Trang

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Đức Giêsu trên thập giá: tự do và chiến thắng sự dữ

Đức Giêsu trên thập giá: tự do và chiến thắng sự dữ

Những nỗichrist_passion_movie_cross đau cả về thể lý lẫn tinh thần mà con người phải chịu có thể đặt ra một câu hỏi rất lớn về vấn đề sự dữ. Bao nhiêu suy tư sâu xa của con người về vấn đề này cho tới nay, dù đã đưa ra những lý giải nhất định, nhưng vẫn phải chấp nhận một điều: mầu nhiệm – theo nghĩa, con người không thể hiểu và giải thích được một cách rốt ráo nguồn gốc của sự dữ. Tuy vậy, liệu khi đã biết được nguồn gốc của sự dữ, người ta có thể triệt tiêu được nó hay vẫn phải sống với nó, sống trong nó, mà nhiều khi còn đau đớn hơn nữa vì ‘biết mà không thể làm gì được’ – sự bất lực. Ở đây, không nhất thiết phải tranh luận về nguồn gốc hay luận lý triết học, cho bằng nhìn vào thực tại: dù biết về nguồn gốc của nó hay không, sự dữ đã tồn tại, vẫn tồn tại trong đời sống của từng con người. Vậy nên, câu hỏi có lẽ cần được quan tâm hơn đó là “Liệu con người có thể tự do với sự dữ và chiến thắng được nó trong chính mình hay không?”
Nhập thể làm người, Con Thiên Chúa – Đức Giêsu Kitô – đã không đến để lập luận và chỉ cho con người nguồn gốc sự dữ, một cách tiêu cực mà nói, để thỏa mãn tri thức nhân loại, hay nói một cách tích cực hơn, để khai sáng tri thức con người trong vấn đề sự dữ. Không, Ngài đã không làm vậy. Điều Ngài đã làm là đi vào trong sự dữ và chiến thắng nó. Ngài chiến thắng nó  chúng ta, cho chúng ta.
Hãy xem cách Ngài đã chấp nhận đối diện với sự dữ, đã ở trong nó trước khi chiến thắng nó như thế nào. Nếu cái chết là một sự dữ, thì ngay khi nhập thể làm người, Ngài đã chấp nhận một quy luật, mà nói một cách bi quan, là sinh ra để…chết đi. Nếu sự chống đối và thù ghét của người khác là sự dữ, thì Ngài đã đối diện với nó, đã chịu đựng nó trong suốt thời gian Ngài rao giảng. Nếu sự hành hạ và sỉ nhục cả về tinh thần lẫn thể lý là sự dữ, thì Ngài đã gánh lấy nó trong suốt cuộc thương khó. Trước tất cả những sự dữ đó, chúng ta đã thấy Ngài phản ứng như thế nào? Ngài kêu gào đòi hỏi công lý cho mình? Ngài tra vấn tri thức nhân loại về nguyên nhân sự dữ mình phải chịu? Ngài phản kháng tiêu cực bằng bạo lực? Ngài giằng xé chính mình để rồi mang thương tổn tâm lý nặng nề? Ngài đòi hỏi người khác phải trả lẽ vì họ đã bách hại nhau và bách hại Ngài? Ngài đốt lửa thù hận trong lòng mình? Ngài nuôi lớn sự dửng dưng trong tim mình? Ngài bi quan yếm thế? Ngài chạy trốn thực tại đau đớn bằng những thứ “thuốc giảm đau”?
Không, Ngài chưa bao giờ như vậy và không bao giờ như vậy! Ngài im lặng mang tất cả những điều đó lên thập giá. Nếu thập giá là một nỗi ô nhục nhất mà con người có thể dành cho nhau, thì Ngài đã mang sự dữ trả về nơi ở của nó, đã đóng đinh nó vào chính hang ổ của mình, và ngay tại đó, trong ‘ngôi nhà’ của sự dữ, Ngài đập tan nó bằng việc thinh lặng đối diện, chấp nhận chịu đau đớn và chiến thắng nó với sự phục sinh. Ngài tự do với sự dữ, một sự tự do được thể hiện không phải với thái độ dửng dưng, bất chấp, cũng không phải với thái độ vô cảm với chính những đau khổ của mình. Ngài vẫn cảm nhận nỗi đau đang đến với mình, Ngài vẫn thấy đau khổ (như trong vườn dầu) và cần đến Thiên Chúa. Ngài không tự kết liễu đời mình, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ngài đã chọn vâng theo ý Cha, một chọn lựa không hề bị điều khiển bởi sự dữ. Ngài chấp nhận cái chết. Đó là cách Ngài chiến thắng sự dữ. Bao lâu sự dữ còn ảnh hưởng, thao túng và nhuộm đen trái tim cũng như tâm hồn con người, nó còn chiến thắng trên họ. Đức Giêsu là Con người Đầu tiên tự do với sự dữ và chiến thắng nó với sức mạnh của Thiên Chúa – vốn được tỏ lộ trong sự yếu đuối của thân phận con người nơi Ngài.
Đức Giêsu trên thập giá là câu trả lời cho nghi vấn “Con người có thể tự do với sự dữ và có thể chiến thắng nó trong chính mình hay không?”
Nguyễn Phúc Hoàng Dũng, S.J.

Phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô (3)

Phương pháp giảng dạy của Đức Phanxicô (3)


 
Tác giả: 
 Vũ Văn An

III. Nói gì cũng dựa vào Sách Giáo Lý

Đức Phanxicô, trong bài phỏng vấn của tạp chí America, cho biết rõ: “Trong chuyến bay từ Rio de Janeiro trở về, tôi nói rằng nếu một người đồng tính có thiện chí và đi tìm Thiên Chúa, thì tôi là ai mà dám phê phán họ. Nói như thế là tôi chỉ nói điều Sách Giáo Lý dạy”.

Để chứng minh cho câu nói của ngài, ký giả Tom Hoopes đi tìm nhiều nhận định khác của Đức Phanxicô, từng gây bối rối cho nhiều người, xem thực sự câu nói của ngài có giá trị hay không.

1. Tự do của người ta

“Mỗi người chúng ta có viễn kiến riêng về tốt hoặc cả xấu nữa. Chúng ta phải khuyến khích họ hướng tới điều họ cho là tốt”.

Câu trên được coi là dịch đúng lời nói của Đức Phanxicô không như trong tường trình của tờ La Republica rằng “mọi người đều có ý niệm riêng của mình về tốt xấu và phải chọn theo điều tốt và bỏ điều xấu theo quan niệm của mình”.

Điều trên nghe có vẻ duy tương đối… Nhưng thực ra, tự do căn để của con người và niềm tín thác rằng Thiên Chúa sẽ hướng dẫn nó, là điểm chủ chốt trong mục 6 phần ba của Sách Giáo Lý, nói về lương tâm luân lý. Đoạn chủ yếu là:

Đoạn 1778: Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm, đang làm hay đã làm, là tốt hay xấu. Trong lời nói và hành động, con người phải trung thành tuân theo điều mình biết là chính đáng và ngay lành.

2. Đoàn chiên vô ngộ?

“Và mọi tín hữu, xét như một toàn thể, đều vô ngộ trong các vấn đề thuộc đức tin, và họ bày tỏ tínhinfallibilitas in credendo này, tức tính vô ngộ trong khi tin, qua một cảm thức (sense) siêu nhiên của đức tin nơi mọi tín hữu cùng bước đi với nhau”.

Ngài nói như thế trong cuộc phỏng vấn của tờ America. Nếu rà trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo ta sẽ thấy đoạn này;

Đoạn 889: Ðể gìn giữ đức tin tinh tuyền do các tông đồ truyền lại, Chúa Ki-tô muốn cho Hội Thánh Người tham dự vào sự bất khả ngộ của chính Người, vì Người là Chân lý. Nhờ "cảm thức siêu nhiên về đức tin", Dân Thiên Chúa "gắn bó không sai lầm với đức tin" dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền sống động của Hội Thánh (LG 12; DV 10).

Chính Đức Bênêđíctô XVI, trong bài nói chuyện với Ủy Ban Thần Học Quốc tế ngày 7-12-2012, cũng nhắc lại giáo huấn của Vatican II trong Lumen Gentium (số 12) rằng “toàn bộ tín hữu… không thể sai lầm trong các vấn đề đức tin”.

3. Hãy tuyên xưng Chúa Giêsu, chứ đừng tuyên xưng “những qui luật hẹp hòi”

“Giáo Hội đôi khi tự khóa mình vào những điều nhỏ mọn, những qui luật hẹp hòi. Điều quan trọng hơn cả là tuyên xưng thứ nhất: Chúa Giêsu Kitô đã cứu vớt bạn. Và các thừa tác viên của Giáo Hội, trên hết, phải là các thừa tác viên của lòng từ bi”.

Câu cuối cùng trên đây gần như là một tuyên ngôn về sứ vụ của Đức Phanxicô, và việc ngài nhấn mạnh tới lòng từ bi vốn gây ngỡ ngàng cho một số người. Họ sợ rằng lòng từ bi, trên thực tế, sẽ trở thành sự “dửng dưng đối với tội lỗi”. Đây là cuộc tranh luận từng diễn ra từ thời người anh cả của Đứa Con Hoang Đàng tới cuộc tranh cãi chung quanh việc Đức Gioan Phaolô II tiếp đón ông Kurt Waldheim, Tổng Thống Áo mới đây.

Nhưng Đức Phanxicô hoàn toàn đúng khi quả quyết ở đây rằng, Giáo Hội có nhiệm vụ tuyên xưng Chúa Giêsu trên hết mọi sự, chứ không bao giờ tuyên xưng luật lệ trên Chúa Giêsu. Cả tiết nói về phúc âm hóa trong Sách Giáo Lý giúp ta hiểu rõ việc này. Chỉ xin trích dẫn một số câu đầu của các đoạn:

• Đoạn 425: Truyền đạt đức tin Ki-tô giáo, trước tiên là loan báo Ðức Giê-su Ki-tô, để dẫn đưa mọi người đến chỗ tin vào Người…
• Đoạn 426: Trọng tâm của huấn giáo là một Con Người, con người của Ðức Giê-su Na-da-rét, Con Một của Chúa Cha ...
• Đoạn 427: Trong huấn giáo, ta giảng dạy về Ðức Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể và Con Thiên Chúa; tất cả những điều khác được giảng dạy quy chiếu về Người…
• Đoạn 428: Người nào được mời gọi "giảng dạy về Ðức Ki-tô" trước hết phải tìm "mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Ki-tô"; phải "mất hết ... để được Ðức Ki-tô và được kết hợp với Người"…
• Đoạn 429: Việc nhận biết Ðức Ki-tô và tâm tình yêu mến sẽ khơi dậy nơi chúng ta khát vọng loan báo về Người, phúc âm hóa và giúp mọi người tin vào Ðức Giê-su Ki-tô

Thực ra Đức Bênêđíctô XVI cũng không nói khác: “chúng ta đừng để đức tin của ta bị khô cạn bởi quá nhiều thảo luận liên miên, về những chi tiết vụn vặt, nhưng đúng hơn, luôn để mắt trước nhất tới sự cao cả của Kitô Giáo.

“Tôi còn nhớ, hồi còn năng trở lại Đức trong hai thập niên 1980 và 1990, tôi thường được yêu cầu phỏng vấn và tôi luôn biết trước các câu hỏi. Họ thường hay hỏi về phong chức phụ nữ, ngừa thai, phá thai và những vấn đề cứ lặp đi lặp lại hoài.

“Nếu ta để mình bị lôi kéo vào các cuộc thảo luận này, thì Giáo Hội sẽ đồng hóa với một số giới răn hay cấm cản; ta cho người ta cảm tưởng ta là các nhà mô phạm luân lý với những xác tín đôi chút lỗi thời, không một chút gợi ý nào cho thấy sự cao cả thực sự của đức tin. Bởi thế, tôi luôn cho là điều chủ yếu việc ta làm nổi bật sự cao cả của đức tin ta, một cam kết mà ta không được để cho các tình thế kia làm sao lãng”

4. Tình yêu, chứ không vụ luật pháp

“Nếu Kitô hữu là người duy phục chế, hay duy luật pháp, nếu họ muốn điều gì cũng sáng sủa và an toàn, thì họ sẽ không tìm thấy điều gì cả. Truyền thống và tưởng nhớ quá khứ phải giúp ta có can đảm mở ra các khu vực mới cho Thiên Chúa. Ngày nay, những ai luôn đi tìm các giải pháp kỷ luật, những ai mong mỏi sự ‘an toàn’ tín lý quá đáng, những ai ương ngạnh cứ nhất định cố gắng phục chế một quá khứ vốn không còn nữa, là đã duy trì một tầm nhìn tĩnh tụ và hướng nội nhiều quá. Với cái nhìn ấy, đức tin trở thành một ý thức hệ giữa nhiều ý thức hệ khác”.

Bác bỏ ý thức hệ, kể cả ý thức hệ tôn giáo, hiện là một giáo huấn quan trọng nữa của Đức Phanxicô. Và đó là một giáo huấn cực kỳ quan trọng đối với thời đại ta, một thời đại chuyên biến mọi sự thành ý thức hệ. Đây cũng là một bài học của Sách Giáo Lý.

Đoạn 1972: Luật mới được gọi là luật yêu thương vì dạy ta hành động theo tình yêu mà Thánh Thần thông ban cho, hơn là vì sợ hãi. Luật mới được gọi là luật ân sủng, vì nhờ đức tin và các bí tích, chúng ta nhận được sức mạnh của ân sủng để hành động. Luật mới là luật tự do (x. Gcb 1,25; 2,12) vì giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc về nghi thức và pháp lý cũ, giúp chúng ta hành động theo sự thôi thúc của đức mến, và sau hết nâng chúng ta từ tình trạng tôi tớ "không biết việc chủ làm", lên bậc bạn hữu của Ðức Ki-tô "vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy thì Thầy đã tỏ cho anh em biết" (Ga 15,15) và còn biến anh em thành con thừa tự nữa (x. Gl 4,1-7. 21-31; Rm 8,15) .

5. Một Giáo Hội có thể thay đổi?

“Việc con người tự hiểu về chính mình thay đổi với thời gian, và do đó, ý thức nhân bản cũng được thâm hậu hóa. Ta hãy nghĩ về thời điểm khi chế độ nô lệ được chấp nhận hay án tử hình được cho phép một cách không thắc mắc. Do đó, chúng ta đã phát triển trong việc hiểu chân lý. Các nhà chú giải và các nhà thần học giúp Giáo Hội trưởng thành trong các phán đoán của mình. Ngay các khoa học khác và việc chúng phát triển cũng giúp Giáo Hội trong việc trưởng thành về hiểu biết của mình. Có những luật lệ và giới răn của Giáo Hội trước đây hữu hiệu, nhưng nay chúng đã mất giá trị hay ý nghĩa”.

Lời lẽ trên đây của Đức Phanxicô có thể bị coi như lời chỉ trích đối với các tín điều, nhưng thực ra chúng nói lên các biểu thức chính dòng của niềm tin Công Giáo về sự phát triển học lý Kitô Giáo. Như chính Sách Giáo Lý quả quyết:

Đoạn 94: Nhờ Thánh Thần trợ giúp, sự hiểu biết về các thực tại và các lời thuộc kho tàng đức tin có thể tăng trưởng trong đời sống Hội Thánh :

-"Nhờ suy niệm và học hỏi của những tín hữu hằng gẫm suy trong lòng những thực tại và lời nói ấy" (DV 8); đặc biệt "việc nghiên cứu thần học giúp đào sâu hiểu biết về chân lý mặc khải" ( x. GS 62, 7; x. 44, 2 ; DV 23, 24; UR 4 );
-"Nhờ sự hiểu biết nội tâm mà các tín hữu cảm nhận được những điều thiêng liêng" (DV 8); "Lời Chúa lớn lên cùng với người đọc" ( Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giảng về Ed 1, 7, 8);
-"Nhờ lời rao giảng của các vị trong hàng Giám Mục đã nhận được đặc sủng chắc chắn về chân lý " ( DV 8).

http://www.thanhlinh.net/node/86856

Lên Đồi Với Chúa 5: HỒI KÝ CỦA SIMON KYRÊNÊ


Lên Đồi Với Chúa 5: HỒI KÝ CỦA SIMON KYRÊNÊ


Có lẽ chẳng5_simonkyrene bao giờ tôi có thể tin rằng, chỉ một buổi chiều thôi mà cuộc đời của tôi đã chuyển sang một trang mới. Chẳng bao giờ tôi có thể tưởng tượng rằng, người làm biến đổi đời mình lại là một phạm nhân sắp phải chịu chết. Ấy vậy mà sự việc dường như không tưởng ấy lại xảy ra cho tôi vào một buổi chiều lễ Vượt qua, với một người tử tù mang tên Giêsu.
Khoảnh khắc ấy đến thật bất ngờ. Không bất ngờ sao được khi một kẻ vốn thờ ơ với tôn giáo như tôi lại bỏ đồng về nhà sớm để chuẩn bị cho lễ Vượt qua. Không bất ngờ sao được khi một người vốn dửng dưng với thế sự, hững hờ với phận người như tôi lại cố chen chân để xem cho biết những kẻ tử tội chiều nay là ai. Nói chung cũng chẳng phải tôi sốt sắng đạo đức hoặc xót thương người đau khổ cho bằng, thấy các nhà nông khác về sớm dọn lễ thì mình cũng phải về, thấy bà con ùa nhau chen chúc thì mình cũng xin một chút bon chen xem sao. Nhưng oái oan thay, vừa chen được vào thì người tử tù Giêsu lại gục ngã ngay trước mặt tôi, thân bị đòn roi tả tơi chẳng còn vác nổi cây thập giá nữa. Thế là tránh vỏ dưa lại gặp ngay vỏ dừa, đã cố né rắc rối thì lại bị rắc rối bám chặc vào người. Mặc cho tôi có viện mọi lý do để từ chối, thì những tên lính Rôma hung tợn vẫn cứ ép buộc tôi phải vác đỡ thập giá cho người tử tù này. Dẫu cho tôi có than van cầu xin đủ điều, thì chúng vẫn cứ đặt thập giá lên vai tôi. Thôi thì để tránh phiền phức, cực chẳng đã tôi mới phải ghé vai vác lấy cái thứ vừa ô nhục vừa chết chóc này.
Nghĩ lại cũng lạ, hai đầu thập giá, một bên muốn buông xuôi cho rãnh nợ, bên kia lại tha thiết ôm lấy. Một bên chán nản muốn trốn chạy, bên kia vẫn kiên trì lê từng bước. Một bên mồ hôi thấm đẫm chưa hết áo, bên kia máu đã nhuộm đỏ cả người. Vì sao Người không một lời than trách cho những đòn roi vô tâm? Vì sao người cố ôm lấy thập giá để tiến bước dù đôi chân đã gục lên quỵ xuống nhiều lần? Vì sao khi những mũi đinh đã đâm thâu xương thịt, đôi mắt Ngài vẫn hiền lành, miệng Ngài vẫn cứ cầu xin Cha tha tội cho những kẻ đang hả hê cười nhạo và tra tấn Ngài?
Những câu hỏi đó vẫn cứ lởn vởn trong đầu tôi như muốn tìm lối thoát. Nếu có một Thiên Chúa quyền năng đã dẫn toàn dân vượt qua biển Đỏ ráo chân, thì Thiên Chúa đó cũng sẽ đưa dân Ngài đi qua biển khổ cuộc đời này. Nếu có một Thiên Chúa làm chủ sự sống và cái chết, đã cứu những người Do Thái khỏi phơi xác bên Ai Cập, thì Thiên Chúa đó sẽ đưa con người vào sự sống đích thực mai hậu. Nếu có một Thiên Chúa yêu thương thì Ngài sẽ lắng nghe, sẽ xoa dịu và tha thứ mọi tội lỗi nơi cõi lòng của con người yếu đuối.
Và rồi, chính lúc những môn đệ nhát đảm của thầy Giêsu dám trở về để loan báo sự sống lại của Chúa, chính lúc Tin mừng Phục sinh được loan đi khắp thành phố Giêrusalem, thì cũng là lúc, một Thiên Chúa quyền năng, hằng sống và đầy tình yêu mà muôn dân mong đợi, giờ đây đã xuất hiện rõ ràng với tôi. Đó là chính Đức Giêsu Kitô, một Thiên Chúa làm người. Đó là người đã cùng tôi vác thập giá, đã chết và đã sống lại vinh quang.
Chiều hôm nay khi ngồi nhìn hai người con trai là Alexandrô và Ruphô. Cả hai được chịu phép rửa và trở nên những Kitô hữu nhiệt thành, mắt tôi lại chan chứa hai dòng lệ hạnh phúc. Không hạnh phúc sao được khi chính Chúa đã đến, đã đụng chạm cuộc đời vô cảm, tội lỗi của tôi và còn mời gọi tôi vác thánh giá theo Ngài. Thánh giá đó chắc chắn sẽ làm tôi đổ mồ hôi, mệt mỏi và cả đau đớn. Thế nhưng ở đầu bên kia, một Chúa Giêsu vẫn đang kiên trì tiến bước cùng tôi.
(Bài viết được phóng tác từ Tin Mừng theo các thánh Mátthêu 27,32 ; Máccô 15,21-22 ; Luca 23,26)
Phạm Khánh Linh, S.J.
Kỳ tới: GIOAN – YÊU ĐẾN TẬN CÙNG


http://dongten.net/noidung/47868 

Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (2)

Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (2)


 
Tác giả: 
 Vũ Văn An

II. Cuộc Khổ Nạn theo cái nhìn của Thánh Máccô

Một phần vì Tin Mừng Chúa Nhật Khổ Nạn năm nay trích từ Tin Mừng Máccô, phần khác vì dù gì Tin Mừng này cũng được phần đông các học giả Thánh Kinh coi là Tin Mừng đầu hết, nên chúng tôi xin bắt đầu việc đọc cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Tin Mừng này.

Linh mục Donald Senior, C.P., cho rằng: giống như toàn bộ Tin Mừng của ngài, trình thuật Khổ Nạn của Thánh Máccô khá ngắn gọn nhưng cô đọng, chuyển động nhanh và ám ảnh ta không thôi từ biến cố Bữa Tiệc Ly cho tới cái chết và việc chôn cất Chúa Giêsu.

1. Khổ Nạn bắt đầu với lòng trung thành và sự phản bội: Mc 14:1-11

Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Ðức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Ðừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động".

Lúc đó, Ðức Giêsu đang ở làng Bêtania, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo". Rồi họ gắt gỏng với cô. Nhưng Ðức Giêsu bảo họ: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Ðiều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô".

Và Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.

Thánh Máccô bắt đầu trình thuật Khổ Nạn bằng ba câu truyện âm mưu, phản bội và trung thành. Các kẻ thù của Chúa Giêsu, thông thường là phe Biệt Phái và nay các tư tế và trưởng lão tại Giêrusalem, chưa bao giờ từ bỏ các đặc điểm mà Thánh Máccô vốn dùng để mô tả họ ngay từ đầu Tin Mừng của ngài: Họ từng săn đuổi Chúa Giêsu lúc Người thi hành thừa tác vụ tại Galilê và càng tăng cường hơn nữa sự chống đối của họ đối với giáo huấn của Người khi Người tới Giêrusalem. Giờ đây, lòng thù hận khôn nguôi của họ được đóng ấn bằng một âm mưu sát hại Người.

Tuy nhiên, một yếu tố mới khiến ta rùng mình đã được thêm vào: Giuđa, một trong các môn đệ của Chúa Giêsu, vốn được tuyển lựa, yêu thương và ủy thác tham gia vào sứ mệnh của Chúa Giêsu, đi gặp các lãnh tụ và hứa sẽ phản bội Thầy mình. Các lãnh tụ rất vui và hứa trả cho anh một món tiền hậu hĩnh.

Giữa hai câu truyện trên, Thánh Máccô đã khéo léo và hết sức đặc trưng chen vào một câu truyện tuyệt diệu về lòng trung thành. Khi Chúa Giêsu tới thăm Simong Cùi ở Bethany, trên sườn phía đông của Đồi Cây Dầu, một người đàn bà vô danh đập bể bình dầu thơm đắt tiền, rồi xức lên đầu Chúa Giêsu. Trong Thánh Kinh, chỉ các ông vua và tiên tri mới được xức dầu trên đầu, và Thánh Máccô nhắc tới ký ức ấy ở đây.

Mùi dầu thơm vừa lan khắp phòng, những người hiện diện cạnh Chúa Giêsu đều ngỡ ngàng trước cử chỉ quá hoang phí của người đàn bà. Nhưng Chúa Giêsu bênh vực nàng. Nàng đã làm một hành vi trung thành và yêu thương đích thực. Chúa nói với mọi người “cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng” (14:8). Vì thế, Chúa hứa, nàng sẽ được tưởng nhớ tại bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng, người duy nhất trong trọn bộ Tân Ước được hưởng vinh dự này.

Ba cảnh rất tương phản nhau trên đây dẫn độc giả tới tâm điểm của sứ điệp Thánh Máccô. Hai chủ đề chính xuyên suốt trọn bộ trình thuật khổ nạn: một tập chú vào Chúa Giêsu, Đấng cương quyết tự hiến thân vì người khác; chủ đề kia tập chú vào những người vây quanh Chúa Giêsu, một số héo mòn trước nồi nung đau khổ, số khác thành điển hình của đức tin và lòng can đảm.

Khổ nạn vạch trần dụng tâm khủng khiếp của Giuđa và các lãnh tụ, nhưng nó cũng cho ta thoáng thấy tư cách môn đệ chân chính nơi người đàn bà vô danh ở Bethany. Giống Chúa Giêsu, nàng hiểu cả việc Người là ai lẫn việc số phận Người sẽ dẫn tới đâu, và không do dự, nàng đã hành động dựa trên trực giác ấy. Do đó, nàng đã xức dầu thơm để an táng Người và thừa nhận phẩm giá vương đế của Người. Vì tình yêu ấy, nàng sẽ không bao giờ bị quên lãng.

2. Lễ Vuợt Qua cuối cùng: Mc 14:12-31

Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Ðức Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: 'Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?' Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta". Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.

Chiều đến, Ðức Giêsu tới cùng với Nhóm Mười Hai. Ðang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy". Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. Ðã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"

Cũng đang bữa ăn, Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy". Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Ðây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".

Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Ðức Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em". Ông Phêrô liền thưa: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không". Ðức Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần". Nhưng Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

Tin Mừng Máccô nổi danh vì cách đóng khung cảnh chủ yếu bằng hai câu truyện có liên quan. Điều này thấy rõ ở phần tiếp theo của trình thuật khổ nạn: Các lời Chúa Giêsu phán trên bánh và rượu được đóng khung bởi hai lời tiên báo Giuđa phản bội, còn Phêrô và các môn đệ khác thì sai phạm. Một lần nữa, tập chú kép của Thánh Máccô về Kitô học và việc làm môn đệ, rất đặc trưng trong Tin Mừng của ngài, được trình bày rõ ràng. Việc mừng lễ Vượt Qua là khung cảnh của cả ba câu truyện này. Lễ hành hương vĩ đại này của Israel là để tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập, tức hành động yêu thương đầy giải phóng của Thiên Chúa vốn là căn bản cho niềm hy vọng của Israel. Do đó, Tin Mừng muốn làm nổi bật sự kiện này: cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết sẽ giải phóng người khác, đã được quện chặt vào biến cố Vượt Qua.

Thánh Máccô dùng nghi thức đơn giản của bữa ăn Vượt Qua để công bố bằng chính lời Chúa Giêsu ý nghĩa của khổ nạn. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán: “Này là mình Thầy” và rồi cầm lấy chén, một lần nữa tạ ơn, trao cho các môn đệ, “Này là máu giao ước của Thầy, sẽ đổ ra cho mọi người…”

Ở đây, ta thấy ý nghĩa bên trong của mọi hành vi thừa tác của Chúa Giêsu mà Thánh Máccô đã kể trước đó trong Tin Mừng của ngài: việc Người chữa lành đầy cảm thương, việc Người làm bạn với những ai bị bỏ rơi ở bên lề, việc Người giảng dạy một cách mạnh bạo, việc Người đối đầu với sự ác, việc Người nuôi ăn đám đông bị đói. Tất cả những điều này nói lên một cuộc sống hoàn toàn vì người khác, tất cả đều là “bánh bị bẻ ra” và “máu… đổ ra cho mọi người”. Đó chính là tinh thần của sứ mệnh Người, một sứ mệnh cuối cùng sẽ hóa thành chiến thắng và đó cũng là sứ mệnh mà các môn đệ của Người được mời gọi tiếp tục. Nhưng đường còn dài ở phía trước, đau khổ và hồi hướng còn rất cần trước khi họ sẵn sàng. Do đó, lời lẽ long trọng và các cử chỉ hùng hồn của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly đã được đóng khung bằng những lời tiên báo Giuđa sẽ phản bội và các môn đệ còn lại sẽ bỏ rơi Người. Ngay cả Simong Phêrô, người môn đệ đầu tiên của Người (1:16-20) và là lãnh tụ của họ cũng công khai chối Thầy vị sợ hãi và đã bỏ rơi Thầy.

3. Diệtsimani: cầu nguyện và bị bắt: Mark 14:32-52

Sau đó, Ðức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện". Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thẩy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức". Người đi xa hơn một chút, quỵ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình, nếu có thể được. Người nói: "Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha". Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à ? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối". Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Ðứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"

Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. Kẻ nộp Ðức Giêsu đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". Vừa tới, Giuđa tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!", rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nói đứt tai.

Ðức Giêsu nói với họ: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một tên cướp vậy? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Ðền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm". Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.

Giờ đây, khung cảnh đã thay đổi: từ thượng lầu tới Diệtsimani, khu rừng ôliu ở bên ngoài thành phố, và tại đây, trong hai cảnh chính, nhịp độ câu truyện khổ nạn đã tăng tốc.

Bóng ma cái chết bạo hành lởn vởn trong đầu Chúa Giêsu và làm Người khốn khổ. Giống như nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu tìm sức mạnh trong lời cầu nguyện. Đây không hẳn là một lời cầu ngoan ngoãn hay anh hùng mà là một lời cầu nói lên niềm tin nguyên vẹn như từng thấy trong các thánh vịnh: “Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (14:36). Phần lớn tinh thần của Chúa Giêsu là ở đây: kiên tâm, thân mật sùng kính Thiên Chúa, “Ba” của Người, và các cuộc chiến đấu khốc liệt với sức mạnh sự ác cũng như thần chết từng đánh dấu thừa tác vụ của Người tại Galilê (xem 5:1-20).

Thánh Máccô, trước đó, đã cho các độc giả của ngài hay: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Thánh Thần vốn ngự bên trong và là Đấng mà tên đã được Thiên Chúa nhắc đến tại Sông Giócđăng (1:9-11) và trên núi Hiển Dung (9:7). Nhưng Chúa Giêsu cũng là con người đích thực, biết sợ chết và tan nát cõi lòng khi nghĩ rằng sứ mệnh của mình sẽ thất bại. Bởi thế, Thánh Máccô đã dám trình bày với ta cảnh này, một cảnh sẽ mãi mãi nằm trong ký ức Kitô Giáo: một lời cầu nguyện nghẹn ngào tuy đầy đức tin nhưng cũng không thiếu sợ hãi từ môi miệng Chúa Giêsu.

Thánh Máccô tiếp tục phương pháp diễn tả các môn đệ đi ngược chiều rõ rệt với Chúa Giêsu. Ba lần, Người tới tìm hỗ trợ bằng sự hiện diện của họ, chỉ để thấy họ ngủ mê ngủ mệt. Tin Mừng cho thấy rõ “giấc ngủ” này không hẳn chỉ vì mỏi mệt sau một lễ lạc lâu dài. Loại ngủ này nguy hiểm hơn nhiều, nó là trạng thái lờ đờ thiêng liêng của những người không nhận ra giờ phút nguy kịch trong lịch sử và do đó không sẵn sàng đương đầu với cơn nguy kịch này. Chúa Giêsu từng cảnh giác các môn đệ về thứ mê ngủ này: “Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Ðiều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" (13:35-37).

Giờ phút nguy kịch trên đến rất nhanh. Giuđa và đám đông có trang bị xông vào cảnh tĩnh mịch của Diệtsimani để bắt Chúa Giêsu, người môn đệ bỏ đạo này nhận diện Chúa Giêsu bằng nụ hôn phản bội. Lộn xộn diễn ra sau đó: họ tra tay bắt Chúa Giêsu; trong khi ấy, một “người bàng quan” (một người trong đám đông? một người trong các môn đệ của Người?) rút kiếm ra và chém đứt tai một đầy tớ của vị thượng phẩm.

Chúa Giêsu đối mặt với bức tường bạo hành ấy và lên án nó: “Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một tên cướp vậy? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Ðền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm” (14:49). Biết bao lần cảnh này được lặp lại trong các thế kỷ từ ngày Thánh Máccô soạn tác: bắt người ban đêm; các lực lượng của bạo hành tìm cách giập tắt tiếng nói công lý; bạo hành đẻ ra bạo hành nhiều hơn; thái độ anh hùng đơn độc của vị tử đạo từ khước không phản bội tinh thần Thiên Chúa.

Một lần nữa, Thánh Máccô đã tương phản phản ứng của môn đệ với phản ứng của Chúa Giêsu. Cơn nguy kịch đã diễn ra, và họ chịu không thấu. Tất cả đã bỏ trốn, bỏ rơi Chúa Giêsu, một trong số họ hoảng sợ đến nỗi bỏ cả quần mà chạy trần truồng. Các môn đệ quả đã để phẩm giá mình, ơn gọi của mình và Đấng đã hiến mình để họ được sống ở phía sau.

4. Xưng thú và chối bỏ: thượng hội đồng tra khảo: Mark 14, 53-72

Họ điệu Ðức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư, tất cả đều tựu lại. Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với bọn lính canh.

Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng tìm lời chứng buộc tội Ðức Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Ðền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Ðền Thờ Khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ không ăn khớp với nhau.

Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Ðức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Ðức Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Ðấng Kitô, Con của Ðấng Ðáng Chúc Tụng không?" Ðức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến". Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Tất cả đều lên án Người đáng chết.

Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và bọn lính canh túm lấy Người mà tát túi bụi

Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông Người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy". Nhưng ông Phêrô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng; "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Ðức Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần". Thế là ông oà lên khóc.

Khung cảnh lại thay đổi một lần nữa: từ Diệtsimani qua trú sở của Thượng Phẩm, nơi Chúa Giêsu bị các lãnh tụ tra vấn. Văn phong bậc thầy của Thánh Máccô về tường thuật một lần nữa lại hiển hiện. Ngài đóng khung cảnh thẩm vấn bằng cảnh Phêrô chối Chúa, rõ ràng nhằm tương phản nỗi sợ sệt của các môn đệ với lòng can đảm của Chúa Giêsu.

Một loạt các nhân chứng giả được đưa tới để chống lại Chúa Giêsu, nhưng các lời tố cáo của họ mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, một số người đưa ra lời tố cáo gợi trí nhớ các độc giả Tin Mừng: “Tôi sẽ phá Ðền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Ðền Thờ khác, không phải do tay người phàm!"

Trước đó, Tin Mừng Máccô vốn đã mô tả Chúa Giêsu như một tiên tri nóng như lửa, thanh tẩy Đền Thờ và tiên đoán sự tàn phá của nó (11:15-19; 13:1-2). Thực vậy, Chúa Kitô Sống Lại sẽ là đền thờ mới của Thiên Chúa, là “hòn đá bị loại bỏ” sẽ trở thành viên đá góc của một dân thánh mới, nơi Thiên Chúa sẽ cư ngụ (12:10-11). Lời tố cáo này sẽ được nhớ lại khi màn trong cung thánh bị xé làm hai lúc Chúa Giêsu qua đời (15:38).

Thất vọng vì lời chứng thiếu sót của các nhân chứng, vị thượng phẩm hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi có tính chủ chốt: “"Ông có phải là Ðấng Kitô, Con của Ðấng Ðáng Chúc Tụng không?" Chúa Giêsu không do dự trả lời: "Phải, chính thế”. Và Người thêm một thách thức cho những kẻ chống đối Người: một ngày kia họ sẽ thấy tù nhân của họ đến như “Con Người”, nhân vật ám ảnh kia sẽ bị sỉ nhục và bác bỏ, nhưng rồi sẽ được Thiên Chúa hiển dương và sẽ trở lại vinh quang vào ngày tận thế.

Lời tuyên bố mạnh dạn của Chúa Giêsu về căn tính của mình bị địch thủ bác bỏ như lời phạm thượng; họ kết án tử hình Người và bắt đầu nhục mạ Người. Độc giả nào biết rõ căn tính của Chúa Giêsu sẽ chỉ có thể buồn bã sâu xa mà thắc mắc rằng không biết tại sao ta lại có thể mù quáng đến thế về phương diện thiêng liêng.

Thánh Máccô hướng chú ý của ta từ cảnh Chúa Giêsu đứng trước những kẻ bắt giam Người trở lại với sân trước nhà vị thượng phẩm nơi ông Phêrô mệt mỏi xích lại gần một đám nữ tỳ đang quây quần quanh đống lửa ấm. Trong một chuyển động chậm, ta được chứng kiến cảnh sức mạnh của sợ sệt bẻ gẫy quyết tâm của một môn đệ. Ba lần, Phêrô chối, đến biết Thầy ông cũng không, sau cùng còn văng tục mà thề nữa khi bị tràn ngập bởi sợ hãi. Gà bèn gáy và ông nhớ lại lời cảnh cáo của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly. Hãi hùng hiểu ra sự sai phạm của mình khiến ông òa lên khóc.

Câu truyện quen thuộc với ta đến nỗi ta mất cả khả năng ngỡ ngàng vì nó. Chỉ một câu truyện đầy cảm kích này cũng đủ nói lên trọn bộ sự thất bại ê chề của thân phận môn đệ: nhà lãnh đạo của những người được Chúa Giêsu công khai kêu gọi làm môn đệ đã từ bỏ lòng trung thành với Thầy chí ái.

5. Phiên tòa Rôma: Mark 15:1-15

Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Ðồng. Sau đó, họ trói Ðức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.

Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Dothái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó". Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Ðức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho họ một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Baraba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Ðám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ðáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Dothái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Baraba thì hơn. Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Dothái?" Họ la lên: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Ðức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.

Các lãnh tụ Do Thái dẫn Chúa Giêsu tới Philatô để Người bị kết án đóng đinh.Thánh Máccô khiến ta chỉ chú mục vào vấn đề duy nhất này: căn tính vua của Chúa Giêsu, vì lần đầu tiên, quyền lực Rôma được đưa vào câu truyện khổ nạn.

Cảnh này đầy nghịch lý. Philatô, người đại diện của quyền lực đế quốc, chạm trán với tù nhân Do Thái tả tơi này và hỏi Người về tham vọng làm “vua Dân Do Thái”. Trong khi dân của Chúa Giêsu bác bỏ vị vua đích thực của họ mà chọn Baraba, một tên sát nhân, thì Philatô, một Dân Ngoại và là người Rôma, rõ ràng tin chắc sự vô tội của Chúa Giêsu và tìm cách thả tự do cho Người.

Bên dưới tất cả các điều trên là vấn đề vương quyền, biểu thức mạnh mẽ nhất của quyền lực chính trị được độc giả của Thánh Máccô biết tới. Philatô và các địch thủ của Chúa Giêsu đồng ý với nhau ở một điều: Chúa Giêsu không hề là vua. Trong đầu óc Philatô, Người là nạn nhân vô hại của lòng ghanh ghét nơi các lãnh tụ Do Thái; đối với các lãnh tụ này, Người là kẻ tự đòi cho mình thẩm quyền tôn giáo một cách sai lầm và nguy hiểm. Ấy thế nhưng cuối cùng, Người vẫn bị chế nhạo vì tham vọng làm vua: một áo khoác mầu tím, một triều thiên bằng gai nhọn, một vương trượng bằng sậy, và những lời tán tụng nhại sau đó trở thành bạo hành. Nhưng độc giả câu truyện khổ nạn của Thánh Máccô biết rằng không phải Chúa Giêsu mà các biểu tượng của quyền lực đế quốc và lạm dụng bị chế nhạo.

Chúa Giêsu là vua nhưng là một vị vua mà quyền lực không được phát biểu bằng bóc lột hay “áp đặt quyền bá chủ lên người khác” (10:42) mà là hiến mạng sống cho họ. Trước đó, trong hành trình lên Giêrusalem, Chúa Giêsu vốn thúc giục các môn đệ của Người đừng thi hành thứ quyền lực ấy mà chỉ thi hành các quyền lực mà nguồn gốc và ý hướng là hiến mạng sống cho người khác, là quyền lực vốn sinh động hóa chính Chúa Giêsu (10:42-45). Bởi thế, câu truyện khổ nạn đã lên án mọi hình thức quyền lực gian dối.

6. Đóng đinh: Mc 15:16-47:

Lính điệu Ðức Giêsu vào bên trong dinh, tức là dinh tổng trấn và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng chào bái Người: "Vạn tuế đức vua dân Dothái!" Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều Người ra để đóng đinh vào thập giá.

Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Ðức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Ðồi Sọ.

Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Dothái". Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.]

Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin". Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.

Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Êlia". Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không. Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa".

Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxê, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Ðức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó.

Chiều đã đến, mà vì hôm ấy lại là ngày sửa soạn, tức là áp ngày sabát, nên ông Giôxép tới. Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Ðại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Ðức Giêsu. Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giôxép lãnh lấy thi hài. Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Ðức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Mácđala và bà Maria mẹ ông Gioxê, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.

Trong trình thuật Máccô, đoạn kết thúc đã đến rất nhanh; câu truyện được thuật lại trong ít chữ, như thể quá đau lòng không tìm được lời để viết thêm. Philatô từ bỏ cố gắng thả Người ra và đã kết án Người chịu đóng đinh. Chi tiết cuộc hành quyết cho thấy Chúa Giêsu bị đưa lên Golgôtha, nơi Người được cung cấp một loại thuốc mê nhưng Người từ chối; Người bị lột áo xống và bị đóng đinh vào thập giá. Hai kẻ nổi loạn cùng bị đóng đinh cạnh Chúa Giêsu, mỗi kẻ một bên, tạo thành một hàng xóm buồn bã. Chiếc bảng nhỏ trên thập giá ghi hàng chữ chế giễu: “Vua người Do Thái”.

Trong khi ngắm Người qua đời, hàng loạt những châm chọc được ngỏ với người trên thập giá: đe dọa phá đền thờ; có khả năng cứu người khác nhưng lại không có khả năng tự cứu mình. Thánh Máccô mô tả lời châm chọc cuối cùng bằng một giọng hết sức mỉa mai: “Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (15:32). Nhưng độc giả của Thánh Máccô biết rằng quyền lực của Chúa Giêsu được chứng minh không phải bằng cách đập bể tan tành cây thập giá mà bằng cách mang lấy nó, hiến mạng sống cho người khác. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạnh sống mình?” (8:34-37).

Bóng tối trùm phủ Golgôtha và trong cảnh mù mịt ấy, lời than cuối cùng của Chúa Giêsu vang lên: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?". Đó là câu đầu của Thánh Vịnh 22, lời cầu nguyện vĩ đại của đức tin đau khổ Do Thái Giáo. Trình thuật khổ nạn của Thánh Máccô vốn được mô tả như một “vượt qua đêm đen”: Chúa Giêsu bị lột hết các môn đệ, hết tự do, hết phẩm giá, hết sự sống khi Người trao đi từng sợi hữu thể của Người vì thế giới.

Và như thế, trong trình thuật của Thánh Máccô, Chúa Giêsu chết với một tiếng kêu không lời nhưng vang vọng khắp ngọn đồi thương đau, xé đôi màn trong đền thờ và đốt lên ngọn lửa đức tin trong trái tim viên bách quản. Chứng nhân bất ngờ này nhìn thấy trong cung cách chết của Chúa Giêsu cho người khác cả một mạc khải chân thực của Thiên Chúa. Việc nhìn thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh đã bật khởi trong ông lời tuyên xưng đức tin trọn vẹn đầu tiên trong Tin Mừng: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (15:39). Một mạc khải đầy ngạc nhiên: quyền lực Thiên Chúa được biểu lộ không qua những người phi thường xuất chúng mà qua cái chết vị tha vì yêu thương.

Thánh Máccô hay để ý những điều khó xẩy ra. Các môn đệ được tuyển chọn đều chạy trốn. Nhưng đứng xa xa là những môn đệ trung thành khác, những phụ nữ vốn theo chân Người ở Galilê và cùng tới Giêrusalem với Người. Từ nay, họ ở với Người qua cái chết và việc mai táng, không bao giờ bỏ rơi Người. Hai người trong số họ, Maria Magđalêna và Maria, Mẹ Giosê, sẽ canh chừng phần mộ của Người và sẽ là những người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống và biết chắc Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần (16:1-8). Những môn đệ “khó có” này đã tự chứng minh mình chân thực trong khi các môn đệ lỗi lạc khác đã sai phạm. Họ sẽ là các môn đệ đem sứ điệp hân hoan và hòa giải của Chúa Kitô Phục Sinh đến cho các môn đệ sai phạm.
(Còn tiếp)

http://www.thanhlinh.net/node/86979

Lên Đồi Với Chúa 4: THƯ PHILATÔ GỬI GIÊSU

Lên Đồi Với Chúa 4: THƯ PHILATÔ GỬI GIÊSU

Gửi Ông Giêsu,philato
Lịch sử vẫn thường cho rằng Philatô tôi đây là một kẻ tham lam và tàn bạo, thích đàn áp và bóc lột. Tôi biết có nhiều người Do Thái thời đó ghét tôi lắm, thậm chí phẫn nộ, vì tôi khinh bỉ những tập tục của họ. Rồi khối người ngày nay vẫn cho tôi là kẻ trốn trách trách nhiệm khiến Ông – Chúa của họ – phải chết. Họ không chịu hiểu cho tôi: sở dĩ tôi rửa tay là vì không muốn liên can đến những vấn đề mà tôi cho là chuyện nội bộ Do Thái giáo. Dẫu sao, tôi biết Ông là người hiểu rõ tôi nhất, vì chúng ta đã gặp gỡ nhau mặt đối mặt, và vì bây giờ Ông đã về Vương Quốc của Ông.
Còn nhớ, giới lãnh đạo Do Thái trao nộp Ông cho tôi vào sáng ngày Thứ Sáu tuần lễ Vượt Qua, họ cáo buộc Ông tự xưng mình là vua. Tôi xét thấy Ông không có tội gì đáng phải chết; nhưng khi những kẻ vu cáo kết tội là Ông gây xáo trộn trong cả miền Giuđêa và Galilê, tôi đã phải cho áp giải Ông đến Hêrôđê, vì tôi đã mệt mỏi với những vụ lùm xùm nổi loạn. Con cáo già này lại không xét hỏi Ông mà đem trả lại cho Tôi. Tôi muốn tha cho Ông, tuy nhiên, tôi đành chịu nhượng bộ trước áp lực mạnh mẽ của giới lãnh đạo Do Thái khi họ “chụp mũ” rằng, nếu làm thế, tôi không phải là bạn của Xê-da. Người đời lại thêm cớ xét đoán tôi là con người nhu nhược, thoả hiệp, thiếu lập trường.
Dẫu sao, tên tuổi tôi đã gắn liền với biến cố Thương Khó của Ông. Người Kitô-hữu nhắc đến tên tôi mỗi khi họ đọc Kinh Tin Kính. Tại sao nhỉ? Bởi tôi đóng một vai trò thật quá quan trọng phải không? Đó là làm chứng cho sự thật lịch sử về Ông. Ông Giêsu Nadazeth đã chết vào cái thời Philatô tôi đây làm tổng trấn.
Tôi cũng còn giữ một vai trò khác nữa: làm nổi bật mẫu gương “chứng nhân trung thực” nơi Ông. Có một trò hề trớ trêu trong phiên tòa này. Những kẻ tố cáo không quan tâm mấy đến việc xét xử, liệu xem bị cáo có tội hay vô tội; bọn họ chỉ tìm cách giết Ông cho bằng được. Tôi đâu có phải con nít để không nhận ra rằng họ đang tự biến mình thành kẻ làm điều ác chứ đâu phải người mà họ đang vu cáo. Dễ thấy mà, họ tự cho mình là trung thành với Thiên Chúa, họ không vào trong dinh của Tôi để có thể dự lễ Vượt Qua. Họ tùng phục Thiên Chúa đến mức ai nói phạm thượng thì phải chết, vì Dân Thiên Chúa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa. Rồi rốt cuộc họ lại tuyên bố Xê-da là vua của họ. Haha, hóa ra những kẻ giữ luật, tránh bị nhiễm uế qua hình thức bên ngoài, lại lộ ra thái độ bên trong là xa rời và phản nghịch Thiên Chúa.
Ông biết không, thoạt đầu tôi không muốn liên lụy đến vụ xét xử Ông đâu. Nên tôi nói với những kẻ tố cáo rằng “Các người cứ đem Ông ấy đi và xét xử Ông ấy theo luật của các người”. Tôi không nghĩ Ông là kẻ nguy hiểm về an ninh chính trị, nên đã tìm nhiều cách tha Ông. Bằng chứng là ba lần tôi khẳng định Ông vô tội. Thế mà phiên tòa vẫn chưa chịu kết thúc, chắc Ông cảm nhận được những mâu thuẫn và bất công trong đó. Tôi biết chứ.
Tôi đã tuyên bố không tìm thấy điều gì để kết tội Ông, nhưng lại đặt Ông ngang hàng với Ba-ra-ba vốn là tên tử tội ghê gớm nhất mà tôi đang cầm giữ. Tôi đã cho bọn lính đánh đòn Ông cách thê lương, với hy vọng khiến đám dân to mồm khát máu kia động lòng trắc ẩn. Tôi đã để quân lính nhục mạ Ông đủ điều rồi lại oang oang tuyên bố Ông vô tội. Tôi tuyên bố rằng tôi có quyền tha hay đóng đinh Ông, nhưng tôi lại không thi hành quyền ấy, mà chỉ làm theo đòi hỏi của những kẻ tố cáo Ông mà thôi. Và cuối cùng, tôi đã trao Ông cho họ đem đi đóng đinh. 
Đến đây con người thật của tôi bị vạch trần. Để bảo vệ quyền lợi của mình, tôi đành thí bỏ Ông. Tôi không dám xét xử Ông theo sự thật, và không dám đứng về phía sự thật, mặc dầu đã có lúc tôi muốn biết sự thật là gì. Động thái ấy đã trở thành lựa chọn của tôi. Đã là người thì phải chọn lựa, Ông biết mà!
Cũng trong phiên tòa ấy, căn tính của Ông dần dần được vén mở cho tôi và những ai về sau đọc lại sách Tin Mừng. Thoạt đầu ông bị tố cáo là tên tội phạm. Dần dần, Ông lại là Con Thiên Chúa. Cuối cùng, Ông là vua dân Do-thái. Khi nói về nguồn gốc quyền bính, Ông xét xử những kẻ tố cáo, và xét xử cả tôi nữa, khi Ông nói rằng Philatô tôi đây không có quyền gì nếu không phải do Ơn Trên ban cho, và đám người kia thì có tội lớn hơn tôi. Một ván bài lật ngửa! Ai mà ngờ được, Ông đã thực thi vương quyền của Ông trong thế gian, ngay chính lúc ông bị thế gian tước hết mọi quyền hành. Người bị tố cáo, bị kết tội, hóa ra lại trở thành vị thẩm phán đích thực. Tôi thấy hổ thẹn với chiếc ghế quan tòa của mình.
Tôi đã hỏi Ông có phải là vua dân Do-thái không? Lúc đó tôi hoang mang hơn là đang xét hỏi. Tôi không thể hiểu nổi người đang đứng trước mặt mình là ai. Tôi không biết phải ăn nói với những kẻ tổ cáo Ông thế nào về tội trạng. Lương tâm tôi bối rối. Còn Ông lại hết sức ung dung, bình thản và thẳng thắn. Tôi đang bị sự thật tra xét hơn là người tra xét sự thật. Tôi đang tự tra xét mình ơn là tra xét Ông. Ông đã chất vấn tôi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Và chỉ sau khi chính miệng tôi khẳng định, ông không bị bất cứ ảnh hưởng nào: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi”, ông mới bày tỏ cho tôi về Nước của Ông: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái.” Rồi Ông khẳng định: “Tôi là Vua”. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Giêsu ơi, ông đã đưa tôi đi từ hoang mang này đến hoang mang khác. Tôi buột miệng hỏi lại Ông: “Sự thật là gì”. Có cái gì đó cứ khắc khoải trong tôi ở tận vô thức.
Ông thấy đấy, kẻ không có sự thật như tôi, dù có tự phong cho mình quyền xét xử, vẫn phải khiếp sợ trước Sự Thật. Đứng trước Nguồn Bình An mà không chịu đón nhận, tôi trở nên trống rỗng. Đứng trước Nguồn Tình Yêu mà không mở ra, tôi trở thành kẻ thất bại. Đứng trước Công Lý mà không bênh vực, tôi đâm ra bạt nhược. Đứng trước Lẽ Sống mà không muốn tuân theo, tôi sống vật vờ đến vô hồn.
Tôi biết chứ, nhưng tôi cũng là một con người. Tôi đã không vượt qua được giới hạn của bản thân khi chỉ dựa vào sức mình hoặc thế lực người đời. Tôi là người vừa muốn đi tìm sự thật, thậm chí sự thật nơi một Vương Quốc không thuộc về thế gian này, vừa sợ mất ghế, mất quyền, mất địa vị, mất trắng ngay tại thế gian này. Tôi là kẻ sống hai mặt, và chắc không khác mấy nhiều người trong đám dân Do Thái đang nháo nhào phía dưới, dù tôi với họ không cùng hàng ngũ. Nghĩ mà đau lòng, ngày Ông vào Giêrusalem, người người hỉ hoan đón tiếp và tung hô. Ấy vậy, chỉ một tuần sau thôi, cũng chính đám đông đó, từng người trong số đó, hét to hơn ai hết: “Hãy thả Barabas. Hãy đóng đinh Giêsu vào thập giá.” Không một ai lên tiếng bênh vực Ông ngày ấy, mà chỉ toàn những chứng gian, những kẻ tò mò hay hèn nhát trốn biệt tăm biệt tích. Vậy mà Ông đã đối xử với bọn họ và với tôi thế nào? Sách Tin Mừng đều ghi rõ.
Giêsu ơi, tôi có tội không? Và nếu có, tội tôi có được tha hay không? Chắc chỉ có Ông biết và có thể tha tội cho tôi. Tôi viết thư này thay mặt cho những Philatô của thời hiện đại, và cho cả những người ngoài miệng rêu rao tin Ông mà không sống theo sự thật.
Nguyễn Anh Huy, S.J.
Người viết đã tham khảo từ các nguồn sau:
  1. GB Nguyễn Duy Hành, “Sự thật trong vụ án Philatô xét xử Chúa Giêsu” tại trang web Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơnhttp://vinhson.org/Su-That-Trong-Vu-An-Philato-xet-xu-Chua-Giesu-78a, truy cập ngày 25-03-2015.
  2. Lm. JB Nguyễn Duy Hùng, “Chúa Giêsu và quan Philatô” tại trang web Công Giáo Việt Namhttp://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=68&ia=10660, truy cập ngày 25-03-2015.
  3. Trần Duy Nhiên, “Hãy trả lời cho chính bạn” tại trang web Suy Niệm Hằng Ngày.http://www.suyniemhangngay.org/sn/0903_HayTraLoiChoChinhBan_TDN.php, truy cập ngày 25-03-2015.
  4. Felipe Gómez, “Kinh Tin Kính” tại trang web Hợp Tuyển Thần Học.http://www.htth.org/so/so38_39/38g_duoi_thoi_phongXio_philato.htm, truy cập ngày 25-03-2015.
Kỳ tới: HỒI KÝ CỦA SIMON KYRÊNÊ