Trang

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

Lời Chúa Mỗi Ngày Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC




Tin Mừng cho lương dân
Suy Niệm:
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
Chúng ta đọc: Isaia 60,1-6
Thư Êphêsô 3,2-3a.5-6
Tin Mừng Matthêô 2,1-12
Lễ Hiển linh ngày nay không còn long trọng như ngày trước. Nó không còn là cao điểm có nhiều Chúa Nhật theo sau làm thành một mùa phụng vụ Hiển linh nữa. Nay, Hiển linh chỉ còn là lễ sau hết của mùa Giáng sinh. Và như thế cũng dễ hiểu. Vì Hiển linh là gì, nếu chẳng phải là việc Ðấng Linh thiêng tỏ hiện ra? Thế mà còn việc tỏ hiện nào rõ rệt hơn chính Ðấng Linh thiêng mặc lấy xác thịt sinh ra làm người? Giáng sinh là Hiển linh vậy.
Tuy nhiên, lễ Hiển linh hôm nay cũng có một đối tượng rõ rệt. Nó nói đến việc Thiên Chúa Giáng sinh làm người tỏ mình ra cho dân ngoại, cũng như Người đã tỏ mình ra cho dân Dothái khi gọi mục đồng đến thờ lạy và khi để cho ông Simêon và bà Anna nhìn thấy Người nơi Ðền thờ. Lễ Hiển linh nằm trong mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ bản tính thần linh của Người ra cho mắt phàm của loài người chúng ta được nhìn thấy Người. Nhưng những kẻ được nhìn thấy Người hôm nay không phải là dân Dothái nữa, mà là các dân ngoại. Và điều này được cả ba bài đọc Kinh Thánh của Phụng vụ Thánh lễ hôm nay đồng thanh nói lên.

1. Isaia Ðã Tiên Báo Mầu Nhiệm Này
Bài sách của ông ngày nay được thẩm định như một bản văn khởi hứng vào mùa thu năm 520. Dân Dothái mới được phép hồi hương. Ðoàn người đạo đức về trước đã lập lại được bàn thờ ở Yêrusalem và đang xây dựng lại cả ngôi thánh đường ngày trước. Ai ai cũng phấn khởi. Dịp lễ Trại càng nô nức hơn nữa. Có lẽ chính bối cảnh đó đã khởi hứng cho tác giả của đoạn tiên tri hôm nay.
Ông nhìn vào các tường thành đang mọc lên và ông thốt ra lời phấn khởi: hãy vùng đứng, hỡi Yêrusalem; vì ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ đã tỏa xuống trên ngươi. Hết rồi các thời ngươi bị nhục nhã tiêu điều trong cảnh lưu đày.
Ngược lại, kìa xem các dân tộc đang tối tăm trong gió bụi. Bàn tay Thiên Chúa đang đè nặng trên họ. Còn ngươi, bây giờ bình an đang xây lại giao ước với Thiên Chúa tín thành... Người mà vùng lên trong chiều hướng này thì rõ ràng các Lời Thiên Chúa cùng tổ phụ chúng ta sẽ thực hiện. Mọi dân đang đi trong tối tăm lầm lạc sẽ nhìn thấy ánh sáng chiếu trên ngươi mà tuôn đến. Họ đem theo cả con cháu ngươi đã phân tán trong thời lưu lạc trở về. Họ mang nhiều thổ sản đến dâng lễ cho Thiên Chúa.
Như vậy tác giả đã căn cứ vào thực tại để nói lên niềm tin vào tương lai theo như lời Chúa hứa. Lời của ông đúng thật là lời tiên tri, theo nghĩa tiên báo về thời sau hết, khi mọi Lời Hứa được thực hiện. Do đó nó vượt xa hơn cả thời thiên sai nữa, nếu ta hiểu thời này là lúc Chúa Cứu thế sinh ra trong xác thịt. Nó nói về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền thật có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Yêrusalem trên trời (21,9-27).
Nhưng không thể có Yêrusalem trên trời trước khi có Yêrusalem dưới đất. Không phải Yêrusalem "hình bóng" nơi dân Dothái mà là Yêrusalem "chân thật" là Hội Thánh chúng ta.
Do đó, lời tiên tri hôm nay cũng đưa về Hội Thánh đang trên đường lữ thứ trần gian, Hội Thánh mà Công đồng Vatican 2 đã tuyên xưng là "ánh sáng muôn dân". Và trong thực tế, Hội Thánh này đang quy tụ muôn dân muôn nước, mà trước đây là dân ngoại. Hội Thánh đã được ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi ngay từ hôm Thánh Thần hiện xuống. Các dân tộc bắt đầu đến với Hội Thánh ngay từ hôm đó. Sự hiện diện của Hội Thánh ở giữa thế giới nói lên rằng lời tiên tri Isaia đang được thực hiện.
Và như thế là nhờ ở ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ đang tỏa trên Hội Thánh như mây sáng phủ trên Lều Giao ước trên đường đi giữa sa mạc. Vì nếu không có "Chúa ở với Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế", Hội Thánh không thể quy tụ được muôn dân nước như vậy. Chính Ðức Yêsu, Con Thiên Chúa giáng trần làm người đã đem ánh sáng mới vào thế gian và đặt nơi Hội Thánh. Chính Người sau khi tử nạn và phục sinh đã tuôn đổ Thánh Thần xuống dưới hình lưỡi lửa để Hội Thánh trở thành ánh sáng muôn dân.
Và như thế lời Isaia nói về Yêrusalem ở thời cánh chung cũng như trong giai đoạn lữ thứ trần gian, cuối cùng phải căn cứ vào việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh trong xác thịt để tỏ vinh quang Thần tính cho thiên hạ được thấy. Phụng vụ có lý để đọc bài tiên tri này trong ngày lễ hôm nay. Và chúng ta được khuyến khích nhìn vào con trẻ thành Bêlem như là cứu tinh các dân tộc, vì Người thật là ánh sáng chiếu trong Hội Thánh.

2. Thánh Mátthêu Nhìn Thấy Mầu Nhiệm
Người diễn tả mầu nhiệm trong bài Tin Mừng hôm nay. Bề ngoài người như muốn thuật truyện, nhưng thật ra người đã mượn truyện để nói lên niềm tin Ðức Yêsu là ánh sáng muôn dân và là nhà của Người là Hội Thánh sẽ tập họp muôn nước. Chính vì vậy mà câu truyện người kể có nhiều thiếu sót về văn chương khiến hậu thế đã tìm cách bổ sung bằng nhiều ý kiến khác thường.
Người ta muốn xác định có những vị vua từ Batư tới mang theo các lễ vật để dâng Chúa. Vìcó vàng, hương và mộc dược nên hãy quy định họ là phái đoàn 3 người cho tiện. Ðàng khác, con số 3 này lại nhắc nhở tới 3 người con Noe là tổ phụ của tất cả loài người sau nạn lụt. Họ có thể đã từ Batư tới bởi vì năm 614 khi quân đội nước này đến tàn phá thánh địa họ đã kính trọng đền thờ ở Bêlem vì trong đó có họa những người mặc y phục Batư đến thờ lạy Hài nhi. Nhưng nếu như vậy thì không nên coi họ là vua cho dù danh từ hợp với những câu thánh vịnh (72,10) nói rằng: "Vua Chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật; Vua Chúa Sêba và Saba sẽ đem triều cống lại chầu". Ở Batư không có nhiều vua cùng một lúc, nhưng lại có nhiều đạo sĩ, cũng là những nhà hiền triết thông thạo Kinh Thánh Batư và thường được các hoàng đế Batư thỉnh vấn. Nabuchodonosor khi đến Yêrusalem (Yr 39,3-13) cũng đem theo một vị đạo sĩ như thế để bàn hỏi.
Nhưng tất cả những yếu tố đó không quan trọng đối với thánh Matthêu. Người chú trọng giới thiệu Ðức Yêsu là Cứu thế, Ðấng mà ở thời thánh Matthêu, người Dothái không chịu công nhận đang khi các dân ngoại gia nhập Hội Thánh. Thế nên vai trò chính trong câu truyện là những con người đến từ phương Ðông và các tư tế ở Yêrusalem. Dân ngoại nhờ đường lối tự nhiên đã khởi sự tìm ra Chúa; trong khi dân Dothái có sách Thánh mà không biết đến Người. Nói đúng hơn, dân ngoại cũng phải nhờ người Dothái công bố sách Thánh thì mới thành công trong việc đi theo đường lối tự nhiên, bởi vì ơn cứu độ bởi dân Dothái mà đến. Nhưng dân này đọc sách Thánh mà không hiểu, đang khi chỉ một vài chỉ dẫn của Thánh Kinh đã giúp được dân ngoại lên đường gặp Chúa.
Ở đây nói cho đúng không phải là lời sách Isaia mà là lời tiên tri Mikê, cũng đồng thời với Isaia. Mikê thấy dân Chúa đang hoảng hốt trước sức mạnh xâm chiếm của ngoại bang (Assyria), ông được lệnh an ủi và củng cố dân... Không có gì phải sợ tên "Gôliát" ấy, vì Chúa sẽ cho xuất hiện một Ðavít mới từ Bêlem, làng nhỏ xíu của đất Yuđa. Như vậy thì Bêlem đâu có nhỏ nữa; nên thánh Matthêu mới đổi lại câu và viết: Bêlem hẳn không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Yuđa. Thánh Matthêu nghĩ đến Chúa Yêsu sinh ra ở Bêlem, Người sẽ làm lớn vì sẽ chăn dắt Israel Dân Chúa.
Các đạo sĩ sẽ nhận ra Người khi nghe lời Kinh Thánh mà tiếp tục cuộc hành trình đã khởi sự từ phương Ðông. Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường. Chính nó đã khiến họ biết có một vị cứu tinh hay cứu thế đã ra đời, vì người xưa vẫn quan niệm đời những nhân vật xuất chúng thường gắn liền với một vì sao. Chúa cho họ thấy một sao lạ hiện ra ở trên trời. Họ đinh ninh ngay rằng đó là ngôi sao của một vị cứu tinh mới. Chúa dùng đường lối tự nhiên, phù hợp với họ, để đưa họ lên đường cứu rỗi. Họ đến Yêrusalem. Ðiều này làm chứng nỗi chờ mong vị cứu thế ở trong dân Chúa đã được những dân tộc chung quanh nghe biết. Họ hỏi vua Hêrôđê. Nhưng nơi dân Chúa, muốn biết chân lý phải đọc Thánh Kinh Lời Chúa sẵn đó, nhưng phải thi hành, có đi đến Bêlem mới gặp; chứ không cố gắng như các luật sĩ ở lại Yêrusalem thì chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng cứu độ đã tỏa xuống trên Yêrusalem mới là Hài nhi thành Bêlem và Hội Thánh mới mẻ của Người.
Như vậy, thánh Matthêu đã có nhiều ẩn ý khi viết bài Tin Mừng hôm nay. Ðó là Tin Mừng cho lương dân và đúng hơn cho Hội Thánh của Chúa Yêsu. Ngược lại nó gây lo lắng buồn phiền cho Yêrusalem cũ, là những người Dothái không đón nhận Chúa Yêsu. Ðúng như Yoan viết trong chương mở đầu sách Tin Mừng thứ tư: "Người đã đến trong nhà Người mà gia nhân của Người đã không tiếp nhận. Còn ai tiếp nhận thì Người đã ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa... Và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Người".
Ðiều này cũng là ý của bài thơ Phaolô hôm nay. Theo người: mầu nhiệm trong các thế hệ trước chưa hề thông tri cho con cái loài người, thì nay đã được mạc khải ra: ấy là dân ngoại cũng là kẻ thừa tự, là thân mình, và đồng hưởng lời hứa trong Ðức Yêsu Kitô nhờ Tin Mừng.
Nhưng không thể Phụng vụ hôm nay chỉ nói lên mầu nhiệm đó để Hội Thánh tạ ơn và để chúng ta biết mình đã được Chúa thương kêu gọi từ dân ngoại vào hưởng gia nghiệp Dân Chúa. Bài sách Isaia đã căn cứ vào thực tại nhưng muốn người ta nhìn xa hơn cho đến tận cùng lịch sử. Phụng vụ hôm nay cũng khuyên chúng ta hướng mắt về thời cánh chung mà vùng lên, bừng sáng lên để lôi cuốn, chỉ đường cho các dân tộc xây dựng ngày mai tươi sáng. Ý tưởng của bài thư Phaolô cũng vậy. Thánh Tông đồ viết ra để thúc đẩy chúng ta nhiệt tình với công cuộc truyền giáo. Và bài Tin Mừng rõ ràng khuyến khích mọi người lên đường tìm Chúa theo gương các đạo sĩ.
Chúng ta sẽ thành thật tham dự mầu nhiệm Hiển linh này, nếu sau khi thờ lạy Chúa trong Phụng vụ chúng ta cũng vươn lên, bừng sáng, tức là có nếp sống tốt đẹp hơn, để soi sáng cho người khác biết Chúa; chúng ta cũng phải lên đường với tha nhân, nêu lên với họ những câu nói về Chúa. Có khi chính chúng ta sẽ thấy phải rở lại sách Thánh; và lần này đọc lên chúng ta sẽ hiểu rõ thời điềm, tức là đọc thấy ý Chúa nơi mọi sự việc xảy đến hằng ngày. Có thể có nhiều ánh sao đang chờ đợi dẫn đưa chúng ta đến gặp Chúa và đưa người ta đến với Người. Và như vậy, năm nay cũng có một lễ Hiển linh cho chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.

Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.

1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.”
Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.

1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúahướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.

2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.

2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.

2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.

3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.

3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."

3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
- Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
- Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét