Trang

Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI TRONG KINH THÁNH

ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI TRONG KINH THÁNH

Sr. M. Luce chuyển ngữ từ P. Gironi, “Luce/Tenebre”,trong Nuovo Dizionario di Teologia Biblica
(P. Rossano – G. Ravasi – A. Girlanda), San Paolo, Milano 1988, tr. 857-863.





Nếu ánh sáng là đề tài nền tảng trong các cuộc nghiên cứu tôn giáo và trong các lãnh vực tìm hiểu biểu tượng học của văn hoá văn minh thế giới thì Ánh sáng cũng trải dài trong suốt mặc khải của Thánh Kinh. Thật vậy, Thánh Kinh mở ra với ánh sáng của công cuộc tạo dựng (St 1-2) và khép lại trong ánh quang của cuộc sáng thế và thành thánh Giêrusalem mới (Kh chương 21; 2Pr 3, 13). Giữa hai đầu cực này có thể tìm thấy in dấu những bản văn và những ý nghĩa khác đan chen lẫn nhau, diễn tả và trương rộng đề tài ánh sáng qua ngữ nghĩa học. Đó là: sự sống, hạnh phúc, cứu độ, hòa bình, phúc lành, sự hiện diện của Chúa, ngày của Chúa.


Bên cạnh đề tài ánh sáng luôn có nghĩa tích cực, Thánh kinh triển khai đề tài bóng tối luôn mang nghĩa tiêu cực. Vì thế bóng tối được thu nhận với tất cả khía cạnh phức hợp của hạn từ này, và quan niệm quy chiếu vào tất cả những thực tại đối lập với biểu tượng ánh sáng. Cặp từ tương phản Anh sáng/Bóng tối được triển khai đặc biệt trong các bản văn của Ngôi sứ Isaia 56-66, trong Tin mừng Gioan và một vài đoạn khác của thư Phaolô.


I. ÁNH SÁNG TRONG TRÌNH THUẬT SÁNG TẠO


Trình thuật sáng tạo theo truyền thống Tư tế (St 1, 1 – 2, 4a) gán cho ánh sáng lời chúc phúc đầu tiên của Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ: “Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp” (St 1, 4).


Vì thế ánh sáng trở thành thực tại hướng dẫn và soi chiếu toàn bộ công trình tạo dựng của Người: Trời cao, biển cả, đất đai, cây cỏ, trăng sao, chim chóc, cá biển, xúc vật, con người, tất cả đều được sinh ra trong ánh sáng. Chính vì vai trò này, cho nên trong tâm thức của con người, ánh sáng được nối kết mật thiết với sự sống (Br 3, 20; Tv 49, 20; G 3, 16.20): con người chào đời trong ánh sáng, tìm kiếm ánh sáng, bước đi trong ánh sáng, chạy trốn khỏi bóng tối, hoàn thành những hoạt động của ánh sáng, trở thành con cái của ánh sáng và con cái của ban ngày. Số phận của con người được định mệnh qua biểu tượng của ánh sáng và bóng tối, nghĩa là đến với sự sống hay là đi vào cõi tiêu diệt. Cuộc sống của con người trên trần thế phải đảm nhận những cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối, nơi đó những chọn lựa nền tảng được diễn tả qua hình ảnh sống động của bóng tối (tội lỗi và cái chết) và của ánh sáng (ơn cứu độ và sự sống). Đây là giai đoạn đầu tiên của suy tư tôn giáo: ánh sáng diễn tả ý nghĩa mà nó vượt lên trên thực tại trực tiếp của nó, vì nó mở ra với các nhân tố và những thực tại sâu thẳm nhất cho cuộc sống và chiều kích tôn giáo của con người.

Những trình thuật thời các tổ phụ (St 12-50) có thể được truy nguyên đến giai đoạn đầu tiên này, trong đó ánh sáng được trình bày qua những hình ảnh bao hàm ý nghĩa rộng hơn như: thị kiến (15, 1; 16, 13; 18 1tt; 28, 10-22; 32, 31; 46, 2), giấc mơ (20, 3; 26, 24; 31, 24); cầu vồng (9, 14; cf. Ed 1, 28), trời đầy sao (11, 5; 28, 12-13), lửa bốc cháy và thiêu rụi (15, 17; Xh 24, 17)…Tất cả những yếu tố này được đọc và hiểu trong bức tranh thần khải, nghĩa là sự mặc khải hay là sự tỏ hiện của Thiên Chúa cho con người. Thánh Kinh rất thích diễn tả cảnh vực thần linh này bằng những biểu tượng của ánh sáng.

Khác với các tôn giáo cổ, trong các trình thuật tạo dựng, ánh sáng và bóng tối được trình bày không giống như sức mạnh hay nguyên lý thần linh được đặt đối kháng với một Thiên Chúa duy nhất mà dân Israel tin tưởng, nhưng chúng được coi là những thụ tạo của Người. Chúng không tự luân phiên chuyển đổi nhưng là do Thiên Chúa điều khiển vận hành (St 1, 3. 18; Br 3, 33-35) và trở thành biểu tượng của tất cả những gì là tích cực hoặc tiêu cực trải khắp thế giới. Anh sáng là biểu tượng của ơn cứu độ mà Kinh thánh diễn tả qua những hình ảnh của các cuộc chiến thắng (Xh 14, 24; 2V 19, 35; Is 17, 14; Tv 46, 6), sự chiến thắng của quyền hạn và công bình (Xp 3, 5; Tv 37, 6; Os 6, 5; Is 59, 9) của sự chữa lành (Tv 56, 14; Is 58, 8; các phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mù), sự tỏa sáng từ dung nhan rạng ngời của Chúa (Ds 6, 25; Tv 4, 7; 36, 10; 89, 16). Trái lại, bóng tối nói đến tất cả những gì không phải là sự cứu độ và giải thoát, mà trọng tâm của nó là tội lỗi của con người (Hc 23, 25-26) như: đêm tối, thời của tội ác (G 24, 13tt; Ga 3, 20; Ep 5, 11), biểu tượng của sự lo lắng, xao xuyến, sợ hãi và phát xét chung cục của Thiên Chúa, mà chỉ có quyền năng của Ngài mới biến đổi những nét tiêu cực của bóng tối thành ánh sáng cứu độ (Is 8, 23 – 9,1; 10, 17; 42, 16; 58, 8-10; Mk 7,8; 2Cr 4, 6).


II. ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI TRONG XUẤT HÀNH


Với việc Thiên Chúa mạc khải tên của Người cho Mosê (Jhwh: Xh 3, 24) chúng ta bước sang giai đoạn thứ hai mở rộng ngữ nghĩa học của hạn từ ánh sáng. Hai bản văn Thập điều (Xh 20, 2-17; Đnl 5, 6-22), đưa ra mệnh lệnh cấm các người Israel không được kêu tên Chúa mà Người đã mạc khải. Vì thế Ngài ban cho mỗi người những yếu tố phong phú và ý nghĩa biểu tượng trong thế giới này để làm trung gian diễn tả danh tánh và thực tại của Người; ánh sáng ở giữa muôn biểu tượng đó. Các truyền thống Xuất hành từ đó cho ra đời và triển khai từ ngữ Thánh Kinh về Thiên Chúa, xây dựng trên biểu tượng của ánh sáng: Thiên Chúa là “cột lửa” (Xh 13, 21-22; 14, 24; Ds 14, 14; Nkm 9, 12. 19; Kn 18, 3), Ngài là Đấng “mặc khải và nói từ sấm chớp và lửa” (Xh 3, 2; 13, 21; 19, 18; 40, 38; Ds 9, 15; Đnl 1, 33; 4, 12. 33; 5, 22), Ngài “cất đi ánh sáng khỏi kẻ thù của Israel” (Xh 14, 20), “làm cho mặt trời tối sầm lại” (Xh 19, 16-20), “bắt mặt trời dừng lại” (Gs 10, 12-13), “toả ánh tôn nhan, ban phúc lành và ơn cứu độ” cho dân Người (Ds 6, 24-27).


Qua biểu tượng và từ vựng của ánh sáng và bóng tối, truyền thống Xuất hành trình bày tính cách của Chúa là “đứng về phía” Israel (theo ý nghĩa của tên Jhwh trong Xh 3, 14). Truyền thống Giavít mô tả sự can dự của Chúa vào những sự kiện và biến cố của dân tộc qua hình ảnh “cột mây và cột lửa”:

Đức Chúa đi đàng trước họ, ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy” (Xh 13, 21-22).

Trong hành vi cuối cùng của cuộc chiến đầy bi thảm giữa một bên là Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát dân Israel, trưởng tử của Ngài (Xh 4, 22) ra khỏi Aicập, và một bên là vua Pharaon, Kinh thánh đối lập ánh sáng với bóng tối, nước và gió chạm trán với nhau trong một cuộc đọ sức tay đôi của vũ trụ, và Thiên Chúa đã chiến thắng:

Cột mây bỏ phía trước mà chen vào giữa hàng ngũ Ai cập và hàng ngũ Israel. Bên kia cột mây mịt mù, bên này mây lại sáng soi đêm tối” (Xh 14, 20).

Truyền thống Êlôhít mô tả sự hiện diện của Thiên Chúa qua “đám mây tối tăm” hay chỉ đơn giản là “đám mây”. Trong khi đó truyền thống Tư tế liên kết vinh quang của Thiên Chúa với áng mây sáng rực, “ngọn lửa bốc cháy” (Xh 16, 10; 19, 16tt; 24, 15b-17; cf. Dt 12, 19). Từ các từ ngữ của truyền thống Xuất hành, các tác giả trong Israel xưa cảm hứng nên truyền thống midras về lịch sử Kinh Thánh trong sách Khôn ngoan 10-19.


III. ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI TRONG TRUYỀN THỐNG NGÔN SỨ


Trong toàn bộ văn chương và tác phẩm của các ngôn sứ, chúng ta có thể thu tập được cách đọc, cách hiểu các biểu tượng của ánh sáng và bóng tối. Trước hết, biểu tượng ánh sáng được áp dụng cho cộng đoàn: cộng đồng dân Chúa là ánh sáng, trong khi các dân tôc khác phải lầm lũi bước đi trong bóng tối, trong bóng đêm của sự chết (Is 9, 2tt; 42, 6; 49, 6; 50, 10; 60, 2). Các bản văn ngôn sứ chứa đựng những lời sấm cứu độ hoặc là lời lên án cộng đồng Israel vì sự trung tín hoặc bất trung với Chúa. Cộng đoàn này là ánh sáng, cho nên phải “bước đi trong ánh sáng”, “truyền bá ánh sáng” cho mọi dân tộc (Is 50, 10; 60, 3). Đối với những người Israel bất trung, các ngôn sứ loan báo ngày xét xử của Thiên Chúa là sẽ “biến ánh sáng thành bóng tối” (Am 5, 18-20; Is 3, 10; 59, 9; Gr 13, 16).


Trong truyền thống ngôn sứ, biểu tượng ánh sáng và bóng tối hiện diện đặc biệt trong cách diễn tả Ngày của Chúa (Is 24-27; Dc 9, 14; Am 5, 18. 20; Ge 2, 2-5, Kb 18; Kb 3, 10-11; Xp 1, 15; Ml 3, 19-20). Đây là đề tài phần lớn được trình bày dưới thể văn khải huyền, trong đó hành động của Chúa là can thiệp để sự trừng phạt hoặc để cứu độ. Trong sự can thiệp này Thiên Chúa trang bị khí cụ bằng những trận chiến vũ trụ của ánh sáng và bóng tối. Bóng tối biểu tượng cho sự trừng phạt:

Ngày đó sẽ là tối tăm chứ không phải ánh sáng” (Sp 1, 15; Am 5, 18; …)

Ngày tối tăm u ám, ngày mây mù tối đen” (Ge 2, 2; Dc 14, 7)
Ngày của lửa nghiền nát, của những vận hành trăng sao là nguồn ánh sáng (Is 24, 23; Ge 2, 10; 3, 30, 31; 4, 15; Am 8, 9…). Còn ánh sáng tượng trưng cho ơn cứu độ được mô tả với hình ảnh của hừng đông, mặt trời mọc (Ml 3, 20), cuộc chiến thắng trên âm phủ (Hs 13, 14), trên sự chết và tối tăm: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước” (Is 25, 7-8; 60, 1-3; 26, 19).
Cũng vậy ơn cứu độ được mô tả bằng cuộc chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối và sự biến chuyển từ bóng tối thành ánh sáng. Is 56-66 được đọc theo hướng này, Trong viễn tượng ấy, hai bài thánh ca của Luca: Benedictus (Lc 1, 68-79) và Nunc dimittis (Lc 2, 29-32) cụ thể và nhân cách hoá biểu tượng ánh sáng trong con người của đấng Mêsia Giêsu. Toàn dân Isarael và các dân tộc bước đi tiến về ánh sáng Cứu độ (Is 9, 2tt; Mt 4, 13-16; Ga 8, 12).

Các sách ngôn sứ cũng sử dụng các từ ngữ nói về Thiên Chúa mà các truyền thống Xuất hành đã xây dựng và định thức chung quanh biểu tượng ánh sáng và bóng tối, để diễn tả thần khải và sự can dự cách tích cực của Ngài vào lịch sử dân tộc:

Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ thổi tù và, Người sẽ tiến đi trong gió bão phương nam” (Dc 9, 14); “Đi trước dân là khối lửa thiêu; theo sau chúng là hỏa hào bốc cháy” (Ge 2, 3); “Chúa rực rỡ khác nào ánh sáng, mở đôi tay toả chiếu hào quang” (Kb 3, 4).

(còn tiếp)


Học Viện Đaminh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét