ chết và chết đời đời.

Và để thúc đẩy người ta nhận thấy tình cảnh đã khẩn trương, Ðức Giêsu kể tiếp dụ ngôn về cây vả. Chủ vườn muốn chặt nó tức khắc, vì đã ba năm rồi, ông đến tìm quả mà không thấy một trái nào. Nếu bài dụ ngôn đã dừng lại ở đây, thì chúng ta chỉ thấy tính cách khẩn trương của vấn đề hối cải. Và chúng ta có thể nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nói dụ ngôn này vào khoảng cuối đời truyền giáo, sau ba năm hoạt động nơi người Do Thái, như Mátthêu và Máccô đã kể chuyện về một cây vả tương tự vào hai, ba ngày trước khi Chúa Giêsu bị bắt nộp.

Nhưng Luca tác giả của lòng thương xót, đã không dừng lại ở lời ngăm đe tức thời như vậy. Ông cho người làm vườn đến trước mặt chủ và xin để cây vả lại một năm nữa, chờ cuốc xới và bón phân thêm xem thế nào, không chừng nó sẽ sinh quả; bằng không sẽ chặt nó đi.

Người làm vườn nào mà lạ lùng như vậy? Xét theo chuyên canh, lời ông chủ thật có lý. Ðể cây vả lại trong tình trạng ấy chỉ làm hại đất. Nhưng chính vì lạ lùng, người làm vườn kia khiến chúng ta nghĩ đến một câu trong sách của Gioan: "Cha Ta là người trồng nho". Quả thật câu nói của người làm vườn ở đây đầy lòng nhân từ. Lời người ấy buộc chúng ta phải nghĩ đến lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người muốn cuốc xới và bón phân, tức là săn sóc chăm nom để tội nhân trở lại sinh quả tốt. Kinh Thánh không thường ví dân Chúa như một thân nho sao?

Và như vậy, khi cho người làm vườn xuất hiện nài xin ông chủ vườn để cây vả lại, tác giả Luca muốn cho chúng ta thấy lòng thương xót lạ lùng của Thiên Chúa đã tỏ hiện đối với tội nhân. Và cụ thể người muốn nói đến Ðức Kitô Giêsu, Ðấng mà Chúa Cha đã sai đến để kêu gọi người tội lỗi. Ngài đang lao nhọc vất vả giảng dạy và khuyên bảo người ta. Người đang cuốc xới và bón phân. Ngài ban cho người ta một hạn chót để trở lại: một năm nữa thôi. Phải chăng Ngài đang ở trong năm thứ hai của cuộc đời truyền giáo? Ðúng hơn đó chỉ là kiểu nói ám chỉ hạn chót.

Do đó tính cách khẩn trương của lời kêu gọi hối cải vẫn còn y nguyên. Nó được trình bày kèm với quan niệm về lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và như vậy luôn luôn nó sẽ có tính cách tức thời; khiến hôm nay đọc bài Tin Mừng này, chúng ta vẫn thấy đang được thôi thúc phải ăn năn hối cải và sinh quả công chính.

Hơn nữa, có thể nói được rằng lời hối thúc lại càng khẩn trương khi nó lại là tiếng nói của một tấm lòng đầy nhân nghĩa, nó làm chúng ta lại nhớ tới Lời Chúa thổ lộ với Môsê trước khi sai ông đi cứu dân. bao giờ Chúa cũng từ nhân và muốn cứu độ; chúng ta có thể làm ngơ trước kêu gọi tha thiết như vậy không? Thánh Phaolô bảo chúng ta phải coi chừng. Chúng ta hãy đọc thư Người.

 3. Chúa Ðã Chẳng Hài Lòng

Thánh Tông đồ không viết cho dân thời Môsê, cũng chẳng gởi cho người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà là cho các Kitô hữu, những người đã được lãnh nhận Thánh tẩy và thường cử hành thánh lễ tạ ơn. Họ được ưu đãi như thế, nhưng cũng phải coi chừng, vì dân Cựu Ước cũng đã được những ơn tương tự, nhưng đã chết nơi sa mạc và không được vào Hứa Ðịa. Họ cũng đã thanh tẩy khi tin vào Môsê mà đi qua nước Biển. Họ đã được ăn Manna, cũng là một thứ lương thực thiêng liêng. Họ đã uống được ở Tảng Ðá giữa sa mạc chảy ra và như vậy nước ấy cũng linh thiêng vì vọt ra từ một tảng đá lạ lùng (Ds 20,8) mà truyền thống Do Thái nói rằng nó đi theo con cái Israen suốt trong thời gian nơi sa mạc. Nếu có một sự kiện như thế, thì theo Phaolô, tảng đá ấy phải là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế, vì nó có sức độ trì dân khát nước như vậy. Do đó dân Cựu Ước đã có tất cả những sự thánh thiện tương tự của Tân Ước là "Thánh tẩy và Thánh thể"... nhưng họ đã chết vì đam mê (Ds 11,4-6); vì thờ quấy (Xh 32,6); vì dâm dật (Ds 25,1-5); vì thử thách Chúa (Ds 21,4-6); và vì kêu ca Người (Ds 13,25...). Tất cả những việc ấy đã xảy ra để làm gương cho chúng ta. Ðừng ai tưởng mình đã đứng vững trong sự thánh thiện. Hãy coi chừng kẻo ngã. Hãy khiêm nhường thú nhận tội lỗi để được hưởng nhờ lòng Chúa xót thương.

Trong cả ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta đã thấy lòng từ bi của Chúa khẩn thiết kêu gọi chúng ta thống hối ăn năn. Chúa Giêsu trong mầu nhiệm bàn thờ mà chúng ta cử hành bây giờ càng mong muốn chúng ta trở lại hơn nữa. Người đến không những để tha thứ mà còn để hoán cải. Chúng ta hãy dự lễ để thêm ơn Phục sinh; để cải tạo đời sống, để làm cho mùa Chay thành mùa đổi mới con người và xã hội, đáp lại lòng Chúa luôn xót thương muốn cứu độ mọi người.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY

Chủ Nhật III Mùa Chay, Năm C

Bài đọc: Exo 3:1-8a, 13-15; I Cor 10:1-6, 10-12; Lk 13:1-9.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:

Hãy biết dùng cơ hội Thiên Chúa ban để sám hối và sinh hoa kết trái.

 Không ai trong chúng ta muốn giữ những thứ vô dụng, vừa choán chỗ vừa không dùng được: chiếc áo đã rách, đôi giày đã thủng lỗ, cái dù đã bị bung; nếu đã cố gắng sửa mà vẫn không dùng được, chúng ta sẽ vất nó vào sọt rác để mua sắm cái khác. Con người trước mặt Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ làm mọi cách để sửa dạy và giúp con người thăng tiến như: răn dạy, cảnh cáo, và dùng hình phạt; nhưng nếu đã cố gắng mọi cách mà không sửa đổi được, Ngài sẽ phải cất đi để khỏi tốn công và tránh thiệt hại cho người khác.

Các Bài Đọc của Chủ Nhật III Mùa Chay tập trung trong việc con người phải biết nắm lấy cơ hội Thiên Chúa ban để ăn năn sám hối và thăng tiến không ngừng. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa động lòng thương xót dân của Ngài khi thấy họ bị đối xử tàn nhẫn như những nô lệ bên Ai-cập; Ngài hiện ra với ông Moses để tỏ ý định của Ngài và sai ông đến với con cái Israel để chuẩn bị đưa họ ra khỏi đất nô lệ để vào Đất Hứa. Trong Bài Đọc II, Phaolô muốn các tín hữu nhìn lại biến cố Xuất Hành để rút ra bài học cụ thể cho các tín hữu Corintô: cho dù con cái Israel đã được Thiên Chúa yêu thương và ban cơ hội để giải thoát; nhưng nhiều người trong họ đã không biết dùng cơ hội, vẫn càm ràm, than trách, và sau cùng phải chết trước khi vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho dân chúng phải biết nhìn các biến cố xảy ra trong cuộc đời và học hỏi những điều quan trọng cho bản thân: khi thấy người khác chết, đừng nghĩ là họ tội lỗi hơn mình, nhưng hãy biết sự chết cũng sẽ xảy ra cho mình; điều quan trọng là phải biết ăn năn sám hối và sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa.


KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

 1/ Bài đọc I: Ta xuống để giải thoát chúng khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập.

 1.1/ Thiên Chúa thương xót và muốn giải cứu con cái Israel khỏi cảnh làm nô lệ.
(1) Cuộc thần hiện của Thiên Chúa cho ông Moses: Moses tuy là người Do-thái; nhưng lớn lên trong hoàng gia như là con của công chúa Ai-cập. Sở dĩ ông phải bỏ hoàng gia để trốn qua đất Madian là vì ông đã giết một người Ai-cập khi người này đối xử dã man với một người Do-thái; tin này được loan truyền tới tai vua Pharaoh và nhà vua đang tìm cách bắt ông. Giống như tổ-phụ Abraham, Moses chưa một lần được biết Thiên Chúa. Để tỏ cho ông Moses biết uy quyền của Thiên Chúa, Ngài cho ông chứng kiến một hiện tượng lạ khi ông đang chăn chiên cho bố vợ là Jethro, tư tế Madian. Ông Moses nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi, ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?" Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Moses! Moses!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh."


(2) Ý định của Thiên Chúa: Người mặc khải cho Moses: "Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob… Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.”


 1.2/ Thiên Chúa chọn ông Moses để lãnh đạo con cái Israel: Khi biết Thiên Chúa muốn chọn mình để lãnh đạo con cái Israel ra khỏi Ai-cập, ông Moses nhìn thấy trước hai khó khăn trong sứ vụ Thiên Chúa trao phó: Thứ nhất, vua Pharaoh đang tìm giết ông, làm sao ông dám vào để yêu cầu nhà vua phóng thích con cái Israel. Thứ hai, con cái Israel sẽ không tin ông, một người họ không biết và chẳng có trong tay một sức mạnh nào cả.


(1) Thánh danh của Thiên Chúa: Ông Moses thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Israel và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" Thiên Chúa phán với ông Moses: "Ta là Đấng Hằng Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Israel thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."” Đấng Hằng Hữu nghĩa là Đấng luôn có. Đây là thánh danh mới của Thiên Chúa mặc khải cho con người. Để cho Moses và con cái Israel khỏi nhầm lẫn với một thần mới, Thiên Chúa dùng hai lần câu: “Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob.” Nói cách khác, Ngài vẫn là Thiên Chúa mà tổ phụ của họ đã biết và chính họ đang kêu cầu. Truyền thống Do-thái sau này rất sợ dùng thánh danh “Yahveh,” họ thay thế bằng các danh từ: Đức Chúa (Elohim), Thiên Chúa của con (Adonai), Thiên Chúa các đạo binh (El Sabaoth), Thiên Chúa uy quyền (El Shaddai)…


(2) Mối liên hệ giữa Thiên Chúa với ông Moses: Để củng cố niềm tin và đánh tan sự sợ hãi của Moses, Ngài hứa với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (x/c 12). Lời hứa này được Thiên Chúa thực hiện bắt đầu từ cuộc thương lượng với vua Pharaoh, suốt trong cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cho tới khi đem dân vào Đất Hứa. Ông Moses cũng chịu thử thách bởi Thiên Chúa như dân. Thử thách lớn nhất ông phải chịu là tuy được thấy Đất Hứa từ xa; nhưng không được cùng dân vào Đất Hứa, mà phải chết và an táng trước khi qua sông Jordan.


 2/ Bài đọc II: Chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.
 2.1/ Biến cố Xuất Hành là bài học cho mọi tín hữu: Bối cảnh của trình thuật hôm nay là câu trả lời của Phaolô cho các tín hữu Corintô có nên ăn thịt cúng. Phaolô cho các tín hữu một nguyên tắc: được ăn, nhưng phải có lòng bác ái tôn trọng những người yếu đức tin; hơn nữa, người tín hữu phải biết đề phòng các chước cám dỗ; đừng quá tự tin nơi sức hèn của mình.


Để dẫn chứng một ví dụ cụ thể, Phaolô mời họ nhìn lại gương của con cái Israel khi họ xuất hành khỏi Ai-cập, lang thang suốt 40 năm trời trong sa mạc để được thanh luyện bởi Thiên Chúa, trước khi được vào Đất Hứa. Phaolô viết: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Moses.


Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng (manna), tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.”


 2.2/ Biết học nơi gương người đi trước: Phaolô khuyên các tín hữu: Biến cố Xuất Hành không chỉ là biến cố lịch sử của người Do-thái; nhưng còn là “bài học răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.”
Được hưởng mọi đặc quyền từ Thiên Chúa không có nghĩa là sẽ được vào Đất Hứa. Giống như con cái Israel trong biến cố Xuất Hành, người tín hữu cũng đã được hưởng mọi đặc quyền từ Đức Kitô: được chịu Phép Rửa trong Phép Rửa của Ngài, được ăn thịt và uống máu trong Bữa Tiệc Ly với Ngài; nhưng những điều này không bảo đảm sẽ được phục sinh vinh hiển với Đức Kitô trong vương quốc của Ngài, nếu người tín hữu không biết dùng ơn thánh Đức Kitô ban để luyện tập nhân đức và vượt qua mọi cám dỗ cuộc đời để giữ vững đức tin vảo Thiên Chúa. Các tín hữu Corintô không thể tự mãn với đức tin của họ; nếu họ không đề phòng và làm cho đức tin vững mạnh, họ cũng có thể sa ngã như những người đi trước.


3/ Phúc Âm: Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.


 3.1/ Phải biết ăn năn sám hối khi còn có cơ hội.


(1) Đừng vội kết tội tha nhân: Truyền thống Do-thái có khuynh hướng đồng nhất đau khổ, bệnh tật, chết chóc với tội lỗi của cá nhân (x/c Sách Job, Jn 9:1). Trong trình thuật hôm nay, “có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilee bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.”


Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilee này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilee khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” Như câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong John 9, Chúa Giêsu từ chối làm một sự nối liền giữa đau khổ và tội lỗi.


(2) Hãy học gương người đi trước: Điều Ngài muốn nhấn mạnh là con người phải biết rút ra bài học cho mình khi chứng kiến những gì xảy ra cho người khác. Trong hai ví dụ hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến nhu cầu con người phải ăn năn sám hối khi còn có cơ hội; nếu không họ cũng sẽ chết mà không được hưởng ơn cứu độ.


 3.2/ Thiên Chúa kiên nhẫn với con người: Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”


(1) Con người phải sinh hoa trái cho Thiên Chúa bằng các việc lành: Ai cũng cho cây không sinh trái là cây vô dụng, con người không sinh ích lợi cho Thiên Chúa và tha nhân cũng là người vô dụng. Khi một người hay một vật đã trở nên vô dụng, họ sẽ bị lấy đi để dành cơ hội cho người khác. Khi những thứ vô dụng bị loại ra ngoài, chúng sẽ bị hủy hoại. Sự kiện người làm vườn kiên nhẫn cho cây vả 3 năm để sinh hoa kết trái cho thấy sự kiên nhẫn của ông. Thiên Chúa cũng thế, Ngài kiên nhẫn cho con người rất nhiều cơ hội để sửa mình và sinh hoa kết trái cho Ngài.


(2) Hãy biết năm lấy cơ hội như lần cuối cùng: Nhưng người làm vườn đáp lời ông chủ: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."


Con người phải khôn ngoan vì họ không biết khi nào là cơ hội cuối cùng. Đừng bao giờ giả định cơ hội sẽ đến mãi: Biết bao nhiêu người chúng ta nhìn thấy năm trước, năm nay không còn nhìn thấy họ nữa; điều này có thể xảy ra cho chúng ta; vì thế, hãy sống như đây là Mùa Chay cuối cùng của cuộc đời; và hãy biết lợi dụng cơ hội Chúa ban để trở về.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

 - Thiên Chúa cho chúng ta sống trong thế gian là để chúng ta mưu cầu lợi ích cho phần rỗi linh hồn của chúng ta và của tha nhân.

- Nếu sau khi Thiên Chúa đã cung cấp mọi cơ hội để chúng ta có thễ lãnh nhận ơn cứu độ mà chúng ta vẫn từ chối, Ngài phải cất đi để chúng ta đừng làm thiệt hại phần hồn cho người khác.


- Hãy biết nắm lấy cơ hội như là cơ hội cuối cùng của cuộc đời, vì chúng ta không biết cơ hội có đến nữa hay không. Đàng khác, tại sao không tận dụng cơ hội để sống hạnh phúc và bình an ngay từ bây giờ để khỏi làm nô lệ cho xác thịt, thế gian và quỉ thần.


Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên,OP.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét