SUY NIỆM : Vui Với Toàn Thể Hội Thánh
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót để kêu gọi chúng ta hối cải trở về với Người. Các bài Kinh Thánh hôm nay còn nói về lòng thương xót của Chúa một cách rõ ràng hơn nữa. Chúng cho chúng ta thấy nỗi sung sướng của Người khi có thể thi hành lòng thương xót; và Người kêu gọi chúng ta chia sẻ niềm hân hoan thương xót ấy. Thế nên Chúa nhật hôm nay đáng được gọi là Chúa nhật Vui Mừng trong mùa Chay, để khi phấn đấu theo gương Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thánh giá, chúng ta luôn phấn khởi vì đạo Tin Mừng.
1. Vui Vì Ðược Cứu Ðộ
Bài sách Giôsua hôm nay chỉ có mấy câu, nhưng ghi lại một niên hiệu đáng muôn đời nhớ mãi trong lịch sử dân Chúa. Hôm nay "Chúa lăn nỗi nhục Ai Cập ra khỏi con cái Israen". Người cuộn thời gian ô nhục của họ ở bên Ai Cập lại một cách vĩnh viễn. Vẫn biết họ từ giã đất nô lệ Ai Cập ngay từ khi vượt qua Biển Sậy. Nhưng ròng rã 40 năm nơi sa mạc, con cái Israen vẫn còn mang nhiều tồn tại của thời ô nhục nơi đất khách quê người. Dĩ chí có những kẻ còn chưa cắt bì; và phần lớn còn ăn ở như những kẻ không cắt bì. Tất cả những sự ấy, hôm nay Chúa cuốn lại và không còn mở ra nữa. Nói theo kiểu văn chương ngày nay Chúa đã rỡ một trang sử qua rồi cho dân Người; và từ nay bắt đầu một trang sử mới. Chính vì vậy người ta đã đặt một tên mới cho nơi xảy ra sự việc ngày hôm nay. Nó được gọi là Gilgal và có nghĩa là "cuộn lại", vì Chúa đã cuộn nỗi ô nhục Ai Cập lại xa khỏi dân Người ở nơi chốn này vào ngày hôm nay.
Nhưng người ta chỉ nới cũ khi có mới. Chúa chỉ cuộn thời đại cũ lại vì đã có thời đại mới. Việc "có mới nới cũ" này cũng là một cuộc vượt qua. Thế nên hôm nay con cái Israen cử hành lễ Vượt Qua. Họ không tổ chức nơi đền thờ nhưng nơi hoang dại miền Giêrichô để duy trì tính chất gia đình của lễ này. Dĩ nhiên họ nhớ lại cuộc Vượt Qua Ai Cập ngày xưa; nhưng họ cảm thấy rõ ràng cuộc Vượt Qua bấy giờ, hôm nay mới kết thúc. Hôm nay họ mới được mừng Vượt Qua nơi Ðất Hứa. Và rõ ràng họ đã thôi một nếp sống cũ và chuyển qua một nếp sống mới. Trước đây họ là dạng lang thang, du mục; từ nay họ cư ngụ nơi Ðất chảy sữa và mật. Cuộc vượt qua này không lớn lao sao? Mọi sử gia đều làm chứng có cuộc chuyển biến quan trọng trong nếp sống của con người từ chế độ du mục qua chế độ định canh.
Cũng vì vậy, tác giả bài sách hôm nay không muốn diễn tả tí nào lễ Vượt Qua. Ông bỏ rơi mọi nghi lễ để chỉ chú trọng đến những nét mới mẻ của đời sống mới. Ông nói: con cái Israen đã ăn các thổ sản trong xứ. Ðặc biệt họ không còn ăn Manna nữa nhưng đã ăn cốm rang. Ðúng hơn họ không còn ăn Manna nữa vì đã có thóc lúa của địa phương. Manna không phải là lương thực của người đã về tới quê, mà chỉ là lương thực của kẻ đi đàng. Nó cần thiết cho con người khi trở về Ðất Hứa; nhưng đến nơi rồi nó trở thành vô dụng. Chính vì vậy Manna trở thành hình ảnh của Thánh Thể, cũng chỉ cần cho con cái Chúa khi sống ở trần gian. Sau này trên Nước Trời, chính Chúa sẽ làm cho họ no thỏa mà không cần bí tích nào nữa...
Như vậy, việc con cái Israen đến định canh ở Ðất Hứa hôm nay báo trước việc chúng ta vào Nước Trời sau này, khi đã chấm dứt cuộc hành trình lữ thứ trần gian. Nó khiến chúng ta thèm số phận của con cái Israen ngày xưa ư? Vì sánh với những kẻ đã vào Ðất Hứa, chúng ta còn là lữ hành? Có phần đúng và điều này nhắc nhở chúng ta phải có tu đức và tác phong của lữ khách: không bám víu vào trần gian, nhưng luôn phải lên đường; và nhất là luôn phải nhờ Thánh Thể nuôi sống vì đó là lương thực của dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Tuy nhiên chúng ta phải phấn khởi vì việc con cái Israen vào Ðất Hứa bả đảm việc chúng ta sẽ vào tới Nước Trời. Hơn nữa nó còn nhắc chúng ta nhớ đến hạnh phúc của người Kitô hữu. Họ cũng đã được đưa ra khỏi thế gian để đi vào nước sáng láng của Con Thiên Chúa. Những thực tại thiêng liêng Chúa ban cho họ hằng ngày trong đời sống Kitô hữu vượt xa những nắm "cốm rang" ngày xưa của con cái Israen. Chúng ta hãy vui mừng vì những việc ấy và vì mạc khải lớn lao mà Chúa dành cho chúng ta ở trong Nước Trời mà bài Tin Mừng hôm nay muốn thông tri cho chúng ta.
2. Vui Với Toàn Thể Hội Thánh
Thánh Luca là tác giả duy nhất đã thuật lại dụ ngôn hôm nay. Người kể lại sau hai chuyện cũng cùng một ý tưởng. Chuyện đầu tiên là dụ ngôn một người tìm thấy con chiên lạc của một đàn gần 100 con chiên. Và chuyện thứ hai nói về một người đàn bà tìm thấy đồng tiền đã mất. Cả hai câu chuyện đều kết thúc bằng lời van xin mọi người hãy vui vẻ chia sẻ nỗi vui mừng đã tìm thấy những của đã mất. Và đó cũng là câu kết thúc bài dụ ngôn hôm nay về người con trở về. Như vậy câu chuyện chỉ là cớ, điều mà tác giả Luca muốn diễn tả là niềm vui và kêu gọi mọi người cùng chung vui với kẻ tìm lại được những gì đã mất hoặc đã lạc.
Trong câu chuyện hôm nay, chủ động là một người Cha với hai đứa con. Ðứa trẻ hơn đến xin Cha chia gia tài cho mình, rồi nó đi xa, sống trác táng, phá tan cả sản nghiệp.
Dĩ nhiên người ta có thể đoán nó đã cạn túi vì bọn đĩ điếm như thói thường ở đời. Sạch của rồi, nó phải đi làm thuê ở mướn, và chăn heo cho người ta. Nó thèm đến cả cám heo. Thật đầy tớ ở trong nhà Cha nó cũng còn dư ăn! nghĩ vậy, nó quyết tâm trở về, và sẽ lựa lời để được số phận của những người này.
Với những nét tả như vậy, đứa con hoang này có đáng khen không? Hình như Luca không cho rằng nó đáng thương nữa. Không kể đời sống bê bối của nó; việc nó trở về cũng đầy tính toán và bần tiện. Nó đâu đã muốn hối cải; nó chỉ mong ra khỏi thân phận chết đói, nó chẳng đáng thương, thế mà vẫn được thương. Ðó mới là điều mà tác giả Luca muốn diễn tả. Ông viết về đứa con hư như thế là để làm nổi bật lòng thương lạ lùng của người Cha.
Mà thật vậy, lòng người Cha tốt lành chi lạ! Ðứa con về đang còn ở đàng xa mà ông đã thấy nó. Ông đã chạnh lòng thương nó. Ông quên cả tư cách đạo mạo, dè dặt của một người Cha trong một gia đình nề nếp ở Ðông phương. Ông không nhớ mình đã chân yếu tay mềm. Ông chạy ra đón nó, ôm cổ nó mà hôn. Nó vừa mới bập bẹ vài câu ông đã quay bảo đầy tớ mau mau đem áo quần và trang sức mới ra mặc cho nó; và lập tức hãy đem bò tơ nẫy ra hạ đi để khao ăn vì, ông nói: "Này, con ta đây, nó đã chết mà đã hoàn sinh, đã mất mà tìm lại được".
Chúng ta có thể để ý, ông không nói gì với đứa con. Nó chưa đáng nói, nó chưa hoàn toàn. Nó còn phải thấy lòng Cha thương nó, rồi nó mới thay đổi được. Ít ra ông hy vọng như vậy. Ông đã chỉ nói với tôi tớ và ông muốn nói với mọi người. Ông xin mọi người chia sẻ niềm vui của ông. Ông thật quá tốt.
Nhưng ngay đến đứa con cả trong nhà cũng không hiểu được ông. Cậu ở ngoài đồng về. Cậu thấy trong nhà có đàn ca múa hát. Cậu gọi một tên đầy tớ ra hỏi dò. Biết chuyện đứa em về mà Cha cho bày tiệc mừng như vậy, cậu nổi giận, không thèm vào nhà. Người Cha đi ra dỗ dành cậu. Cậu phân phô lẽ hơn thiệt. Cậu có lý nên người Cha đứng nghe, khác với lúc khi đứa con hoang trở về muốn thưa bẩm. Ông công nhận hết mọi lời cậu nói. Nhưng đây là điều con ông chưa bao giờ nghĩ đến: "Này con, con hằng ở với Cha thì tất cả của Cha đều là của con. Nhưng phải ăn khao mà mừng chứ. Vì em con đó, nó đã chết mà lại sống, đã mất đi mà lại tìm thấy được".
Tác giả Luca đã không viết gì thêm. Ông dừng lại ở đây để độc giả viết nốt câu chuyện. Ðúng hơn Ðức Giêsu đã dừng lại bài dụ ngôn ở chỗ này để thính giả của Người suy nghĩ. Họ là ai, chúng ta có thể đoán được. Họ là người con cả trong câu chuyện mà người Cha vừa nói mấy câu để cho suy nghĩ.
Muốn rõ hơn, chúng ta chỉ cần đọc lại những câu đầu tiên mà Luca đã viết trước khi kể bài dụ ngôn về con chiên lạc, về đồng tiền mất và về lòng thương xót của người Cha. Người viết: "Các người thu thuế, cùng những kẻ tội lỗi hết thảy thường lui tới bên Ngài để nghe Ngài. Và biệt phái kêu trách. Họ nói: Ông tiếp đón quân tội lỗi và ăn uống với chúng". Ngài mới nói cùng họ những dụ ngôn sau này...
Như vậy, người Cha ở đây không cần phải là Cha chúng ta ở trên trời. Lòng thương xót bao la của Người đã nhập thể nơi con người Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đang tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi khiến bọn biệt phái phải kêu trách. Họ kêu trách vì họ tưởng mình nhân đức và đòi được đối xử xứng đáng. Thiên Chúa phải dành tất cả sản nghiệp Nước Trời cho họ và cho một mình họ mà thôi; Phường thu thuế, quân tội lỗi không được phép tham dự những của thánh ấy. Thế mà Ðức Giêsu, người tự xưng đã được Chúa Cha sai đến, lại đi tiếp đón bọn thu thuế và tội lỗi... Với bài dụ ngôn hôm nay, phải chăng Ðức Giêsu đã không muốn nói với những kẻ suy nghĩ như vậy, lời mà Người có lần bảo họ: hãy đi mà hiểu lời này: Ta muốn lòng thương xót chứ không phải hy lễ!
Nhưng như vậy dụ ngôn này có còn nói gì với chúng ta không, vì đâu chúng ta còn muốn nghĩ như biệt phái? Thiết tưởng chúng ta vẫn còn có thái độ dửng dưng đứng ngoài niềm vui lớn lao của lòng Chúa thương yêu. Người vẫn tiếp tục kêu gọi và đón nhận những phường thu thuế và tội lỗi, tức là những phần tử xã hội ít được thiện cảm của chúng ta. Người vẫn rộng rãi với họ. Hội Thánh gồm một phần lớn những người như họ. Chúng ta chưa biết chung vui với họ như Chúa đang tỏ lòng quảng đại với họ, khiến trái tim chúng ta chưa giống như trái tim Chúa. Và vì vậy sự thánh thiện của chúng ta cũng chưa có gì đáng kể. Do đó chúng ta hãy nghe Lời Chúa, nhìn anh em đang đến với Chúa trong mùa Chay. Chúng ta hãy nhập hội tham gia, nếu chưa muốn khá hơn nữa là còn đi rao giảng Tin Mừng cứu độ cho anh em như lời Phaolô hôm nay viết.
3. Sứ Vụ Hòa Giải
Thánh tông đồ biết rằng: ai ở trong Chúa Kitô thì là tạo thành mới; cũ đã qua đi và mới đã thành sự. Những lời này trở nên ý nghĩa biết bao trong thánh lễ hôm nay, sau khi đã đọc bài Cựu Ước viết về việc con cái Israen đã được chuyển sang một đời sống mới hoàn toàn sánh với những năm tháng lang thang du mục qua sa mạc. Dân cũ đã phải lao nhọc biết bao để vượt qua được nếp sống cũ và đi vào cuộc sống mới. Ðang khi ấy, nhờ Chúa Kitô, ai kết hợp với Người thì đều trở thành tạo vật mới. Trước đây tội lỗi và ở dưới chế độ thù địch với Thiên Chúa nay họ được trở nên thánh thiện và sống đời làm con yêu dấu của Người. Mọi sự đó đều do Thiên Chúa, vì Người đã thương giảng hòa ta lại với chính Người nhờ Chúa Kitô. Và một lần nữa chúng ta lại thấy lòng thương xót bao la của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô. Lòng thương của người Cha trong bài Tin Mừng đã lớn, nhưng sánh với lời Phaolô viết dưới đây về lòng thương thật sự của Thiên Chúa, chúng ta khó có thể hiểu nổi.
Quả vậy: "Ðấng không hề biết tội thì với ta, Thiên Chúa đã cho làm thành sự tội để trong Ngài ta được trở thành sự công chính của Thiên Chúa". Phaolô có ý nói đến việc Ðức Giêsu Kitô tuy vô tội, nhưng đã chấp nhận mang lấy mọi tội của chúng ta lên cây thập giá theo lệnh của Chúa Cha, để nhờ đó chúng ta được khỏi tội. Lẽ nào chúng ta không biết cảm mến một tình thương như vậy? Chúng ta hãy lo làm hòa lại với Thiên Chúa trong mùa Chay này. Chúng ta hãy chạy đến tòa cáo giải để trút bỏ tội lỗi trên cây thập giá Ðức Kitô và đóng đinh xác thịt vào thánh giá của Người, để ơn công chính hóa lại được ban cho chúng ta. Chúng ta lại trở thành tạo vật mới, có thể cử hành lễ Vượt Qua như con cái Israen ngày trước. Và cho được như vậy, chúng ta hãy nghe lời Hội Thánh rao giảng trong mùa Chay này. Ðây là sứ vụ hòa giải, Thiên Chúa đã trao cho Hội Thánh. Chính Người khuyên bảo, khi Hội Thánh rao giảng vì Hội Thánh chỉ thay mặt Ðức Kitô và tiếp nối sứ mạng của Ngài mà bài Tin Mừng hôm nay đã cho thấy Ngài tha thiết với việc tội nhân trở về như thế nào.
Vậy nếu chúng ta muốn chia sẻ thật sự lòng thương xót của Chúa như các bài Kinh Thánh hôm nay cho biết, chúng ta phải tiếp tay và cộng tác với Hội Thánh trong sứ vụ hòa giải. Chúng ta làm thế nào để nhiều người và hết mọi người trở về với Chúa trong mùa Chay này: có bao nhiêu thói quen xấu trong xã hội mà chúng ta có thể xa tránh hoặc dẹp đi để giáo xứ và gia đình chúng ta trong mùa Chay này tỏ ra thánh thiện đạo đức hơn? Và tạo được bầu không khí đông đủ sốt sắng cho những buổi Phụng Vụ trong mùa Chay cũng là một cách mở hội ăn mừng ngày nhiều con cái Chúa trở về với Người.
Ngay giờ phút này đây, chúng ta có thể bắt đầu làm những công việc như thế. Chúng ta tạo cho thánh lễ này một bầu khí như mở hội bằng thái độ tham gia của chúng ta. Chúng ta sốt sắng ca hát, cầu nguyện và thờ phượng với mọi người. Nhất là chúng ta đang quyết tâm trở về với Chúa, đến rước Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn. Ðang khi ấy chúng ta thêm cảm tình và lòng mến đối với anh em. Chúng ta nhận biết nhau nhiều hơn mọi khi và nhất là nếu có thể được thầm hứa sẽ động viên nhau tạo cho mùa Chay này một tinh thần và một bầu khí mới mẻ như của một cuộc vượt qua, một cuộc đổi mới, một thời đại hội trong ý nghĩ giảng hòa với Chúa và với mọi người. Ðược những tâm tình như vậy, chúng ta xứng đáng cử hành thánh lễ Chúa nhật Vui Mừng của mùa Chay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm C
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hoà giải với Thiên Chúa và với tha nhân
Nếu con người biết vâng lời Thiên Chúa và giữ trọn Thập Giới, họ sẽ sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, và với thế giới chung quanh. Thiên Chúa sẽ chúc lành cho mọi việc họ làm và bảo vệ họ khỏi mọi điều nguy hiểm hồn xác. Nhưng con người đã không giữ lời Thiên Chúa dạy, họ nghe theo tiếng gọi của ba thù và đảo lộn mọi trật tự của Thiên Chúa. Họ khước từ tình yêu đích thực của Thiên Chúa, cha mẹ, và anh em để chạy theo những tình yêu giả dối và tạm thời. Mùa Chay là mùa Thiên Chúa kêu gọi con người xét lại mối liên hệ của con người đối với Ngài và với nhau, để hòa giải và sống đúng các mối liên hệ trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa và với nhau. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa dẫn đưa con cái Israelvào Đất Hứa, sau cuộc Xuất Hành và thanh luyện 40 năm trong sa mạc. Ngài truyền cho ông Joshua phải cắt bì cho tất cả những người nam của Israel tại Ghilgal, như một giao ước phải tuân giữ: Ngài sẽ bảo vệ và chúc lành nếu họ tuân giữ các thánh chỉ và Lề Luật của Ngài. Trong Bài Đọc II, con người tự mình không thể giao hòa với Thiên Chúa vì tất cả đều phạm tội; nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã cho Đức Kitô, Người Con duy nhất xuống trần để đền tội cho con người. Đức Kitô là lý do con người được giao hòa với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, người con thứ khước từ tình yêu chân thật của cha để chạy theo những tình yêu gian dối và tạm thời của thế gian; nhưng khi nhận ra tình yêu đích thực, anh đã mạnh dạn trỗi dậy và quay về để hòa giải với cha và với anh của mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập."
1.1/ Chấm dứt hành trình 40 năm trong sa mạc: Đức Chúa phán với ông Joshua: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập." Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghilgal cho đến ngày nay. Biến cố Xuất Hành và thanh luyện trong sa mạc suốt 40 năm là thời kỳ Thiên Chúa sống mật thiết với con cái Israel. Ngài theo họ trong suốt cuộc hành trình để hướng dẫn, dạy dỗ, thanh luyện, và bảo vệ; trước khi dẫn đưa họ vào Đất Hứa. Trình thuật hôm nay kết thúc cuộc hành trình, Ngài ký kết với họ giao ước tại Ghilgal qua sự kiện ông Joshua cắt bì cho tất cả các người nam củaIsrael: Ngài sẽ bảo vệ họ sống hạnh phúc trong Đất Hứa nếu họ tuân giữ cẩn thận các giới răn của Ngài.
1.2/ Bắt đầu cuộc sống trong Đất Hứa: “Con cái Israel đóng trại ở Ghilgal và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Jericho. Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn manna nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Canaan.” Bắt đầu cuộc sống tự do trong Đất Hứa, con cái Israelkhông còn lý do nào để than phiền và làm nô lệ cho tội lỗi. Họ được hưởng dùng tất cả những của ngon vật lạ trong Đất Hứa, vùng đất chảy sữa và mật. Họ được tự do sống mối liên hệ yêu thương và trung thành với Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II: Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người.
2.1/ Đức Kitô đã chịu chết để con người được hòa giải với Thiên Chúa: Theo thánh Phaolô, tất cả mọi người đều đã vi phạm Lề Luật; vì thế, họ phải chịu hình phạt Thiên Chúa ra là phải chết. Không một ai có thể cho mình là công chính trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng cuộc sống đời đời; nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa đã cho Đức Kitô, Người Con duy nhất xuống trần để đền tội cho con người. Nhờ Máu của Người đổ ra trên Thập Giá, Người đã giao hòa con người với Thiên Chúa và với nhau. Trước khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, con người làm nô lệ cho tội lỗi và phải chết. Sau khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, họ trở nên một tạo vật mới: tội lỗi không còn thống trị con người nữa; con người được trở nên công chính; và con người không phải chết, nhưng được sống đời đời.
2.2/ Các tông đồ được Đức Kitô trao ban sứ vụ hòa giải: Trong Kế Hoạch Cứu Độ, Đức Kitô chọn các tông đồ và trao ban cho các ông và những người kế vị, sứ vụ giao hòa con người với Thiên Chúa (Mt 16:19; Lk 24:47). Thánh Phaolô cũng được trao ban sứ vụ hòa giải; vì thế, thánh nhân kêu gọi tất cả các tín hữu: “Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải… Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.
Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.”
3/ Phúc Âm: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha.”
3.1/ Quay mặt đi với tình yêu đích thực: Tại sao người con thứ bỏ đi? Trình thuật không nêu rõ lý do, nhưng chúng ta có thể phỏng đoán những lý do sau: Thứ nhất, cậu nghĩ cuộc sống kỷ luật trong gia đình giới hạn sự tự do của cậu; vì thế, cần thoát ly gia đình để có thể làm tất cả những gì mình muốn. Thứ hai, cậu không cảm nhận được tình yêu của cha dành cho và hạnh phúc khi còn sống trong mái ấm gia đình, và muốn chạy theo những tiếng mời gọi hấp dẫn hơn của xác thịt, bè bạn, và thế gian. Sau cùng, cậu nghĩ có tiền và có tự do là sẽ có hạnh phúc; nhưng cuộc đời không đơn giản nhưng cậu tưởng.
3.2/ Người con thứ nhận ra tình yêu chân thực của cha và hạnh phúc của mái ấm gia đình: Con người thường hay giả định mọi sự phải như vậy thay vì biết suy nghĩ tại sao những sự ấy xảy ra; nhưng khi đã mất rồi, con người mới biết trân quí khi nhận lại. Người con thứ phải trải qua đói khát và đau khổ để nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và của cha mình. Khi xa cha, phẩm giá con người của cậu còn thua cả loài heo, là con vật được coi là nhơ bẩn theo truyền thống Do-thái. Là một con người mà muốn ăn thứ heo ăn cũng không ai cho. Cậu hồi tưởng tới những đầy tớ ở nhà cha mình: Đầy tớ của cha còn có cơm gạo dư thừa để ăn, thế mà phận làm con phải chết đói.
Khi đã nhận ra đâu là tình yêu và hạnh phúc đích thực, cậu can đảm bảo mình: Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.”
3.3/ Hạnh phúc khi con người được hòa giải: Người cha tuy đau khổ phải xa con; nhưng ông biết ông không thể giữ con ở nhà, nên ông đã đau khổ chia gia tài cho con. Ông biết có thể ông sẽ mất con vĩnh viễn, nhưng ông hy vọng đói khát và đau khổ sẽ làm cho con ông nhận ra đâu là tình yêu đích thực và quay về với ông. Nhiều người thắc mắc tại sao ông biết lúc nào con trở về và nhận ra cậu ngay khi còn ở đàng xa. Điều này chỉ có thể trả lời bằng tình yêu mà ông dành cho con, ông phải ra đầu ngõ ngóng chờ mỗi ngày để có thể thấy con từ xa như trình thuật hôm nay.
Chúa Giêsu đưa tình phụ tử lên tới tuyệt đỉnh khi mô tả thái độ của người cha đón con về: Không giống như người cha thế gian ngồi đợi con đến trước mặt và nói lời xin lỗi trước khi người cha có thể tha thứ; người cha trong trình thuật chạy ra trước đón con, ông không đòi một điều kiện nào, và cũng chẳng đợi cho con nói hết lời xin lỗi; ông phục hồi tất cả phẩm giá cho con mình khi nói với các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng.
3.4/ Tính ghen tị là kẻ thù của tình yêu: Người con cả tuy ở nhà với cha luôn; nhưng vẫn không hiểu tình yêu của cha mình. Anh làm việc vất vả không phải vì thương cha; nhưng hy vọng sẽ được thừa hưởng tất cả những gì cha để lại. Anh nghĩ mình có lý do để tức giận vì sẽ phải chia gia tài với em mình lần nữa. Anh đặt giá trị vật chất lên trên tình phụ tử và tình huynh đệ khi nói thẳng vào mặt cha mình: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
Anh không một chút quan tâm đến tình cảm của cha mình, cho dù anh đã được chứng kiến nỗi đau khổ của cha mỗi ngày ra ngõ ngóng con. Nếu cảm nhận được tình yêu với cha, anh phải vui chung với niềm vui của cha, chứ không để cho niềm vui của cha chưa trọn đã phải đương đầu với một đứa con khác, đứa con cha anh tưởng nó yêu thương mình thật, nhưng nay khám phá ra nó yêu mình vì tài sản. Anh cũng chẳng còn chút tình cảm gì cho em. Khi nói với cha “thằng con của cha đó,” anh coi nó chẳng có chút liên hệ máu mủ ruột thịt gì với mình.
Trình thuật muốn nêu bật tình yêu chân thật, tha thứ, và vô vị lợi của người cha. Tuy bị phản kháng cách tàn nhẫn từ người con cả, ông vẫn hạ mình năn nỉ và khuyên con: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Chúng ta có thể rút ra rất nhiều những bài học khôn ngoan trong dụ ngôn hôm nay:
1. Tình cha có chỗ tất cả cho mọi người con. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.
2. Đừng bao giờ đặt những giá trị vật chất trên tình nghĩa gia đình. Mất của có thể tìm lại được; mất tình yêu gia đình, con người sẽ ôm hận suốt đời.
3. Tình yêu Thiên Chúa không quan tâm đến tội lỗi con người; nhưng Ngài cung cấp mọi cơ hội để con người nhận ra và đáp trả tình yêu của Ngài cách tự nguyện.
4. Nếu đã được Thiên Chúa yêu thương, hòa giải và tha thứ cách vô điều kiện; con người cũng phải cư xử như thế cho những ai có lỗi với mình.
5. Đừng mù quáng chạy theo những tình yêu giả trá hay chóng qua; hãy biết quay về để sống yêu thương và hạnh phúc với những ai yêu thương mình chân thành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thời gian và việc thanh luyện cần thiết vì chúng giúp con người nhận ra đâu là tình yêu đích thực giữa bao tình yêu ích kỷ và giả trá.
- Chỉ một mình Thiên Chúa là tình yêu đích thực; vì Ngài không quan tâm đến tội lỗi, luôn tìm mọi cách đưa con người trở về, và yêu thương con người đến cùng.
- Càng xa Thiên Chúa bao nhiêu con người càng đau khổ bấy nhiêu, và phẩm giá con người bị hạ giá tới độ không bằng một con vật. Khi quay về với Thiên Chúa, Ngài sẽ phục hồi xứng đáng phẩm giá của chúng ta như các con cái của Ngài.
Linh Mục An-tôn Đinh Minh Tiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét