Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

LỜI CHÚA MỖI NGÀY THỨ HAI TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH





LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ HAI TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ : Hãy rao giảng Tin Mừng “Chúa đã sống lại” khắp thế gian

Để tin một điều là sự thật, chúng ta có nhiều cách: hoặc chính chúng ta chứng kiến, hoặc qua các chứng nhân, hoặc qua hậu quả mà nó để lại. Không ai nhìn thấy Chúa sống lại từ mộ đi ra, nhưng các chứng nhân nhìn thấy Chúa sau khi Ngài sống lại. Chúng ta nhờ những chứng nhân này, hậu quả của sự kiện Chúa sống lại trên con người họ, và những lời Kinh Thánh để tin “Chúa đã sống lại thật.”
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa Giêsu sống lại. Trong Bài Đọc I, thánh Phêrô và các Tông đồ làm chứng Chúa sống lại qua những dữ kiện thực tế và lời tiên tri của Vua David trong Thánh Vịnh 16. Trong Phúc Âm, sứ thần của Chúa làm chứng Chúa Giêsu sống lại, và chính Chúa Giêsu xuất hiện với các phụ nữ và truyền họ mang tin Ngài sống lại cho các Tông đồ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã phác họa Kế hoạch Cứu Độ qua cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
1.1/ Đức Kitô là Đấng Thiên Sai: Vấn đề cốt yếu mà Phêrô phải minh chứng cho người Do-thái là Đấng Thiên Sai phải ngang qua con đường đau khổ, cái chết, và sống lại vinh quang; vì người Do-thái mong muốn một Đấng Thiên Sai uy quyền, họ không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Phêrô chứng minh điều này đầu tiên bằng những sự kiện thực tế đã xảy ra, sau đó ông chứng minh bằng lời Kinh Thánh.
Về những sự kiện thực tế, ông nhắc lại những gì Đức Kitô đã làm giữa họ: “Đức Giêsu Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.”
Thiên Chúa đã tiền định cái chết và sống lại của Đức Kitô: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.”
1.2/ Vua David đã nói tiên tri về sự chết và sự sống lại của Đức Kitô: Việc Chúa Giêsu sống lại làm trọn lời tiên báo của Vua David.
(1) Thánh Vịnh 16:8-11: Tác giả TĐCV trích dẫn lời TV 16 như sau: “Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.”
Câu quan trọng là câu 10 của TV 16, các học giả tranh luận: Lời này áp dụng cho Vua David hay Đức Kitô? Giải thóat cho khỏi cái chết bất tử và phục hồi sự liên hệ thần linh hay giải thóat cho khỏi sự hư nát sau khi chết? Vì chữ “hư nát, shahat” có thể dịch là sự hủy họai như bản LXX hay dịch đơn giản là vực thẳm.
(2) Phêrô cắt nghĩa lời Thánh Vịnh: Vua David là nhân vật có thật: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ David rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay.” Đức Kitô là giòng dõi Vua David: “Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người.” Đức Kitô hòan thành lời tiên tri của Vua David khi Ngài sống lại từ cõi chết sống lại: “Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát.”
“Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.”

2/ Phúc Âm: Chúa đã thực sự sống lại.
2.1/ Chúa Giêsu truyền các bà loan Tin Mừng cho các Tông-đồ.
(1) Sứ thần loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Những bà đồng hành với Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài ra mộ từ sáng sớm để niệm xác Chúa. Vừa tới nơi, họ thấy một sự thể ngòai sức tưởng tượng: Tảng đá mà các thượng tế đã niêm phong đã được mở ra dưới con mắt ngạc nhiên và run rẩy của các lính canh gác, một sứ thần của Thiên Chúa trắng như tuyết đang ngồi trên tảng đá và nói với các bà: “Đừng sợ! Tôi biết các bà đang tìm gì, Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Ngài không còn ở đây; vì Ngài đã sống lại như lời Ngài đã nói. Hãy đến và nhìn nơi Ngài đã nằm. Hãy đi ngay và nói cho các môn đệ biết: Ngài đã sống lại từ cõi chết. Và Ngài đi trước các ông tới Galilee; tại đó họ sẽ gặp Ngài” (Mt 28:1-7). Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay.
(2) Chúa Giêsu hiện ra với các bà: Trên đường đi, bỗng Chúa Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilee. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."
Thương yêu Chúa không phải giữ Chúa ở với mình, nhưng phải loan Tin Mừng của Chúa để mọi người cùng tin vào Chúa. Chúng ta sẽ thấy điều quan trọng này được nhắc đi nhắc lại trong những ngày tới. Mọi người cần được nghe Tin Mừng Phục Sinh: cuộc sống không chỉ chấm dứt với cái chết ở đời này, nhưng mở rộng đến cuộc sống muôn đời mai sau với Thiên Chúa.
2.2/ Kế hoạch bưng bít sự thật:
(1) Trước khi Chúa sống lại: Người Do-thái đến gặp quan Philatô và yêu cầu ông sai lính canh giữ mộ Chúa Giêsu cẩn thận, vì khi còn sống Chúa đã tuyên bố Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Họ sợ các môn đệ của Chúa sẽ đến đánh cắp xác rồi phao tin là Chúa đã sống lại; lúc đó họ sợ sự sai trá sẽ nguy hại hơn trước. Philatô nói với họ: “Các ông có lính của Đền Thờ, hãy sai họ đi và canh chừng cẩn mật như các ông có thể làm.” Họ đi và niêm phong tảng đá vào cửa, và đặt lính canh giữ mộ (x/c Mt 27:62-66).
(2) Sau khi Chúa sống lại: Trong khi các bà đi báo cho các môn đệ biết tin mừng Chúa sống lại; có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo quân lính: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng Trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.
Khi con người đã làm điều sai trái, họ sẽ tiếp tục làm điều sai trái, sự sai trái này sẽ kéo theo sự sai trái khác. Người Do-thái tìm lý do gian trá “Chúa phạm thượng” để bắt Chúa, rồi lại tìm một cớ gian khác “Ông này xưng mình là Vua” để xin Philatô buộc Chúa chống lại Caesar, giờ lại dùng tiền để bịt miệng lính canh giữ mồ Chúa. Không phải họ không biết sự thật, nhưng họ cố tình ở trong sự gian trá, vì ghen ghét và vì những lợi lộc họ đang được hưởng.
 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- “Chúa đã thực sự sống lại.” Chúng ta phải tin điều này và loan báo cho mọi người biết Tin Mừng Phục Sinh; đồng thời phải sống và làm chứng cho mọi người biết: có cuộc sống đời sau.
- Như mưu mô của các thượng tế trong trình thuật hôm nay, ma quỉ và thế gian vẫn đang tìm các để bưng bít sự thật này bằng tiền của và hưởng thụ vật chất.

Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

VUI HỌC LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM B



VUI HỌC LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,19-31




I. TIN MỪNG

19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! "20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."

24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "

30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.




19 On the evening of that first day of the week, when the doors were locked, where the disciples were, for fear of the Jews, Jesus came and stood in their midst and said to them, "Peace be with you."

20 When he had said this, he showed them his hands and his side.  The disciples rejoiced when they saw the Lord.

21  (Jesus) said to them again, "Peace be with you. As the Father has sent me, so I send you."

22  And when he had said this, he breathed on them and said to them, "Receive the holy Spirit.

23  Whose sins you forgive are forgiven them, and whose sins you retain are retained."

24 Thomas, called Didymus, one of the Twelve, was not with them when Jesus came.

25 So the other disciples said to him, "We have seen the Lord." But he said to them, "Unless I see the mark of the nails in his hands and put my finger into the nailmarks and put my hand into his side, I will not believe."

26 Now a week later his disciples were again inside and Thomas was with them. Jesus came, although the doors were locked, and stood in their midst and said, "Peace be with you."

27 Then he said to Thomas, "Put your finger here and see my hands, and bring your hand and put it into my side, and do not be unbelieving, but believe."

28  Thomas answered and said to him, "My Lord and my God!"

29  Jesus said to him, "Have you come to believe because you have seen me? Blessed are those who have not seen and have believed."

30  Now Jesus did many other signs in the presence of (his) disciples that are not written in this book.

31 But these are written that you may (come to) believe that Jesus is the Messiah, the Son of God, and that through this belief you may have life in his name.


I. HÌNH TÔ MÀU







* Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn hãy viết lại câu Tin Mừng thánh Gioan 20,27

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


II. TRẮC NGHIỆM

01. Khi đứng giữa các ông, Đức Giêsu đã nói gì? (Ga 20,19)
a. Bình an cho anh em.
b. Anh em đừng sợ, Thầy đây.
c. Thầy đã trỗi dậy từ cõi chết.
d. Cả a, b và c đúng.

02. Sau khi chúc bình an cho các môn đệ Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo các ông hãy nhận lấy điều gì? (Ga 20,22)
a. Sức mạnh của thần khí.
b. Sự khôn ngoan.
c. Thánh Thần.
d. Cả a, b và c đúng.

03. Vị tông đồ nào đã vắng mặt trong lần hiện ra trước? (Ga 20,24)
a. Ông Phêrô
b. Ông Gioan
c. Ông Giacôbê
d. Ông Tôma

04. Đức Giêsu bảo ông Tôma hãy đặt bàn tay vào đâu? (Ga 20,27)
a. Những vết thương của Người.
b. Lỗ đinh của Người.
c. Cạnh sườn Người.
d. Cả a, b và c đúng.

05. Khi gặp được Đức Giêsu, ông Tôma đã thưa Người: (Ga 20,28)
a. Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.
b. Lạy Thầy, Thầy đã sống lại.
c. Lạy Thầy, con tin Thầy đã sống lại thật.
d. Thưa Thầy, con đã tin.


III. Ô CHỮ 



Những gợi ý

01. Đức Giêsu nói: ‘”Vì đã thấy thầy, nên anh tin, … … những người không thấy mà tin”. (Ga 20,29)

02. Sau khi chúc bình an cho các môn đệ Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo các ông hãy nhận lấy điều gì?

03. Như ai đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em? (Ga 20,21)

04. Ai đã hiện ra với các tông đồ? (Ga 20,19)

05. Đức Giêsu bảo ông Tôma hãy đặt bàn tay vào đâu? (Ga 20,27)

06. Ông Tôma, vị tông đồ đã vắng mặt trong lần hiện ra thứ nhất của Đức Giêsu với các tông đồ, còn được gọi là gì? (Ga 20,24)

07. Đức Giêsu bảo ông Tôma hãy đặt gì vào cạnh sườn của Người? (Ga 20,27)

08. Lời tuyên xưng của ông tô ma: “Lạy chúa, lạy … … của con”.
(Ga 20,28)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?


IV. CÂU LỜI CHÚA HỌC THUỘC LÒNG 

“Phúc thay
 những người không thấy mà tin! "
Tin Mừng thánh Gioan 20,29



Lời giải đáp
VUI HỌC LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 20,19-31

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề :
Thầy đây
* Tin Mừng thánh Gioan 20,27

"Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.

II. TRẮC NGHIỆM

01. a. Bình an cho anh em (Ga 20,19)
02. c. Thánh Thần (Ga 20,22)
03. d. Ông Tôma (Ga 20,24)
04. c. Cạnh sườn Người (Ga 20,27)
05. a. Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (Ga 20,28)

III. Lời giải đáp Ô CHỮ 

01. Phúc thay (Ga 20,29)
02. Thánh Thần (Ga 20,22)
03. Chúa Cha (Ga 20,21)
04. Đức Giêsu (Ga 20,19 )
05. Cạnh sườn (Ga 20,27)
06. Điđymô (Ga 20,24)
07. Bàn tay (Ga 20,27)
08. Thiên Chúa (Ga 20,28)

Hàng dọc : Phục Sinh

NGUYỄN THÁI HÙNG


Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Lectio: Chúa Nhật Phục Sinh (C)


Lectio: Chúa Nhật Phục Sinh (C)

Chúa Nhật, 31 Tháng 3, 2013
Được thấy trong đêm tối và tin tưởng vì tình yêu
Ga 20:1-9
 1. Chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần

Lạy Chúa Giêsu Kitô, hôm nay ánh sáng Chúa giải chiếu trên chúng con, là nguồn mạch của sự sống và nỗi vui mừng.  Xin Chúa hãy ban cho chúng con Chúa Thánh Thần của tình yêu và sự thật, giống như bà Maria Madalêna, các ông Phêrô và Gioan xưa kia, để chúng con cũng có thể khám phá và giải thích dưới ánh sáng của Lời Chúa, những dấu chỉ của sự hiện diện thiêng liêng của Chúa trong thế giới chúng con.  Xin cho chúng con biết tiếp nhận những dấu chỉ này trong niềm tin cậy để chúng con được luôn sống trong nỗi vui mừng vì sự hiện diện của Chúa giữa chúng con, ngay cả khi tất cả dường như bị bao phủ bởi bóng tối của buồn phiền và sự dữ.

2. Phúc Âm

a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
 Đối với Thánh Sử Gioan, sự sống lại của Đức Giêsu là thời điểm quyết định trong tiến trình dẫn đến sự vinh hiển của Người, được liên kết bất khả phân ly với giai đoạn thứ nhất của của sự vinh hiển này, đó là cuộc thương khó và cái chết của Người.
Sự kiện Chúa Phục Sinh đã không được mô tả trong các chi tiết ngoạn mục và khải huyền của các sách Tin Mừng Nhất Lãm.  Đối với Gioan, cuộc sống của Chúa Phục Sinh là một sự thật mà tự nó đã khẳng định một cách âm thầm, trong quyền năng khôn ngoan và vô kháng của Chúa Thánh Thần.
Sự thật về đức tin của các môn đệ đã được công bố:  “Khi trời còn tối” và bắt đầu qua thị kiến về các dấu hiệu cụ thể để gợi nhớ lại Lời Chúa.  Đức Giêsu là nhân vật chính trong câu chuyện, nhưng chính Người lại không xuất hiện.

b) Bài Đọc:

 Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm, khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá được lăn ra khỏi mồ.  
2 Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, và nói với các ông rằng:  “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.   
3 Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ.Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước; 5 ông cúi mình xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. 
Vậy Simon Phêrô theo sau, cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. 
Bấy giờ môn đệ kia mới vào dù ông đã tới mồ trước, ông thấy và ông tin; vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. 
 c)    Phân đoạn văn bản để giúp chúng ta hiểu một cách tường tận hơn:
 Câu 1:  Lời dẫn nhập và các sự kiện trước khi mô tả câu chuyện;
Câu 2:  Phản ứng của bà Maria Mađalêna và lời công bố đầu tiên về một sự thật mới được phát hiện;
Câu 3-5:  Phản ứng tức thời của các môn đệ và tác động giữa các ông.
Câu 6-7:  Lời xác định sự việc được công bố bởi bà Maria Mađalêna;
Câu 8-9:  Đức tin của người môn đệ kia và mối quan hệ của nó với Kinh Thánh

3.    Giây phút thinh lặng bên ngoài và trong tâm hồn
 Để mở lòng trí chúng ta và dọn chỗ cho tâm hồn đón nhận Lời Chúa:
-   Đọc lại chậm rãi nguyên cả bài Tin Mừng;
-   Tôi cũng đang ở trong khu vườn:  một ngôi mộ trống ngay trước mắt tôi;
-   Tôi để cho lời của bà Maria Mađalêna lặp lại trong trí tôi;
-   Tôi cũng cùng chạy với bà, ông Phêrô và người môn đệ kia;
-   Tôi để cho hồn mình chìm sâu vào niềm hân hoan tuyệt vời của lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, dù rằng, giống như họ, tôi không nhìn thấy Người với con mắt xác thịt.
4.    Món quà tặng của Lời Chúa gửi đến chúng ta

*  Chương 20 sách Tin Mừng Gioan:  Đây là một văn bản khá rời rạc mà rõ ràng là soạn giả vài lần đã xen vào để nhấn mạnh về một số chủ đề và cũng để thống nhất những bản văn khác nhau được thu thập từ it nhất là ba nguồn tài liệu trước đó.

*  Ngày sau ngày Sabbát:  đó là “ngày thứ nhất trong tuần” và, trong phạm vi Kitô giáo, thừa kế từ sự thiêng liêng ngày Sabbát của ngưởi Do Thái.  Đối với những người Kitô hữu ngày đầu tiên của một tuần mới, điểm bắt đầu của thời gian mới, ngày kỷ niệm cuộc phục sinh được gọi là “Ngày của Chúa” (dies Domini).
Tại đây và trong câu 19, tác giả Phúc Âm dùng một thành ngữ đã trở thành truyền thống cho các Kitô hữu (thí dụ: Mc 16: 2 & 9; Cv 20:7) và nó còn có trước cả thành ngữ mà sau này trở thành một biểu hiệu của việc truyền bá Phúc Âm:  “ngày thứ ba” (Lc 24: 7 & 46; Cv 10:40; 1Co 15:4)

 *  Bà Maria Mađalêna:  Đây cũng là người phụ nữ đã hiện diện dưới chân thập giá với những người phụ nữ khác (19:25).  Tại đây bà có vẻ như là chỉ có một mình, nhưng theo câu 2 của bài Tin Mừng (“chúng tôi không biết”) cho thấy rằng trong câu chuyện ban đầu, viết bởi Thánh Sử, nhắc đến những người phụ nữ, giống như các sách Phúc Âm khác (xem Mc 16:1-3; Mt 28:1; Lc 23:55-24,1)
Tuy nhiên trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm (xem Mc 16:1; Lc 24:1) không ghi rõ lý do việc đi viếng mộ của bà Maria, điều này hàm ý rằng nghi thức mai táng đã hoàn tất (19:40); có lẽ, điều duy nhất còn thiếu sót là sự than khóc ảm đạm (xem Mc 5:38).  Dù sao chăng nữa, vị Thánh Sử thứ tư đã giảm bớt việc khám phá ra ngôi mộ trống xuống mức tối thiểu để tập trung sự chú ý của người đọc về những gì xảy ra sau đó.
 *  Sáng sớm, khi trời còn tối:  Phúc Âm theo thánh Máccô (16:2) nói về một điều gì khác, nhưng trong cả hai quyển Phúc Âm chúng ta hiểu rằng đó là những giờ khắc buổi sáng tinh sương, khi ánh sáng còn rất yếu ớt và nhợt nhạt.  Có lẽ thánh Gioan nhấn mạnh đến việc thiếu ánh sáng để làm tương phản một cách biểu trưng của bóng tối – sự thiếu đức tin – và ánh sáng – việc đón nhận Tin Mừng Phục Sinh.
 *  Tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ:  Bản văn bằng tiếng Hy-lạp đã được viết một cách khái quát:  tảng đá đã được “lấy đi” hoặc “gỡ bỏ” (khác với: Mc 16:3-4). 
Động từ “lấy đi” nhắc nhở đến Phúc Âm của Gioan 1:29:  Thánh Gioan Tẩy Giả nói về Đức Giêsu như “Con Chiên, Đấng gánh hết mọi tội lỗi của thế gian”.  Có lẽ Thánh Sử muốn nhắc nhở về sự thật là tảng đá này “bị lấy đi”, lăn khỏi mồ là một dấu hiệu vật chất để chỉ cho biết rằng sự chết và tội lỗi đã được “cất bỏ” bởi sự Phục Sinh của Đức Giêsu chăng?
*  Bà liền chạy về tìm ông Simon Phêrô và người môn đệ khác:   Bà Maria Mađalêna chạy đi tìm những người cùng chia xẻ niềm yêu mến của bà đối với Chúa Giêsu và nỗi đau khổ của bà trước cái chết đau thương của Chúa, bây giờ lại đau khổ hơn bởi việc khám phá mới mẻ này.  Bà đi tìm các ông, có lẽ bởi vì các ông là những người duy nhất chưa trốn chạy với những kẻ khác và vẫn còn giữ liên lạc với nhau (19:15,26-27).  Ít ra là bà muốn chia xẻ với các ông về nỗi đau tột cùng của việc xúc phạm đối với thi thể người chết như thế này.
Chúng ta thấy bằng cách nào ông Phêrô và “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến” và bà Mađalêna được đặc trưng bởi một tình yêu đặc biệt đã kết hợp họ với Chúa Giêsu:  Đó chính là tình yêu thương lẫn nhau đã giúp họ có thể cảm nhận được sự hiện hữu của người thân yêu.
 *  Người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến:  là người chỉ xuất hiện trong sách Tin Mừng này và chỉ bắt đầu xuất hiện ở chương 13, khi ông tỏ lộ sự thân thiết gần bên Chúa Giêsu và sự thông cảm sâu xa với Phêrô (13:23-25).  Ông xuất hiện đúng vào lúc của cuộc thương khó và sự phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng vẫn là người không tên và có nhiều giả thiết đã được đặt ra về danh tính của ông.  Ông có lẽ là người môn đệ ẩn danh của Gioan Tẩy Giả, người đã đi theo Chúa Giêsu cùng với ông Andrê (1:35-40).  Bởi vì quyển Tin Mừng thứ tư không bao giờ nhắc đến ông Gioan tông đồ và chúng ta hãy nhớ rằng quyển Tin Mừng này kể lại những chi tiết một cách rõ ràng như một người chứng kiến tận mắt.  “Người môn đệ” đã được nhận diện là ông Gioan tông đồ.  Quyển Tin Mừng thứ tư luôn luôn được cho là viết bởi ông Gioan dù rằng có thể ông không phải là người thưc sự viết nó, tuy nhiên nguồn gốc của truyền thống đặc biệt này cho rằng quyển Tin Mừng này và một số các tác phẩm khác đã được viết bởi thánh Gioan tông đồ.  Điều này cũng giải thích tại sao Gioan là một nhân vật có phần nào được lý tưởng hóa.
“Người được Chúa Giêsu yêu mến”:   Lời này cho chúng ta thấy rõ đây là lời phụ chú không phát xuất từ thánh tông đồ, người không dám tự khoe khoang một mối liên hệ mật thiết với Chúa, nhưng có thể từ các môn đệ của ông là những người viết phần lớn quyển Tin Mừng và là những người đã đặt ra từ ngữ này sau khi suy nghĩ về một sự ưu ái đặc biệt giữa Chúa Giêsu và người môn đệ này (xem 13:25; 21:4,7).  Những đoạn Tin Mừng mà chúng ta đọc thấy nhóm chữ đơn giản hơn “người môn đệ khác” hoặc “người môn đệ”, rõ ràng là các soạn giả đã không thêm lời phụ chú.
 *  Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ:   Những chữ này được lập lại trong các câu 13 và 15, cho thấy bà Maria đã lo sợ rằng những kẻ trộm nghĩa địa đã lấy cắp thi thể người chết, một việc thường xảy ra thời ấy, đến nỗi mà hoàng đế La-mã đã ban bố những sắc lệnh nghiêm nhặt để kiểm soát vấn đề này.  Theo Tin Mừng của Mátthêu (28:11-15), các thày thượng tế đã lợi dụng điều có thể xảy ra này để tạo sự nghi ngờ về sự thật việc sống lại của Chúa Giêsu, và sau cùng, để biện minh cho sự việc các quân lính đã không lo tròn nhiệm vụ canh giữ mộ.
 *  Chúa:  danh hiệu “Chúa” hàm ý một sự thừa nhận thần tính và gợi lên Đấng Toàn Năng Thiên Chúa.  Đây là lý do tại sao từ ngữ này được dùng bởi các Kitô hữu khi nói về Đức Giêsu phục sinh.  Thật ra, vị Thánh Sử thứ tư chỉ dùng danh từ này trong các đoạn nói về lễ Phục Sinh.  (Xem đoạn 20:13).
 *   Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu:  những dòng chữ này gợi nhớ lại những gì đã xảy ra cho ông Môisen, người mà mộ của ông không biết ở đâu (Đnl 34:10).  Một sự ám chỉ ngầm khác là từ những lời của Đức Giêsu khi Người nói rằng không ai có thể biết là Người sẽ đi đâu (7:11,22; 8:14,28,42; 13:33; 14:1-5; 16:5).
                                                                                                                                                                                          
*   Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn ông Phêrô … nhưng ông không vào trong:  Đoạn Phúc Âm này cho chúng ta thấy sự băn khoăn mà các môn đệ này đã phải trải qua.
Sự kiện mà “người môn đệ kia” đã dừng chân, hơn chỉ là một cử chỉ lịch sự hay kính trọng đối với bậc trưởng thượng nào đó, đó là sự thừa nhận mặc nhiên rằng ông Phêrô, trong nhóm các tông đồ, đã giữ một địa vị cao trọng, dù rằng điều này không được nhắc đến.  Vì vậy, đó là một dấu hiệu của sự hiệp thông.  Cử chỉ này cũng có thể được xem như là một dụng cụ văn chương để chuyển từ một sự kiện liên quan đến đức tin vào sự phục sinh đến thời điểm kế tiếp và là cao điểm trong câu chuyện.

*  Những dây băng nhỏ để đó và khăn liệm che đầu … được cuộn lại để riêng một chỗ:  dù rằng người môn đệ kia đã không vào trong, có lẽ ông đã nhìn thấy điều gì.  Ông Phêrô, bước qua cửa mồ, khám phá ra được bằng chứng rằng việc trộm xác không hề xảy ra:  không một kẻ trộm nào lại đi phí thì giờ tháo gỡ băng vải liệm xác, sắp xếp các vải liệm một cách ngay ngắn (trên nền đất có thể được diễn giải rõ hơn là “trải ra” hay “để cẩn thận trên nền”) và rồi còn cuộn khăn liệm che đầu để riêng một chỗ.  Việc làm này hết sức phức tạp bởi vì loại dầu mà được dùng để xức cho người chết (đặc biệt là chất nhựa thơm) có tác dụng như chất keo, giúp các băng vải dính vào thi thể một cách hoàn hảo và vững chắc, gần giống như việc ướp các xác ướp.  Ngoài ra, tấm khăn liệm che đầu đã được gấp lại; động từ trong tiếng Hy-lạp còn có thể có nghĩa là “cuộn lại”, hoặc nó có thể ngụ ý cho biết rằng tấm vải mỏng đó phần lớn có nhiệm vụ là giữ gìn khuôn mặt người đã mất, gần giống như một mặt nạ cho người chết.  Những miếng vải đã còn nguyên vẹn như được trích dẫn trong Tin Mừng của Gioan 19:40.
Tất cả mọi vật trong nhà mồ được sắp xếp ngăn nắp, dù rằng thi thể của Chúa Giêsu không còn đó, và ông Phêrô đã có thể trông thấy rõ ràng trong nhà mồ vì trời đã sáng dần.  Khác với Lazarô (11:14) lúc trước, Chúa Kitô khi sống lại đã hoàn toàn tháo gỡ những dây vải liệm quanh mình.  Các nhà chú giải cổ đại đã ghi chép rằng, thật ra, ông Lazarô đã phải dùng lại những tấm vải liệm ấy lần nữa trong lần mai táng sau cùng của mình, trong khi Đức Kitô thì không cần dùng đến những tấm vải này vì Người không phải chết lần thứ hai (xem Rm 6:9).
 *  Ông Phêrô … thấy … người môn đệ khác … thấy và tin:  Vào lúc khởi đầu câu chuyện, bà Maria cũng đã “thấy”.  Dù rằng một vài bản dịch dùng cùng một động từ, văn bản nguyên khởi dùng ba động từ khác nhau (theorein - thấy tận mắt - cho ông Phêrô; blepein – thấy -  cho người môn đệ khác và bà Maria Madalêna;idein – thấy, ở đây, cho các người môn đệ khác), chúng ta hãy nên hiểu rằng có sự tăng trưởng trong chiều sâu tâm linh của việc “thấy” này, đó là, thật ra lên đến điểm đỉnh trong đức tin của người môn đệ khác.
Một người môn đệ ẩn danh chắc chắn đã không trông thấy một điều gì khác ngoài những điều ông Phêrô đã quan sát thấy.  Có lẽ ông giải thích lại những gì ông thấy một cách khác với những người khác bởi vì mối quan hệ đặc biệt của tình yêu mà ông dành cho Đức Giêsu (kinh nghiệm của ông Tôma là kinh nghiệm điển hình, 29:24-29).  Dù sao chăng nữa, như được cho thấy bởi thì của động từ trong ngôn ngữ Hy-lạp, đức tin của ông vẫn chỉ là đức tin non nớt, đến nỗi mà ông đã không thể tìm ra phương cách để chia xẻ kinh nghiệm này với bà Maria hoặc ông Phêrô hay với bất cứ người môn đệ nào khác (không có điều tham khào nào thêm về việc này).
Tuy nhiên, đối với vị Thánh Sử thứ tư, động từ đôi “thấy và tin” mang một ý nghĩa khác hẳn và một cách riêng biệt quy về niềm tin vào sự phục sinh của Đấng từ cõi chết sống lại (xem 20:29).  Bởi vì thật khó mà có thể thực sự tin được trước mặt Chúa đã chết và nay đã sống lại. (xem 14:25-26; 16:12-15).  Khi ấy, từ ngữ kép thấy và tin đặc trưng cho toàn bộ chương Tin Mừng này và “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến” đã được giới thiệu như một mẫu mực đức tin thành công trong việc thông hiểu sự thật về Thiên Chúa qua vật thể (xem 21:7).
*  Vì chưng các ông còn chưa hiểu Kinh Thánh:  điều này hiển nhiên quy hướng về tất cả các vị tông đồ khác.  Ngay cả những người đã từng sống gần bên Đức Giêsu, khi ấy, rất khó mà tin tưởng vào Người một cách khơi khơi, và đối với họ, cũng như đối với chúng ta nữa, cửa ngõ duy nhất cho phép chúng ta bước qua ngưỡng cửa của đức tin chân chính là sự hiểu biết về Kinh Thánh (Lc 24:26-27; 1Cr 15:34; Cv 2:27-31) nhờ vào các sự kiện của sự sống lại.
 5.  Một vài câu hỏi gợi ý để hướng dẫn cho việc suy gẫm và thực hành của chúng ta
 a)  Điều cụ thể nào đem đến cho chúng ta ý nghĩa “tin vào Đức Giêsu, Đấng Sống Lại Từ Cõi Chết”?  Chúng ta đã gặp phải những khó khăn nào khi phải tin điều này?  Có phải việc sống lại chỉ duy nhất liên quan đến Đức Giêsu hay nó thực sự là nền tảng cho đức tin của chúng ta?
b)  Mối quan hệ mà chúng ta thấy giữa ông Phêrô, người môn đệ khác và bà Maria Mađalêna một cách rõ ràng là một sự hiệp thông tuyệt vời trong Chúa Giêsu.  Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy sự thông hiểu về tình yêu và cùng một sự “hiệp nhất chung” trong Chúa Giêsu trong những người nào, sự việc nào, hoặc những tổ chức nào?  Chúng ta có thể đọc được những dấu hiệu cụ thể của một tình yêu bao la cho Chúa ở đâu và “tình yêu của Ngài” đã linh ứng cho tất cả các môn đệ ra sao?
c)  Khi chúng ta nhìn vào cuộc sống chúng ta và thực tế chung quanh chúng ta, gần lẫn xa, chúng ta có thấy như ông Phêrô đã thấy (ông đã nhìn thấy sự thực, nhưng giữ cho ông, đó là, về cái chết và việc mai táng của Chúa Giêsu) hay chúng ta có thấy như người môn đệ kia đã thấy không (ông nhìn thấy chứng cớ và khám phá ra trong chúng những dấu hiệu của đời sống mới)?
 6. Chúng ta hãy cầu xin ân sủng cùng Chúa và tôn vinh Ngài
 Với bài thánh vịnh trích từ thư của thánh Phaolô gửi các tín hữu Êphêsô (đoạn 1:17-23)
 Tôi cầu xin cùng Chúa Cha vinh hiển, là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.  Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, và đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã ban bố cho chúng ta là những tín hữu.  Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người ở trên trời.  Như vậy, Chúa đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, và vượt trên mọi danh hiệu, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai.  Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
 7.  Lời nguyện kết
 Bối cảnh phụng vụ rất quan trọng trong việc cầu nguyện bài Tin Mừng này và sự kiện sống lại của Chúa Giêsu, là tâm điểm của đức tin chúng ta và của đời sống Kitô hữu chúng ta.  Sự tiếp nối là đặc điểm của việc phụng vụ bí tích Thánh Thể hôm nay và cho cả tuần lễ giúp chúng ta ngợi khen Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu.
Cộng đoàn Kitô hữu, những người tin vào Hy Lễ Vượt Qua
Đấng đã được hiến tế và tôn vinh.
Dê cừu đã được cứu chuộc bởi Con Chiên;
Và Chúa Kitô, Đấng tinh tuyền
Đã đem những kẻ tội lỗi trở về hòa giải với Chúa Cha.
Sự chết với cuộc sống tranh giành:
Cuộc chiến đấu đã kết thúc hết sức lạ kỳ!
Kẻ bị giết lại trở thành người chiến thắng
Lại trở thành bất tử để ngự trị.
Bà Maria ơi hãy nói cho chúng tôi biết:
Bà thấy gì ở trên đường.
Mộ của Đấng hằng sống đã lấp;
Tôi đã thấy vinh quang của Chúa Kitô khi Người từ cõi chết sống lại!
Các thiên thần ở đó đang làm chứng;
Các khăn liệm được gấp lại ngay ngắn.
Chúa Kitô, niềm hy vọng của tôi, đã sống lại:
Người đã đến Galilê trước các anh em.
Chúng ta biết đó chính là Đức Kitô thật sự đã sống lại từ cõi chết.
Vua chiến thắng,
Lòng thương xót Chúa tỏ ra.
 Chúng ta hãy kết thúc lời cầu nguyện với bài thơ cầu khẩn sống động này của tác giả đương đại Marco Guzzi:
 Tình yêu, tình yêu, ôi tình yêu!
Ước chi tôi cảm nghiệm, sống, và biểu lộ với tất cả Tình Yêu này,
Đó là điều ước nguyện vui mừng trên thế gian
Và sự gặp gỡ hạnh phúc với những người chung quanh.
Chỉ có Chúa mới ban cho con tự do, chỉ có Chúa mới giải thoát con.
Và tuyết rơi để tưới gội
Những thung lũng xanh ngắt trên địa cầu.
 www.dongcatminh.org

CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM C


CHÚA NHẬT PHỤC SINH – NĂM C
(Phần II)


Giáo Lý Phúc Âm CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM C - ngày 31.3.2013

CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM C

Sách Tồng Đồ Công Vụ 10, 34, 37-43; Thư Thánh Phaolô gửi Giáo đoàn Colossê 3,1-4
và Phúc Âm Gioan 20, 1-18

 I. Giáo Huấn P.Â.:
 Chúa  đã sống lại ngoài ức đoán của con người: Thấy mồ trống, Bà Maria Madalêna nghĩ là người ta trộm xác Chúa. Thấy Chúa Giêsu sống lại, bà nghĩ là người làm vườn.  Chúa  đã sống lại thật:

Hiện tượng mồ trống: Khối đá lấp cửa mồ đã lăn sang một bên; Xác Chúa Giêsu không còn trong mộ, khăn liệm vải liệm xếp gọn ghẻ sang bên. 

Chúa phục sinh hiện ra cho Maria Madalêna và bảo bà đi loan báo tin Chúa Phục Sinh cho các môn đệ Chúa. 

II. Vấn nạn P.Â.   
Ngày thứ nhất trong tuần là ngày nào trong Kinh Thánh?
Ngày Thứ Nhất trong tuần là ngày Chúa Nhật tính theo Dương Lịch
Ngày Thứ Nhất trong tuần theo Kinh Thánh và  truyền thống của người Do Thái:
Từ “Ngày Thứ Nhất trong tuần” được xử dụng tám lần trong Kinh Thánh Tân Ước và chúng ta không  thấy đề cập đến từ Chúa Nhật:

Bốn lần “ngày thứ nhất trong tuần” được nói đến trong Matthêô 28:1; Matcô 16:2; Luca 24:1 và Gioan 20:1 như chúng ta thấy trong Phúc Âm hôm nay. Tất cả bốn Phúc Âm đều nói đến “ngày thứ nhất trong tuần” như là ngày khám phá ra việc Chúa Phục Sinh.  Chắc chắn ngày Thứ Nhất trong tuần không phải là ngày Sabbath vì những người đàn bà mang thuốc thơm đến mộ Chúa ngày Thứ Nhất trong tuần vì họ không kịp làm chuyện nầy trong ngày Sabbath như trong Luca 23:56.

Hai lần khác nói đền “ngày thứ nhất trong tuần” là việc Chúa hiện ra trong cùng ngày được nói trong Phúc Âm Matcô 16:9 và Gioan 20:19. Trong Phúc Âm Gioan 10:19 nói đến việc Chúa hiện ra cho các tông đồ đang tụ họp trong phòng đóng kín cửa vì sợ người Do Thái dòm ngó. Họ tụ họp không phải để cử hành ngày Sabbath gì cả, nhưng xem chừng chỉ nói cho nhau về những tin đồn Chúa sống lại.

Thánh Phaolô giảng dạy trong “ngày thứ nhất trong tuần” như trong Công Vụ sứ Đồ 20:7 mô tả. Ai cũng hiều là chiều tối ngày Thứ Bảy sau khi mặt trời lặn theo như cách tính ngày của người Do Thái. Sau đó Phaolô đi Giêrusalem. Không thấy nói đến việc Phaolô giữ luật ngày Chúa Nhật. Trong thư Thứ Nhất của Thánh Phaolô gừi Giáo Đoàn Corintô 16:2 nói đến yêu cầu quyên góp giúp Hội Thánh nghèo ở Giuđêa vào ngày Thứ Nhất trong tuần. Nhưng đây là việc làm riêng tư chứ không phải là một quyên góp trong ngày nhóm họp Sabbath.

 Kinh Thánh và truyền thống Do Thái cho thấy: Ngày Thứ Nhất trong tuần không phải là ngày Sabbath của Do Thái. Ngày Sabbath là ngày thứ bảy, ngày Đấng Tạo Hoá nghỉ sau sáu ngày tạo dựng như trong Sáng Thế Ký 2:2-3 mô tả. Sau nầy ngày Thứ Bảy tức ngày Sabbath thành ngày lễ buộc phải nghỉ cho toàn dân Do Thái như được ghi trong sách Xuất hành 20:11 và cả trong hai bia đá lề luật mà Môsê nhận ở núi Sinai (Xuất Hành 16, 23-30)
“Ngày thứ nnhất trong tuần” là ngày sau ngày Sabbath, ngày nghỉ lễ mà sau nầy lịch Roma gọi là Dies Solis, ngày của Thần Mặt Trời, tức ngày Chúa Nhật bây giờ.
Ngày Thứ Nhất trong tuần là ngày Chúa Nhật tính theo Dương Lịch

Dương lịch, lịch tính theo Thái Dương hệ tức hệ mặt Trời. Đây là lối tính lịch của La Mã. Người La Mã gọi tên các ngày trong tuần theo tên của bảy hành tinh trong Thái Dương Hệ: Mặt Trời (Sun) – Mặt Trăng (Moon) – Hoà tinh (Mars) – Thuỷ tinh (Mercury) – Mộc tinh (Jupiter) – Kim tinh (Venus) – Thổ tinh (Saturn)
            Mặt trời – Sun - Sunday – Dies Solis – First Day - Ngày Chúa Nhật – Dies Dominica.
Mặt Trăng – Moon - Monday – Dies Lunae – Ngày Thứ  Hai.
Hoả  Tinh – Mars – Tuesday -  Dies Martis – Third Day - Ngày Thứ Ba.
Thuỷ  tinh – Mercury – Wednesday – Dies Mercurii – Fourth Day – Ngày thứ Tư.
Mộc Tinh – Jupiter – Thursday – Dies Jovis –  Fifth Day – Ngày Thứ Năm.
Kim Tinh – Venus – Friday – Dies Veneris – Ngày Thứ Sáu.
Thổ  tinh – Saturn – Saturday – Dies Saturni –  Ngày Thứ Bảy. 

Dương Lịch, lịch theo Thái Dương hệ của La Mã rất ảnh hưởng ngay từ thời bấy giờ và ảnh hưởng mạnh mẻ trong Kitô giáo. Nó minh định rằng: Ngày Chúa Nhật, Ngày thần Mặt Trời, ngày thứ nhất trong tuần, ngày của Chúa. Đó là ngày Chúa sống lại. Đó cũng là ngày mà con người phải thờ lạy Chúa theo như Chúa dạy trong điều răn Thứ Ba. Đó cũng là ngày lễ nghỉ cho mọi người.

Như  vậy ngày Chúa Nhật theo Dương Lịch của La Mã đã loại bỏ hay thay thế hẵn ngày Sabbath, tức ngày lễ nghỉ của người Do Thái trong Đạo Cựu  Ước. Do Thái Giáo đã cho rằng Công Giáo, vì vấn đề truyền giáo cho dân ngoại tức người La Mã và các nước Âu Châu thời bấy giờ mà loại bỏ truyền thống Cựu Ước, lấy ngày Chúa Nhật, tức ngày thứ nhất trong tuần,  thay thế cho ngày Sabbath. 

Nếu Chúa Nhật là ngày thứ nhất trong tuần, tại sao lại nằm trong ‘weekend’, tức những ngày cuối tuần bao gồm Thứ Bảy và Chúa Nhật? Tự Điển Webster’s Ninth New Collegiate xuất bản năm 1983 cắt nghĩa: Từ ‘weekend’ được xử dụng năm 1878 tức 132 năm trước để nói rằng: Đó là thời gian của ngày kết thúc tuần làm việc và ngày bắt đầu tuần mới. Như vậy Chúa Nhật vẫn là ngày đầu tuần, ngày Thứ Nhất trong tuần và là ngày Chúa sống lại. 

Chúa Giêsu ở trong mộ đá bao lâu? Không tìm thấy một thống nhất trong các tường thuật của Phúc Âm?

Các Phúc Âm Matthêô 28, 1; Matcô 16, 2; Luca 24,1 và Gioan 20,1 đều thống nhất một diểm là: Việc khám phá mồ trống xảy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức sáng sớm Chúa Nhật bây giờ. Cách hiểu thông thường: Chúa sống lại vào rạng sáng Chúa nhật. 

Như  vậy Chúa Giêsu ở trong mồ độ chỉ dài chừng 36 tiếng đồng hồ tức chỉ có 1 ngày rưởi chứ nào có được ba ngày tức 72 tiếng đồng hồ như Chúa nói trong Matthêô 12:40 khi so sánh Chúa bị chôn trong mồ như Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm? Nếu tính đủ trọn ba ngày, tức 72 tiếng đồng hồ thì Chúa phải chết vào chiều ngày Thứ Tư, hay sáng sớm Thứ Năm chứ không thể chiều Thứ Sáu được.

Nếu chúng ta đọc các sách Tân Ước như Phúc Âm Matthêô 16:21; 17:23; 20:19; 26:61; 27:40, 64; Matcô 9:31; 10:34; 14:58; 15:29; Luca 9:22; 13:32; 18:33; 24:7, 21, 46; Gioan 2:19, 20; Tông Đồ Công Vụ 10:40; Thư Thứ Nhất Thánh Phaolô gửi Côrintô 15:4. Chúng ta sẽ không thấy nói là: bị giết chết, chôn trong mồ trọn ba ngày rồi sống lại, nhưng tất cả đều nói là “Ngày Thứ Ba, Ngài sẽ sống lại”.

Như vậy Chúa sống lại đúng như lời Ngài tiên báo:

Chúa chết vào ba giờ chiều ngày Thứ Sáu, coi như  là ngày thứ nhất. Người ta vội vả chôn cất Chúa cho xong trước khi ngày Vượt Qua, tức ngày Sabbath bắt đầu lúc sáu giờ chiều.
Chúa trong mộ suốt ngày Thứ Bảy, coi như ngày thứ hai Chúa chết.
Ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa Nhật, ngày thứ ba sau khi Chúa chết, Chúa đã sống lại vinh quang. 

Cách giải thích khác.

            Trong Matthêô 12:40 Chúa chỉ có ý so sánh Chúa  ở trong mồ, giống như Giôna trong bụng cá. Giôna là hình ảnh tiền trưng của Chúa Giêsu, để diễn tả việc Chúa chết, chôn trong mồ và sống lại. Chúa so sánh là so sánh sự kiện xảy ra, chứ không phải so sánh thời gian xảy ra của hai sự kiện. Hơn nữa chúng ta được cứu độ nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Chuyện Chúa Giêsu bị chôn trong mồ hai ngày, ba ngày hay 1 năm không là yếu tố quan trọng của ơn cứu độ.

            Làm sao chứng minh Chúa đã sống lại cho người không tin hay kém tin?

            Không khó lắm khi chứng minh cho người đã có đức tin hay có cảm tình với người có đạo về việc Chúa Phục Sinh. Với những người nầy, chúng ta chỉ cần minh chứng Chúa đã sống lại thật với hai lý do:

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ  khám phá ra mồ trống, khăn liệm và vải liệm xếp gọn ghẽ. Có hai thiên thần trong mộ và bảo là “Ngài không còn đây, Ngài đã sống lại”. Tất cả các Phúc âm đều có tường thuật Chúa Phục Sinh vào “ngày Thứ Nhất trong tuần” nầy.

Chúa Phục Sinh đã hiện ra cho các môn đệ và cho rất nhiều người. Các Phúc Âm đều tường thuật về Chúa Phục Sinh xuất hiện cho Bà Maria Mađalênna, cho hai môn đệ đi về làng Êmau, cho các tông trong căn phòng đóng kín cửa, lần đầu vắng Tôma, lần sau có Tôma, rồi trên bãi biển có cả bếp và than hồng để nướng cá. Đặc biệt, trong Thư Thứ I gửi Giáo Đoàn Côrintô 15:4-8 cũng như trong Tông Đồ Công Vụ 1:22, Phaolô xác tín là Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho Phêrô, cho các tông đồ và có lúc cho cả đám đông 500 người và cho cả chính bản thân Ông.

            Hai viện dẫn trên đều đặt nền trên Kinh Thánh thuần tuý. Nhưng nếu có người yêu cầu bằng chứng từ lịch sử dân sự, chúng ta sẽ trả lời thế nào?

            Có  một sử gia người Do Thái nổi tiếng thời bấy giờ tên Flavius Josephus,  sống sau Chúa Giêsu từ năm 37-100 có minh định trong Jewish Antiquities quyển 18 chương 3 rằng: Dưới thời hoàng đế Roma tên Cêsar, tổng trấn Phongxiô Philatô ở Do Thái, người Do Thái thù ghét một người khôn ngoan, nỗi tiếng trong dân mang tên Giêsu. Họ đã làm áp lực buộc Philatô hành hình, đóng đinh giết chết tên Giêsu. Sau đó Ông sống lại và hiện ra cho các môn đệ. Môn đệ Ông Giêsu đi khắp nơi rao truyền về tên Giêsu, đã chết và sống lại.

Thứ  đến là lời giảng dạy và làm chứng của các tồng đồ: 

Các Tông Đồ giảng về Ông Giêsu đã chết và đã sống lại, Tông Đồ Côngt Vụ 2:41.
Phêrô  và Gioan làm phép lạ nhân danh Đức Giêsu đã chết và sống lại, Tông Đồ Công Vụ 3,11

Trong Tông Đồ Công Vụ 4:20 tường thuật việc các tông đồ không còn sợ giới cầm quyền Do Thái như  trước nữa. Các Ngài hiên ngang tuyên bố: phải nghe lời Thiên Chúa hơn là giới lãnh đạo Do Thái.

Tất cả các Tông Đồ bị bắt bớ và bị  giết chết vì đã rao giảng Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại. Nếu đó không là chuyện có thật, ai dám chết cho chuyện gian dối hay bịa  đặt? Nếu đó là chuyện gian dối hay bịa đặt, làm sao có thể giữ kín trong suốt hơn hai ngàn năm qua?

III. Thực hành P.Â.:

Chúa Giêsu Phục Sinh vinh quang, Ngài chiến thắng kẻ  thù.

Bàì hát tên “Từ trên ghềnh đá” (Philatô đặt Chúa trên bục đá cao được gọi là Gabbatha) cảm hứng từ phiên toà xử Chúa vào sáng Thứ Sáu trong sân dinh tổng trấn Philatô, có điệp khúc như sau:

Từ  trên nền đá. Chúa đã nhìn thấy. Nhìn thấy  đám dân kêu la. Chúa đã nhìn thấy. Nhìn thầy có  con đàng xa. Và khi trông xuống chắc Chúa buồn lắn. Vì thấy đám dân vô ơn. Thế mà Chúa còn muốn thứ tha nhiều hơn.

Kẻ thù của Chúa là Satan, là tử thần, là những người đã âm mưu giết Chúa. Những người đã hò hét “tha Baraba cho chúng tôi! Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” Họ đã thành công, họ đã thở phào nhẹ nhõm, vì Chúa đã bị giết chết. 

Nhưng Chúa Phục sinh chiến thắng vinh quang. Không vì Chúa sát phạt hay trả thù được kẻ giết mình. Nhưng vi “Chúa còn muốn thứ tha nhiều hơn!” Chúa chiến thắng vi Chúa không còn kẻ thù. Không ai chết cả nhưng tất cả đã được tha thứ và thành bạn của Chúa. Chúa thu phục cả thế giới thành một gia đình có Chúa là Cha và mọi người là anh em.

Thường người ta hiểu: Chiến thắng có nghĩa là đánh bại kẻ thù hay tiêu diệt kẻ thù. Không bao giờ thành công! Giết chết kẻ thù, nhưng còn bạn bè, dòng họ, con cháu của kẻ thù… Chúa đã chọn cách chiến thắng hay nhất: Biến thù thành bạn. Người ta có thề thù ghét mọi người trừ người thương mình.

 Hãy sống như người chiến thắng: Làm bạn với tất cả mọi người hay giao tiếp được với tất cả mọi người. Cuộc đời thật ý nghĩa và thú vị khi có nhiều bè bạn.

 Chứng nhân Phục Sinh: An vui

            Tôi muốn nói đến niềm vui và sự bình an tâm hồn trong cuộc sống.
Trong lần tham dự Đại Hội Thánh Thể lần thứ  49 được tổ chức ở Québec tháng 6 năm 2008. Chúng tôi có dịp đi thăm những nữ tu ở các đan viện Cát Minh, tức dòng kín ở Danville và Dolbeau-Mistassini. Những nữ tu nầy không còn trẻ, tuổi đời tất cả đã khá cao. Họ đã sống âm thầm nhiều chục năm qua trong tu viện.

Chúng tôi, quen lối sống giao tế xã hội ngoài đời, nghĩ rằng: Những nữ tu nầy chắc buồn chết đi được. Cả ngày không thấy một bóng người qua lại. Những chuyện thường nhật thật buồn tẻ: kinh nguyện nhiều lần trong ngày, rồi thánh lễ, rồi phục vụ chăm sóc người già, người bệnh hay làm những thủ công như thêu đan, khâu vá…

Nhưng không ngờ khi gặp được những nữ tu nầy. Chúng tôi thấy các nữ tu còn yêu đời, vui vẻ, lanh lợi và bình an hơn chúng tôi nhiều. Lý do: Họ hoàn toàn phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, không bon chen, không nói đến chuyện tiến bạc hay giàu nghèo, không tích góp tư lợi hay của cải vật chất… Thật hạnh phúc và bình an. Tôi đã nhận thấy rõ ràng điều đó nơi các nữ tu Cát Minh. Tôi đã cầu cho mình có được niềm vui và bình an như các nữ tu.

Làm sao để có đời sống thật vui vẻ và tâm hồn bình an? Chỉ cần làm những điều các nữ tu dòng kín đang làm:

Cầu nguyện nhiều hơn.

Trao tất cả vào tay Chúa quan phòng.
Dẹp bỏ những bon chen, giành giật hay tranh chấp quyền hành, ảnh hưởng và tiếng khen.
Sống yêu thương, bác ái với mọi người và với hy vọng ngày mai sẽ phục sinh.