Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

1 CHÚA GIÊSU MỈM CƯỜI

 CHÚA GIÊSU MỈM CƯỜI

Vũ Văn An
 


(Nguyên bản: Le Sourire de Jésus
par Pierre Descouvemont
Bản tiếng Việt của Vũ Văn An
)



Giới thiệu

Cha Pièrre Descouvemont là một linh mục thuộc giáo phận Cambrai, Pháp, có bằng tiến sĩ thần học và là tác giả của khá nhiều tác phẩm về linh đạo và hiện theo đuổi một thừa tác vụ giảng dạy (hội nghị, tĩnh huấn) và phụ trách nhiều mục trên các đài phát thanh Kitô giáo. Năm 2015, ngài mở một trang mạng riêng để phổ biến việc giảng dạy của ngài.

Luận án tiến sĩ của ngài viết về Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Têrêxa thành Lisieux và Người Lân cận và Ngài. Từ đó, mà có các trước tác về môi trường, các hình ảnh bé nhỏ, linh đạo của thánh nữ. Cha còn cùng Đức Cha Guy Gaucher, Cha Dòng Cát Minh người Bỉ, Conrad de Meester, và cha dòng Đa Minh người Pháp, Bernard Bro, tổ chức các buổi hội thảo cho các hội nghị về Thánh Têrêxa.

Các tác phẩm của ngài đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, nhất là tiếng Anh, tiếng Tây ban nha, tiếng Ý, tiếng Bồ đào nha, tiếng Đại hàn, tiếng Ukraine và tiếng Ba lan.

Trong số các tác phẩm trên, có cuốn Le sourire de Jésus, do nhà Béatitudes xuất bản năm 2001, viết theo viễn kiến của Thánh nữ Têrêxa và người em tinh thần của ngài là Tôi Tớ Chúa, Marcel Nguyễn Tân Văn, vị tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, qua đời trong lao tù Cộng Sản năm 1946 và hiện trên đường được phong thánh trong Giáo Hội Công Giáo.

Chúng tôi cho chuyển ngữ tác phẩm trên sang tiếng Việt một phần vì nền linh đạo vui tươi của hai chị em kết nghĩa nói trên, cả hai có nụ cười mỉm thật hiền hòa, phản ảnh nụ mỉm cười của Thầy Chí Thánh Giêsu.

Nụ Cười Mỉm của Chúa Giêsu

Các Thánh vịnh thường ca ngợi nụ cười cần có để sống trước tôn nhan Thiên Chúa:

“Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ” (Tv 80:4)

“Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7)

Khi người Do Thái nói đến Tôn Nhan Thiên Chúa, đó là một cách nói rằng Thiên Chúa không phải là một trí khôn vô ngã, “Thiên Chúa không có khuôn mặt” của các tôn giáo phiếm thần hay Tân Đại. Đó là cách quả quyết hết sức rõ ràng rằng Thiên Chúa đẹp đẽ, và là Đấng biết ta và yêu thương ta, một Hữu Thể có bản vị mà với Người ta có thể đối thoại.

Nhưng, vì trung thành với giới răn của Thập Điều (Xh 20:4), người Do Thái tự cấm trình bầy Khuôn Mặt của Đấng Trường Cửu: Thiên Chúa không cần có đôi mắt để thấy ta, cũng không cần đôi tai để nghe ta.

Ấy thế mà từ nhiều thế kỷ qua, các Kitô hữu đã vi phạm lề luật Sinai này. Họ “viết” nhiều ảnh tượng, họ dám vẽ, thậm chí khắc, khuôn mặt của Thiên Chúa! Quả thế, họ tin rằng, trong lòng Trinh Nữ Maria, Con Thiên Chúa trong ngôi vị đã mang một thân xác tương tự như thân xác ta, đôi mắt và đôi tay như của chúng ta, nên, như Công đồng Nixêa thứ hai đã tuyên bố năm 787, điều hoàn toàn hợp pháp là tôn kính Khuôn Mặt Chúa Giêu vốn là Khuôn Mặt của chính Thiên Chúa. Khuôn mặt, mà từ sáng ngày Phục Sinh, không bao giời biến đổi nữa.

Các Kitô hữu sống cuộc hành trình của họ dưới ánh sáng Khuôn Mặt đó, dưới cái nhìn rạng sáng của Người. Theo nghĩa đen, quả Chúa Kitô tỏ cùng chúng ta một cái nhìn vô cùng âu yếm. Phục sinh từ cõi chết, từ đó, Người thoát khỏi mọi giới hạn của không gian và thời gian. Khuôn mặt rạng rỡ ủa Người hiện diện ở đó, rất gần với mỗi người chúng ta, gần hơn khuôn mặt của các người lân cận ta nhiều lắm.

Người mỉm cười với ta và nụ mỉm cười này hẳn phải biến đổi đời sống ta như đã biến đổi tâm hồn và khuôn mặt các thánh.

Cha Foucauld vốn nói rằng “cầu nguyện là nghĩ đến Chúa Giêsu bằng cách yêu mến Người”. Há lời cầu nguyện không thường xuyên phát sinh từ trái tim ta nếu ta để trước mắt ta một hình ảnh nhắc ta nhớ Chúa Giêsu đang nhìn ta đó sao? Tình yêu của ta há sẽ không nồng nàn nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu luôn mỉm cười với ta đó sao?

“Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!
Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và rủ lòng thương anh (em)!
Nguyện Chúa ghé mắt nhìn
và ban bình an cho anh (em)!”
 (Ds 6: 24-26)

Đó là bài đọc đầu tiên mà Giáo Hội làm vang động bên tai ta vào ngày 1 tháng Giêng, ngày đầu mỗi năm mới. Đó là công thức chúc lành mà Aaron và con cái ông được Thiên Chúa mời gọi chúc lành cho dân Do Thái.

Đó cũng là lời chúc lành được Thánh Phanxicô Assisi đọc trên dân thành Ombrie, dân mà ngài mốn tái tạo hòa bình. Đối với vị Thánh Nghèo này (Poverello), khuôn mặt và cái nhìn của Thiên Chúa, hiển nhiên, là chính khuôn mặt và cái nhìn của Chúa Giêsu.

Chúng ta sẽ thấy 3 hướng lời cầu nguyện của chúng ta sẽ theo khi chúng ta nghĩ đến nụ mỉm cười Chúa Giêsu tỏ cùng chúng ta:

-Một nụ mỉm cười hân hoan
-Một nụ mỉm cười biến đổi
-Một nụ mỉm cừời mời gọi nụ mỉm cười của chúng ta.

Chúng ta sẽ theo đuổi cuộc suy gẫm này tại trường của mọi vị thánh trong Lịch sử của chúng ta, nhưng nhất là tại trường của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan.

Lúc còn rất trẻ, Têrêxa đã có quyết tâm luôn sống dưới cái nhìn của Chúa Giêsu. Một chiều kia, lúc ở Trouville, thánh nữ ngắm nhìn thật lâu một thuyền buồm đầy hào quang nhờ những tia lửa cuối cùng của mặt trời đang lặn, bà chợt hiểu ra rằng sự thành công của đời sống sẽ không thể nào thực hiện được bên ngoài “đường cầy vàng” là khuôn mặt của Chúa Giêsu nhìn chúng ta. Thánh nữ viết rằng buổi chiều ấy, “gần chị Pauline, con hạ quyết tâm không bao giờ để linh hồn con xa rời cái nhìn của Chúa Giêsu, để linh hồn con có thể chèo bình an hướng về Quê Trời (1)!”. Sau này, trong đan viện Cát Minh, thánh nữ để vào Sách Nguyện hình ảnh Thánh Nhan để không bao giờ quên cái nhìn của Chúa Giêsu nhìn thánh nữ. Bà viết rằng “may mắn là Người nhìn xuống, bởi nếu Người mở mắt to, người ta sẽ chết vì hạnh phúc!”

Một nụ mỉm cười hân hoan

Giữ chặt đôi mắt bạn vào Người Chăn Chiên
Và đừng để bạn đùa nghịch vui chơi
Lấy cớ để được tự do...
Gai góc biết gây thương tích!

Ôi Chúa Giêsu, Đấng là tất cả của con, khuôn mặt Chúa
Chính là thiên đàng ánh sáng của con
Đã tặng con lúc còn trên đời
Và làm con vui hưởng một tình yêu điên dại!

Chúa Giêsu tự làm Người ba hoa
Bằng cách lấp đầy im lặng
Chỉ bằng cái nhìn của Người

Lạy Chúa Giêsu, một người yêu đương đến thế,
Xin đừng xa rời đôi mắt

Hãy nghĩ Chúa Giêsu đang nhìn bạn
Khi bạn cầm chân bạn trong những chuyện ngu đần!

Chỉ nên duyệt xét dĩ vãng bạn
Bằng đôi mắt Thiên Chúa!

Hướng về khuôn mặt tươi như hoa của bạn
Là Người Yêu Dấu
Đừng phủ bóng tối
Lên trái tim vồn vã của Người!

Con sẽ ra sao nếu không có Ngài
Người Yêu Dấu Giêsu của con?
Vâng! Con sẽ tiêu tan
Nhưng, hạnh phúc thay, Ngài ở đó!

Marie Beaudouin-Croix

Kỳ sau: I. Nụ cười hân hoan
 
Vietcatholic News

Cho đến khi nào, lạy Chúa?

 Cho đến khi nào, lạy Chúa?

croire.la-croix.com, Dominique Greiner, 2021-01-27

Khi bắt đầu cách ly lại, mọi người đều cảm thấy mệt mỏi và cam chịu…

“Cho đến khi nào, lạy Chúa?”  Lời kêu van này đi suốt Thánh Kinh, đó là tiếng kêu than của người viết thánh vịnh, người cảm thấy Chúa quên mình “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ?” (Tv 13: 2)

Và nhất là khi kẻ thù dường như đắc thắng, “Lạy Chúa, tới bao giờ đối phương còn phỉ báng? Địch quân cứ nhục mạ danh Ngài mãi mãi sao?”  (Tv 74:10)

Đó là tiếng kêu của tiên tri Khabacúc, người trách Chúa đã không nghe tiếng kêu của ông, “cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: “Bạo tàn!” mà Ngài không cứu vớt” (Kb 1, 2).

Trong sách Khải Huyền, đó là tiếng kêu của những người tử đạo vì đức tin vào Chúa của họ “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con?”  (Kh 6:10).

Đó cũng có thể là kêu than của chúng ta khi vi-rút vẫn tiếp tục hoành hành công việc giết người của nó và viễn cảnh bị cách ly lại ngày càng hiển nhiên. Lạy Chúa, chúng con sẽ chịu đựng đại dịch này bao lâu nữa? Khi nào chúng con có thể trở lại đời sống bình thường? Khi nào chúng con trở lại cuộc sống không khẩu trang, không giãn cách, không thử nghiệm, không giới nghiêm, nói chuyện giữa người thân, bạn bè, đồng nghiệp với nhau không lưới ngăn cách?

Trong thời điểm khó khăn này, hy vọng của chúng ta thực sự bị thử thách, đôi khi hy vọng tan vỡ. Nhưng Chúa sẽ không bao giờ trách chúng ta vì chúng ta than với Ngài về tình trạng mệt mỏi của chúng ta.

Và trong đức tin, chúng ta tin rằng Ngài đã nói với chúng ta qua Sách Thánh: những câu chuyện của những người, đàn ông cũng như đàn bà đã trải qua thử thách. Ông Nô-ê, ông Áp-ra-ham, ông Gióp, ông Giô-na-than, Maria, Thánh Phaolô, người phụ nữ bị chứng hoại huyết… những vị không những cho chúng ta tấm gương để noi theo nhưng còn là bạn đồng hành với chúng ta. Trong nghịch cảnh, Chúa không để chúng ta một mình và Ngài để chúng ta tự do lựa chọn hình ảnh của người nào sẽ là chỗ dựa cho chúng ta.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

http://phanxico.vn/2021/01/31/cho-den-khi-nao-lay-chua/

Tại sao Thánh Giuse là gương mẫu cho việc cầu nguyện chiêm niệm?

 

Tại sao Thánh Giuse là gương mẫu cho việc cầu nguyện chiêm niệm?

      
  •  


TẠI SAO THÁNH GIUSE LÀ GƯƠNG MẪU CHO VIỆC CẦU NGUYỆN CHIÊM NIỆM?

Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: aleteia.org (07.1.2021)


WHĐ (31.1.2021) – Hình ảnh Thánh Giuse âu yếm ngắm nhìn Chúa Giêsu trong vòng tay có thể cho chúng ta một kiểu mẫu cầu nguyện.

Mặc dù ít người biết rõ ràng về cuộc đời của Thánh Giuse, nhưng chúng ta có thể hình dung ra nhiều điều từ thực tế rằng Ngài là cha nuôi của Chúa Giêsu.


Chẳng hạn, với tư cách là một người cha yêu thương, Thánh Giuse đã ôm trẻ sơ sinh Giêsu trong tay mình.


Hình ảnh đặc biệt này là một kiểu mẫu hoàn hảo cho chúng ta về việc cầu nguyện chiêm niệm.


Tác giả của cuốn sách “Cuộc đời và Vinh quang của Thánh Giuse”, thế kỷ 19, đã  suy ngẫm về hình ảnh này.


Thánh sử Gioan đã tận hưởng một giờ ngắn ngủi sung sướng khi ngả mình trong lòng của Đấng Cứu Độ nhưng đã bao nhiêu lần chính Chúa Cứu Thế không ngả mình vào lòng Thánh Giuse và ngủ một cách ngọt ngào trong vòng tay Ngài hay sao? Theo một nghĩa nào đó, mọi loại ánh sáng thiêng liêng và nhân bản trong Trái Tim của Đấng Cứu Độ hẳn đã được truyền vào linh hồn của Thánh Giuse khi Ngài âu yếm ôm Chúa Cứu Độ… chúng ta phải đặt Thánh Giuse vô song đứng đầu tất cả những người chiêm niệm vĩ đại nhất kể vì Ngài đã sống trong trạng thái liên tục chiêm niệm trong hình thức cao quý nhất.


Theo Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, “Cầu nguyện chiêm niệm là cách diễn tả đơn giản mầu nhiệm cầu nguyện. Đó là một cái nhìn của đức tin chăm chú vào Chúa Giêsu, một sự chăm chú vào Lời Chúa, một tình yêu thầm lặng. Cầu nguyện chiêm niệm đạt được sự kết hợp thực sự với lời cầu nguyện của Chúa Kitô đến mức khiến chúng ta thông phần vào mầu nhiệm của Người”. (GLCG 2724)


Việc chiêm niệm có thể được tóm tắt tốt nhất bằng cụm từ, “Tôi nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi”, một mô tả về lời cầu nguyện mà “một nông dân xứ Ars… thường nói khi cầu nguyện trước Nhà tạm” (GLCG 2715).


Chẳng phải cụm từ đó tóm tắt hoàn hảo cuộc đời của Thánh Giuse, người thường ngắm nhìn Chúa Giêsu trong khi Chúa Giêsu nhìn lại Ngài sao?


Nếu chúng ta muốn bước lên những đỉnh cao của đời sống chiêm niệm, hãy nhìn lên Thánh Giuse như một tấm gương cao cả!



https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/tai-sao-thanh-giuse-la-guong-mau-cho-viec-cau-nguyen-chiem-niem-41391

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2021

2 Đại dịch: Viễn kiến Bí tích, kỳ cuối

 Đại dịch: Viễn kiến Bí tích, kỳ cuối

Vũ Văn An

 

3.LUẬN LÝ ẢO VÀ CÁC BÍ TÍCH KITÔ GIÁO

Những gì chúng ta đã thảo luận cho đến nay về thể xác như một môi trường có tính liên hệ là điều quan yếu để hiểu ơn cứu chuộc do Chúa Kitô mang đến. Và điều này là do Chúa Kitô đã mặc lấy luận lý thông hiệp thể xác mà chúng ta đã mô tả. Thân xác của Người là một thể xác có tính liên hệ, khiến Người trở thành một người trong chúng ta, bước vào dòng dõi các thế hệ mà qua Đức Maria, lên tới Ađam và Evà. Vì vậy, Con Thiên Chúa không những sống trong một lịch sử giống lịch sử của chúng ta mà còn chính lịch sử của chúng ta nữa, lịch sử chung của con người. Nói cách khác, khi mang xác thịt, Con Thiên Chúa đã tiếp nhận cùng một môi trường sống của con người chúng ta, đó là lý do tại sao có thể nói rằng Người “sống giữa chúng ta”. Do đó, “các giác quan môi trường” có tính yếu tính đối với việc Nhập Thể: nghĩa là Người có khả năng đụng chạm, chia sẻ thức ăn của chúng ta, hít vào và thở ra không khí của chúng ta. Nếu lịch sử loài người được kết hợp từ xác thịt này vào xác thịt khác, thì Chúa Kitô, nhờ biến đổi xác thịt Người mang lấy từ Đức Maria, đã biến đổi tận cốt lõi môi trường trong đó con người đang sống. Nhờ cách này, những gì Người đã hoàn thành trong xương thịt Người không ở lại mãi trong Người mà ảnh hưởng đến mọi con người. Nói cụ thể hơn, tất cả những ai bước vào môi trường mới do Người khai mở đều có thể tiếp cận được lối sống của Chúa Kitô. Nhờ bước vào môi trường của thể xác Người, chúng ta có thể nhận được Chúa Thánh Thần, Đấng đã ngự xuống trên Người và hoạt động trong Người. Đây là chỗ các bí tích xuất hiện. Thật vậy, các bí tích kéo dài môi trường thể xác của Chúa Kitô để chúng ta được tháp nhập vào Người. Tham dự các bí tích, chúng ta dự phần vào môi trường mà Chúa Giêsu đã khai mở trong thể xác của Người, nơi có thể sống như Người đã sống. Trung tâm của môi trường này là Bí tích Thánh Thể, “bí tích của các bí tích” (6) mà quanh đó, các bí tích còn lại xoay vần và trong đó chất thể bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô, Mình và Máu Thánh mà chúng ta ăn và uống. Vì lý do này, “các giác quan môi trường” cũng có tính yếu tính đối với các bí tích.

Chúng ta hãy suy gẫm cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường Emmau: chìa khóa để nhận ra Người không phải là thị giác hay thính giác của họ, mà là việc bẻ bánh và ngọn lửa trong trái tim, đã ban cho họ một thị giác mới và một thính giác mới. Chính nhờ quan điểm của Bí tích Thánh Thể, nơi thân thể Chúa Kitô được làm cho hiện diện, chúng ta mới hiểu được sự cần thiết của việc tiếp xúc vật chất nơi các bí tích khác. Nhiệm vụ của mỗi bí tích là làm trung gian cho sự tiếp xúc của chúng ta với xác thịt của Chúa Giêsu. Nhờ cách này, trong bí tích, Chúa Kitô đụng chạm vào thân thể chúng ta, vốn là môi trường và nơi ở đầu tiên của chúng ta, và biến đổi nó thành một môi trường có tính liên hệ mới. Nhờ vật thể của bí tích, hành động của Chúa Kitô không ở mãi bên ngoài chúng ta như một tấm gương đơn thuần để chúng ta bắt chước, mà đúng hơn, biến đổi bản sắc chúng ta và giúp các loại hành động mới xuất phát từ sự hiệp nhất của chúng ta với Người. Trong mỗi bí tích, vật thể tác động đến những cách tháp nhập khác nhau vào thân thể Chúa Kitô, tùy theo các ý nghĩa dị biệt hóa của thân thể Người. Như vậy, phép rửa chẳng hạn hệ ở việc được sinh ra vào thân thể của Chúa Kitô; phép thêm sức hệ ở việc tham gia vào việc xây dựng thân thể Người; phép hôn phối hệ ở việc liên kết ngôn ngữ nguyên thủy của thể xác chứa đựng trong sự kết hiệp phu thê của người đàn ông và người đàn bà vào thân thể của Chúa Kitô, v.v. Đúng là có thể nhận được ơn thánh cả khi bí tích không được cử hành, như châm ngôn thời trung cổ từng nói: “Thiên Chúa không cột chặt quyền năng của Người vào các bí tích” (7).

Nhưng điều này chỉ đúng khi có một trở ngại ngăn cản việc chúng ta tiến gần bí tích. Hơn nữa, ngay trong trường hợp này, việc trao ban ơn thánh chỉ được thực hiện nếu có ý định tham dự bí tích bất cứ khi nào có thể thực hiện được. Vì lý do này, việc quy chiếu về vật thể bí tích vẫn là điều cần thiết. Theo thần học cổ điển, các bí tích cần thiết như những phương thế chứ không chỉ là các giới luật. Nghĩa là, các bí tích cần thiết không những vì Thiên Chúa đã truyền lệnh như vậy, nhưng còn là vì chính các bí tích này đã đặt chúng ta vào việc tiếp xúc với Thiên Chúa và biến đổi chúng ta thành sự hiệp thông trọn vẹn với Người. Chỉ từ sự tiếp xúc trực tiếp này với Chúa Kitô trong các bí tích, toàn diện đời sống Kitô hữu mới có thể trở thành sự thờ phượng Thiên Chúa. Có thể nói, Thiên Chúa đã không trói buộc ơn thánh của Người vào việc cử hành các bí tích, nhưng Người đã trói buộc ơn thánh của Người vào một luận lý học bí tích vì Người đã trói buộc nó vào xác thịt Chúa Kitô. Tất cả những điều này giúp chúng ta đưa ra phán định liên quan đến việc cử hành các bí tích thời đại dịch. Một mặt, chúng ta phải khẳng định rằng có thể có những lý do khôn ngoan để không khuyến khích việc tham dự các bí tích. Nếu ai đó không thực hiện các biện pháp thích hợp để giảm nguy cơ nhiễm trùng chết người, thì họ không thể biện minh lập trường này theo quan điểm niềm tin của họ vào quyền thần thiêng của bí tích, quyền năng được cho là có thể bảo vệ họ khỏi mọi nguy hiểm. Ngược lại, thái độ này không kể đến phẩm giá của bí tích, vì bí tích chứa đựng trong nó ngôn ngữ thể xác của sáng thế và phải bảo tồn ý nghĩa của ngôn ngữ này. Vì lý do này, phải tránh bao nhiêu có thể việc sử dụng bánh bị ô nhiễm hoặc nước gây nhiễm bệnh, chính vì chúng không tượng trưng tốt cho ơn cứu rỗi do Thiên Chúa mang đến trong bí tích, vốn cũng là ơn cứu rỗi xác thịt. Nếu không thể tham dự vào việc cử hành, thì có thể, bằng một cách nào đó, tự mình tham gia bí tích và lãnh nhận ơn thánh của nó.

Đây là nơi mà việc thông hiệp ảo có ý nghĩa: vì sự kiện nó giúp chúng ta tiếp cận Bí tích. Tuy nhiên, trong trường hợp này, phải ghi nhớ rằng ơn thánh chỉ được tiếp nhận khi người đó hướng tới việc tham dự bí tích đích thực và chuẩn bị sẵn để lãnh nhận nó tới mức độ lớn nhất có thể. Vì chính trong Bí tích, chúng ta mới tiếp xúc với thân thể Chúa Kitô, từ đó ơn thánh đến với chúng ta. Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ rằng mọi ơn thánh bí tích đến với tín hữu qua ấn tích không thể xóa nhòa được mà họ đã tiếp nhận trong phép rửa, một ấn tích làm họ trở thành chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô. Không phải kênh trực tuyến làm trung gian cho ơn thánh, giúp ơn thánh đến được với các tín hữu đang “tham dự” qua việc phát trực tiếp, mà đúng hơn, việc tháp nhập lúc rửa tội vào Thánh Thể, một việc tháp nhập qua đó, ơn thánh thánh thể được trải dài toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Tất cả điều này có nghĩa: ngoài việc tránh nguy cơ lây lan trong lúc cử hành, phải tránh một nguy cơ khác: làm mất giá trị tính trung tâm của các bí tích trong đời sống các tín hữu. Bởi vì, nếu điều này xảy ra, cảm thức cứu rỗi Kitô giáo, vốn cũng là sự cứu rỗi thể xác, sẽ trở nên loãng nghĩa. Cuối cùng, điều luôn có tính quyết định là nhớ rằng Bí tích không được cử hành để sống, nhưng chúng ta sống để cử hành Bí tích. Điều tối thiết là không có gì được ưu tiên hơn việc phụng sự Thiên Chúa: “nihil operi Dei praeponatur” (8). Theo quan điểm này, cuộc khủng hoảng bí tích thời đại dịch có liên quan đến cuộc tranh luận bí tích mà Giáo hội đã trải nghiệm trong vài năm qua. Cuộc tranh luận này được điển hình hóa trong nhiều cách giải thích khác nhau về tông huấn Amoris laetitia, theo đó, việc tiếp cận với bí tích không còn phụ thuộc vào tình trạng thể xác người ta, nghĩa là, vào cách người ta sống các mối liên hệ thể xác căn bản của họ, chẳng hạn như hôn nhân.

Do đó, một sự tách biệt được thực hiện giữa bí tích và thân thể sống của tín hữu, điều này song song với sự tách biệt xảy ra trong “bí tích” ảo. Vì lý do này, bất cứ ai chủ trương việc tách biệt giữa đời sống hôn nhân và đời sống thánh thể, một điều khá chung trong các cách giải thích này về Amoris laetitia, sẽ không thể giải thích được sự cần thiết của việc cử hành Bí tích bằng thể xác, và do đó tại sao cử hành ảo là điều bất cập. Những cách giải thích này đã định nghĩa bí tích hầu như bằng cách tách biệt nó khỏi lối sống cụ thể của tín hữu trong thể xác, khiến cho việc lãnh nhận bí tích chỉ phụ thuộc vào ý thức chủ quan của họ. Sự phân biệt giữa cử hành trực tiếp và cử hành ảo chỉ có thể có được nếu mối liên kết của bí tích với thân thể được chấp nhận, làm cho việc lãnh nhận bí tích cố kết với cách sống các ý nghĩa của thể xác. Đại dịch và việc cấm cửa cho thấy, mặc dù cách gián tiếp, khái niệm trống rỗng về bí tích mà nhiều người đã giả định, một bí tích không đạt đến hoặc biến đổi đời sống tín hữu trong thân xác, do đó mất nối kết nó với việc Nhập Thể.

4. SAU ĐẠI DỊCH: HƯỚNG TỚI VIỆC PHỤC HỒI BÍ TÍCH?

Từ những gì chúng ta đã nói cho đến nay, chúng ta có thể kết luận rằng thời đại dịch đã khiến chúng ta cảm thấy sự vắng bóng bí tích. Đó là một sự vắng bóng mà chúng ta đã vô tình sống, đó là lý do tại sao đòi phải cố gắng rất nhiều chúng ta mới tri nhận được sự khác biệt giữa thực tại ảo và thực tại có người [in-person reality]. Nếu chúng ta chấp nhận luận lý ảo đối với việc cấm cửa [lockdown], thì đại dịch sẽ đẩy nhanh phong trào phản bí ích của thời hiện đại, mà theo Bernanos, có thể được mô tả như một kỷ nguyên của phi nhập thể [disincarnation] tiệm tiến (9). Tuy nhiên, cùng một đại dịch này cũng có thể là cơ hội để con người nhận ra rằng một cuộc sống bị tù túng không phải là một cuộc sống đích thực, và do đó, một lần nữa khao khát một bí tích hiện hữu trong thế giới. Khi bị cấm cửa, điều nó định bác bỏ thể xác như một môi trường có tính tương quan được biểu lộ một cách đau đớn. Do đó, việc cấm cửa được dùng như một lời kêu gọi tiến tới tự do để chúng ta có thể khôi phục lại ngôn ngữ nguyên thủy của thân xác và cùng với nó, là ngôn ngữ bí tích. Hơn nữa, thời đại dịch, chúng ta tri nhận sự vắng bóng bí tích, không phải một cách lý thuyết mà là qua sự đau khổ cụ thể là bệnh tật và chia ly. Ở đây, ta thấy lý do để hy vọng. Vì đau khổ của đại dịch không phải là đau khổ ảo, và vì lý do này, nó có thể buộc chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của thực tại ảo, khiến chúng ta khao khát Bí tích một lần nữa. Trong thời gian đại dịch, quả thật, chúng ta cảm thấy sự vắng bóng bí tích, nhưng chúng ta cảm thấy nó một cách bí tích. Để thấy nỗi đau của đại dịch là nỗi đau bí tích, chúng ta cần thêm một điểm vào những gì chúng ta đã đề cập về các bí tích. Vì các bí tích không những nói lên sự sung mãn mà Thiên Chúa ban cho con người, mà còn là con đường để tạo vật, bị tổn thương bởi tội lỗi, trở lại với sự sung mãn của nó. Thánh Bonaventura đã nhìn nhận rằng trong số các bí tích được thiết lập trong bản chất con người, sám hối được hiểu là khả năng ăn năn tội lỗi (10). Và, quả thật, con đường đó cũng là con đường được vượt qua bằng đau khổ. Chỉ có đau khổ mới giúp chúng ta phục hồi ý nghĩa bí tích của cuộc sống một khi ý nghĩa đó đã bị mất đi.

Không còn nghi ngờ gì nữa, đau khổ khai quang con đường bí tích vì nó giúp chúng ta thoát khỏi ảo tưởng của một thế giới phản bí tích, phi nhập thể. Vì đau khổ khiến chúng ta ý thức một lần nữa mối liên hệ của chúng ta với thể xác, cửa mở của thể xác ra thế giới và những người khác. Nhờ cách này, đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng thể xác chúng ta không phải là các công cụ đơn thuần để tự phát biểu mình và thống trị thế giới, mà trên hết là nơi phụ thuộc nguyên thủy, cửa mở ra để chúng ta liên hệ với thế giới, với người khác, với Thiên Chúa. Do đó, trong thể xác đau khổ, một cuộc gặp gỡ đầy mạc khải có thể diễn ra, cũng như một mối liên hệ giải thoát chúng ta khỏi sự tách biệt ngay bên trong mình và giúp chúng ta phục hồi chỗ đứng nhập thể của chúng ta trong thế giới. Vì lý do này, Chúa Kitô đã bước vào thế giới đau khổ: để phục hồi thể xác như cứ điểm liên hệ với Chúa Cha và những con người khác, do đó, khôi phục cho thể xác ý nghĩa tạo vật của nó. Nếu các bí tích do Chúa Kitô thiết lập mang trọn vẹn ý nghĩa của thân xác, thì chúng thực hiện việc này chính là nhờ đau khổ. Bằng cách chứa đựng trong chính chúng sự thống khổ và cái chết, các bí tích có thể phá vỡ sự cô lập của chúng ta và mở cửa để chúng ta bước vào ơn thánh được liên hệ với Thiên Chúa và những người khác.

Tương tự như các loại đau khổ khác, đại dịch có thể được coi là sự đánh tan ảo tưởng của con người phi nhập thể. Sự phân mảnh này có thể giúp họ nhớ đến xác thịt họ, một xác thịt họ được trao ban để dẫn họ vào thế giới và các mối liên hệ với những người khác, trong đó, mầu nhiệm tối hậu của sự sống, tức là, Đấng Tạo Hóa – Chúa Cha, được hiển thị. Theo quan điểm của viễn kiến đau khổ này, chúng ta có thể trả lời cho những người phàn nàn trong thời gian khó khăn bằng cách nói: “Bạn còn cứng lòng hơn bao nhiêu nữa, mà không để những thời điểm khó khăn này thay đổi bạn!” (11). Chẳng hạn, thời đại dịch này dạy chúng ta rằng sức khỏe không phải là thứ được bảo toàn hoặc phục hồi chỉ nhờ các phương tiện kỹ thuật mà thôi, như một cỗ máy được bảo trì hoặc sửa chữa. Thật vậy, việc cấm cửa liên quan đến đại dịch có thể chứng minh rằng việc giữ gìn sức khỏe của chúng ta mà làm hại các mối liên hệ vốn được thể xác đưa chúng ta vào kết cục sẽ có hại cho chính sức khỏe của chúng ta. Theo cách này, đại dịch có thể là một lời mời gọi phục hồi viễn kiến coi sức khỏe như sự hòa điệu nguyên thủy của con người với thế giới của họ và với những người khác, một sự hòa điệu mà con người nhận được trước tiên, một sự hòa điệu mà họ có thể phát huy chỉ bằng cách tiếp nhận nó. Chúng ta hãy xem xét, theo hướng này, việc tìm kiếm vắc-xin, mà hiệu quả của chúng tùy thuộc vào hệ thống miễn dịch.

Ở đây ý nghĩa của y học được biểu lộ: nhiệm vụ của nó là bổ sung cho tác nhân chữa bệnh duy nhất, là chính cơ thể. Viễn kiến về sức khỏe này là một viễn kiến có tính bí tích vì nó được đặt nền trong thể xác như cứ điểm nguyên thủy của sự sống, trong sự hòa hợp với môi trường và với những con người khác. Sự kiện đại dịch đã trở thành một biến cố hoàn cầu cũng có nghĩa là sự đau khổ này, sự đau khổ vốn mở mắt để con người biết rõ thân phận thực sự của họ, không những ảnh hưởng đến mỗi người mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội. Tất cả xã hội bị khổ sở trong thời gian đại dịch, trong các mối liên hệ của nó và trong các cách nó sống thực ích chung. Vì lý do này, đau khổ do đại dịch gây ra không phải là lời kêu gọi đối với cá nhân mà thôi, mà đòi hỏi một sự thay đổi xã hội nhằm bỏ lại phía sau viễn kiến phi bí tích vốn là đặc điểm của thời hiện đại. Liệu xã hội có thể học lại để biết rằng sự đoàn kết của chúng ta bắt nguồn từ một hồng phúc trước đây mà tất cả chúng ta đã nhận được cách chung không? Và, do đó, lợi ích của xã hội không nằm ở việc thể hiện sở thích độc lập của mỗi người, mà nằm ở việc tiếp sinh lực cho cuộc sống chung hiện có của chúng ta? Nếu đúng như vậy, có lẽ chúng ta nên hiểu rằng xã hội chỉ tồn tại nếu nó mở cửa đưa ta vào một mầu nhiệm : mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa. Dưới góc độ cuộc thảo luận của chúng ta, chúng ta cần nêu ra một câu hỏi cuối cùng: liệu cuộc khủng hoảng đại dịch có giúp chúng ta phó thác (surrender) và nhờ đó khôi phục một luận lý học bí tích trong xã hội và trong Giáo hội không? Tín lý Kitô giáo về ơn quan phòng cho chúng ta biết: có những biến cố mà chúng ta không biết nguyên do. Thật vậy, bất cứ điều gì xảy ra trên thế giới đều không được giải thích chỉ bằng những nguyên nhân đệ nhị đẳng, vì có những sự việc ngẫu nhiên mà nguyên nhân của chúng nằm ở một mình Thiên Chúa mà thôi, đến nỗi Thiên thần hoặc con người không thể hiểu được (12). Đây là lý do tại sao, theo quan điểm trần gian, rất khó để phân định điều “tại sao” của đại dịch và Thiên Chúa theo đuổi mục đích nào với nó. Muốn dò thấu điều “tại sao” này, có lẽ chúng ta cần hồng phúc tiên tri. Rất may, như sách Khải Huyền từng nói, đối với các Kitô hữu, “chứng từ của Chúa Giêsu là tinh thần của lời tiên tri”, vì toàn bộ tương lai của chúng ta vốn được chứa đựng trong sự Phục sinh từ cõi chết của Người. Điều này có nghĩa: đức tin vào Chúa Kitô giúp chúng ta biết chỗ nào ơn quan phòng hướng dẫn mọi sự: sống phù hợp với Thập giá và sự Phục sinh của Chúa. Tuy vậy, sự dâng hiến của Chúa Kitô trên Thập giá là sự dâng hiến tự do nhân bản dâng hiến thân mình cho Chúa Cha vì lợi ích của chúng ta. Điều này có nghĩa: kế hoạch quan phòng bao gồm trong nó lời đáp ứng tự do của chúng ta. Chính các bí tích, vì chúng mở không gian cho sự chết và sự Phục sinh của Chúa Kitô, nên chúng tạo thành nơi chốn trong đó chúng ta được tự do. Đối diện với đại dịch, chúng ta được kêu gọi đặt mình vào không gian mà Chúa Kitô đã mở ra cho chúng ta, tức là, thể xác của chính Người, một thể xác lấy lại ý nghĩa tương ứng với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa. Loại bỏ hoặc trì hoãn các bí tích sẽ không cứu được sự sống của chúng ta, vì nó loại bỏ hoặc trì hoãn nơi chốn thích đáng cho hành động con người, nơi chốn chúng ta được tự do và xây dựng một cuộc sống cao quí và tươi đẹp. Trong một bài giảng lễ nổi tiếng, Thánh Augustinô tập hợp những lời phàn nàn của những người lặp đi lặp lại “thời kỳ tồi tệ, thời kỳ khó khăn”. Thánh nhân trả lời họ: “Chúng ta hãy sống tốt, thì thời gian sẽ tốt. Chúng ta là thời đại; chúng ta thế nào, thời đại là thế ấy” (13). “Chúng ta hãy sống tốt”: muốn thời đại tốt thì “sống còn” mà thôi không đủ. Đúng hơn, mệnh lệnh là phải “sống tốt”. Và một cuộc sống tốt đẹp như thế, một cuộc sống có tính hoàn toàn nhân bản như thế chỉ có thể có được trong không gian được các bí tích mở ra. Nói tóm lại, sống tốt là sống bằng các bí tích, như người ta sống bằng cơm bánh, để thời gian trở thành thời gian thánh thể, nghĩa là, thời gian phát triển, qua đại dịch, đến mức viên mãn của nó.
______________________________________________________________________________

Ghi chú

1. Trừ khi có ghi chú khác, tất cả các trích dẫn lấy từ Revised Standard Version, Phiên bản Công Giáo.
2. Joseph Ratzinger, “Nền tảng Bí tích của Cuộc Sống Kitô hữu” (The Sacramental Foundation of Christian Existence) trong Tác phẩm được sưu tập, tập 11: Thần học Phụng vụ, 153–168, ở 155.
3. Karl-Heinz Menke, Sacramentalidad. Esencia y llaga del catolicismo, 115. Nguyên thủy xuất bản với tên Sakramentalität: Wesen und Wunde des Katholizismus.
4. Về câu hỏi này, xem Hans Jonas, “The Nobility of Sight”, Philosophy and Phenomenological Research 14: 507–19.
5. Xem Thánh Augustinô, De Genesi ad litteram 3.4.
6. Thánh Tôma Aquinô, In IV Sententiarum d. 25, q. 3, a. 2, qncula. 1 arg 4.
7. Xem Peter Lombard, Sentences IV, dist. 1, ch. 5, par. 1.
8. Thánh Bênêđíctô thành Nursia, Rule 43.3
9. Xem Georges Bernanos, Esssais et écrits de combat (Tiểu luận và Trước tác chiến đấu), 673: “Nỗi bất hạnh và sỉ nhục của thế giới hiện đại, một thế giới tự khẳng định một cách duy vật kỳ cục, là nó phi nhập thể mọi sự, nó khởi đầu lại bằng cách đi ngược chiều với mầu nhiệm nhập thể”.
10. Xem Thánh Bonaventura, In IV Sententiae d. 23, a. 1, q. 2, co.; d. 22, a. 2, q. 1, conc., in S. Bonaventurae Opera Omnia, vol. 4, 579
11. Thánh Augustinô, Bài Giảng 114B, 14
12. Xem Thánh Tôma Aquinô, Summa contra Gentiles III, q. 94.
13. Xem Thánh Augustinô, Bài Giảng 80.
  
Vietcatholic News

Nghi thức đón nhận lời Chúa trong gia đình

 

Nghi thức đón nhận lời Chúa trong gia đình

      
  •  

Shutterstock

NGHI THỨC ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA TRONG GIA ĐÌNH

Tác giả: Hội đồng Giáo Hoàng về Thúc đẩy Tân Phúc âm hóa
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: aleteia.org(19.1.2021)

WHĐ (29.1.2021) - Dưới đây là một nghi thức để cử hành sự tôn sùng của gia đình bạn đối với Kinh thánh.(*) Một lựa chọn để sống ngày Chúa Nhật là cử hành nghi thức tôn sùng Lời Chúa, một nghi thức do Hội đồng Giáo Hoàng về Thúc đẩy Tân Phúc âm hóa cung cấp.

Sau Thượng Hội Đồng về Lời Chúa, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini – Lời Chúa đã được xuất bản, và trong đó chúng ta có thể đọc thấy:

“Từ Mầu nhiệm hôn ước lớn lao, phát sinh trách nhiệm cốt yếu của các cha mẹ đối với con cái. Quả thật, sống trung thực tư cách cha mẹ chính là truyền đạt và làm chứng về ý nghĩa của đời sống trong Đức Kitô: qua lòng chung thủy của họ và sự hiệp nhất của đời sống gia đình, vợ chồng là những người đầu tiên công bố Lời Thiên Chúa cho con cái. Cộng đồng Giáo Hội phải nâng đỡ và giúp đỡ họ phát huy việc cầu nguyện trong gia đình, chăm chú lắng nghe Lời Thiên Chúa và hiểu biết Kinh Thánh. Nhằm mục đích này, Thượng Hội Đồng mong ước rằng mỗi một mái ấm gia đình phải có sách Kinh Thánh của mình, Sách phải được đặt ở nơi xứng hợp và được dùng để đọc và cầu nguyện. Các linh mục, các phó tế hay các tín hữu đã được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể cung cấp mọi trợ giúp cần thiết. Thượng Hội Đồng cũng đã khuyến cáo là phải tạo lập những cộng đoàn gồm những gia đình, tại đó các tín hữu cùng nhau thực hành việc cầu nguyện và suy niệm chung những đoạn Kinh Thánh được chọn. Ngoài ra, vợ chồng phải nhắc nhở nhau rằng “Lời Thiên Chúa cũng là một sự nâng đỡ quí báu giữa các khó khăn của cuộc sống lứa đôi và gia đình” (Tông Huấn Verbum Domini (Lời Chúa) Của ĐGH Bênêđictô XVI - ngày 30-11-2010, phần e, Lời Chúa, hôn nhân và gia đình, số 85).

Trong ngày Chúa nhật, cả gia đình quây quần bên bàn ăn chính của nhà mình, nơi đặt cây thánh giá, tượng Đức Mẹ, cây nến và cuốn Kinh thánh.

Một trong những thành viên trong gia đình thắp nến và đọc:

- Ánh sáng Chúa Kitô

Tất cả đều trả lời:

Tạ ơn Chúa

Sau đó, một người khác (bản văn cũng có thể được chia cho nhiều người) đọc lời cầu nguyện sau:

“Xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong con, trong trái tim con và trong tâm trí con.

Xin hãy tuôn đổ sự sáng suốt của Chúa trên trí tuệ của con, để con có thể biết Cha khi suy gẫm lời Tin Mừng.

Xin ban cho con tình yêu của Chúa, để ngay cả ngày hôm nay, được thúc giục bởi lời Chúa, con có thể tìm thấy Chúa trong những hoàn cảnh và những người con gặp.

Xin ban cho con sự khôn ngoan, để con biết cách sống và đánh giá những gì con đã trải qua hôm nay.

Xin ban cho con sự kiên trì, để con có thể kiên nhẫn thấm nhập sứ điệp của Chúa trong Tin Mừng”. (Thánh Tôma Aquinô)

Tất cả đều trả lời:

Amen.

Một thành viên trong gia đình lấy Kinh Thánh, mở ra và bắt đầu đọc phân đoạn sau: Mátthêu 13: 1-9. “Dụ ngôn về người gieo giống”

Hãy lắng nghe lời Chúa từ Tin Mừng theo thánh Matthêu:

“Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. Dân chúng tụ họp bên Ngài rất đông, nên Ngài phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Ngài dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Ngài nói: "Này, người gieo giống đi ra gieo lúa. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe”. (Các trình thuật tương ứng “Dụ ngôn người gieo giống”: Mc 4:3-9; Lc 8:5-8)

Tất cả các thành viên trong gia đình đều hôn sách Thánh.

Một khoảnh khắc im lặng sau đó, để suy ngẫm về văn bản vừa nghe và cầu nguyện riêng cá nhân. Sau đó, một người đọc suy niệm sau (Lưu ý của người biên tập: đối với các gia đình có trẻ nhỏ, chỉ chọn văn bản in đậm):

Chúa Giêsu kể cho đám đông nghe dụ ngôn - mà chúng ta đều biết rõ - về người gieo giống, người gieo hạt giống trên bốn loại địa hình khác nhau. Lời Thiên Chúa, được tượng trưng bằng hạt giống, không phải là một Lời trừu tượng, mà là chính Đức Kitô, Lời của Chúa Cha, Đấng đã trở nên xác thịt trong lòng Mẹ Maria. Do đó, nắm lấy Lời của Đức Chúa Trời, có nghĩa là nắm lấy nhân tính của Chúa Kitô; của chính Chúa Kitô.

Có một số cách khác nhau để tiếp nhận Lời Chúa. Chúng ta có thể làm như vậy giống như một con đường, nơi các loài chim ngay lập tức đến và ăn hạt. Đây sẽ là sự phân tâm, một mối nguy hiểm lớn của thời đại chúng ta. Ngoài những cuộc nói chuyện nho nhỏ, chúng ta có thể đánh mất niềm say mê thinh lặng, suy tư, đối thoại với Chúa, bởi nhiều ý thức hệ, bởi những cơ hội liên tục gây phân tâm trong và ngoài nhà, đến mức chúng ta có nguy cơ đánh mất đức tin của mình, không thể tiếp nhận Lời Chúa, như chúng ta đang thấy mọi sự, bị phân tâm bởi mọi thứ, bởi những điều trần tục.

Một khả năng khác: chúng ta có thể tiếp nhận Lời Chúa như đất đá, ít đất. Ở đó, hạt nảy mầm nhanh chóng, nhưng cũng nhanh chóng khô héo, vì chúng không thể

cắm rễ xuống sâu được. Đây là hình ảnh của những người đón nhận Lời Chúa với lòng nhiệt thành nhất thời, tuy nhiên, vẫn còn hời hợt; họ không đồng hóa Lời Chúa. Theo cách này, ngay từ khó khăn đầu tiên, chẳng hạn như sự khó chịu hoặc xáo trộn trong cuộc sống, niềm tin còn non nớt ấy sẽ tan biến, như hạt giống rơi giữa các tảng đá khô héo.

Chúng ta cũng có thể - một khả năng thứ ba mà Chúa Giêsu đề cập trong dụ ngôn - đón nhận Lời Thiên Chúa giống như mặt đất nơi bụi gai mọc lên. Và những cái gai là sự lừa dối của sự giàu có, của sự thành công, của những mối quan tâm của thế gian … Ở đó, Ngôi Lời lớn lên một chút, nhưng trở nên nghẹt thở, không mạnh mẽ, và chết đi hoặc không sinh hoa kết trái.

Cuối cùng - khả năng thứ tư - chúng ta có thể nhận được nó như đất tốt. Ở đây, và chỉ ở đây, hạt giống đâm rễ và kết trái. Hạt giống rơi trên mảnh đất màu mỡ này tượng trưng cho những ai nghe Lời Chúa, đón nhận Lời Chúa, giữ gìn trong lòng và đem ra thực hành trong cuộc sống hàng ngày.

Dụ ngôn Người gieo giống này phần nào là 'mẹ' của tất cả các dụ ngôn, vì nó nói về việc lắng nghe Lời Chúa. Nó nhắc nhở chúng ta rằng Lời Chúa là một hạt giống tự nó sinh hoa kết trái và hữu hiệu; và Thiên Chúa phân tán nó khắp nơi, không để tâm đến chuyện gieo vãi lãng phí. Trái tim của Thiên Chúa là như vậy! Mỗi người chúng ta đều có loại đất mà hạt giống Lời Chúa  rơi xuống; không ai bị loại trừ! Lời Chúa được trao ban cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi mình: tôi đang là loại đất nào?

Tôi có giống với con đường, mặt đất đá, bụi rậm không? Nếu chúng ta muốn, với ân sủng của Thiên  Chúa, chúng ta có thể trở thành đất tốt, được cày xới và chăm bón cẩn thận, để giúp cho hạt giống Lời Chúa chín mùi. Lời Chúa đã hiện diện trong trái tim của chúng ta, nhưng làm cho nó có kết quả là tùy thuộc vào chúng ta; điều đó phụ thuộc vào vòng tay mà chúng ta dành cho hạt giống này.

Thường thì người ta bị phân tâm bởi quá nhiều quyền lợi, quá nhiều lời dụ dỗ, và khó có thể phân biệt được đâu là tiếng nói và nhiều lời nói của Chúa, Đấng duy nhất khiến chúng ta được tự do. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là phải quen với việc lắng nghe Lời Chúa và đọc Lời Chúa.

Và chúng ta hãy trở lại với lời khuyên này: hãy luôn giữ một bản Tin Mừng sẵn có bên mình, một ấn bản Tin Mừng loại bỏ túi, để trong túi, trong ví của bạn… và sau đó, hãy đọc một đoạn ngắn mỗi ngày, để bạn trở nên quen với việc đọc Lời Chúa, hiểu rõ hạt giống Chúa ban cho bạn, và suy nghĩ xem mình sẽ nhận được hạt giống nào.

Xin Đức Trinh Nữ Maria, là loại đất tốt và màu mỡ mẫu mực và hoàn hảo, với lời cầu nguyện của Mẹ, giúp chúng ta trở nên đất tốt không có gai góc hay đá sòi, để chúng ta có thể sinh hoa kết trái tốt lành cho chính mình và cho anh chị em của chúng ta. (Đức Giáo Hoàng Francis, buổi đọc Kinh Truyền Tin, ngày 12 tháng 7 năm 2020).

Sau khi suy niệm, mọi người cùng nhau đọc kinh Lạy Cha:

Lạy Cha chúng con…

Cuối lời kinh, người được đốt nến lúc ban đầu cầm lấy cuốn Kinh thánh, và làm dấu thánh giá với cuốn Kinh thánh ban phúc lành cho cả gia đình.

Sau đó thổi tắt ngọn nến và nói:

Xin hãy ở lại với chúng con, lạy Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.

(*) Đây là một bài dịch mang tính cá nhân, không phải là bản chính thức của Ủy ban Phụng tự / HĐGMVN 

https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/-nghi-thuc-don-nhan-loi-chua-trong-gia-dinh-41375

Suy tư về Thánh Giuse: Thời các Giáo phụ và giai đoạn đầu

 

Suy tư về Thánh Giuse: Thời các Giáo phụ và giai đoạn đầu

      
  •  


SUY TƯ VỀ THÁNH GIUSE: THỜI CÁC GIÁO PHỤ VÀ GIAI ĐOẠN ĐẦU[1]

Lm. Giuse Trần Đình Thụy
Đón Xuân Tân Sửu 2021

Nội dung

A. CÁI NHÌN CHUNG 

B. GIÁO PHỤ HY LẠP 

I. THÁNH INHAXIÔ ANTIÔKIA (+107)

1. Chương trình kỳ diệu của Chúa trong hôn nhân Giuse và Maria 

2. Trinh nữ “đã đính hôn” sinh con 

II. THÁNH GIÚTINÔ (100 – 165) 

1. Thời thơ ấu của Chúa Giêsu 

2. Chúa Giêsu là hoa trái của Thánh Thần 

III. THÁNH IRÊNÊ (130 - 203)  

1. Sự đồng trinh của Đức Maria – Thánh Giuse là cha nuôi 

2. Vai trò “được định trước” của Giuse 

IV. TERTULIANÔ (155 - 223) 

V. THÁNH EPHREM (306-372) 

1. Con của Giuse đã sinh ra mà không bởi Giuse 

2. Con Đấng Tối Cao cũng là con của Giuse 

3. Giuse được phúc chung sống với Con Thiên Chúa

4. Chỉ có Chúa Giêsu mới khen ngợi thánh Giuse cho xứng  

VI. THÁNH GIOAN KIM KHẨU BÀN VỀ VỤ TRỐN SANG AI CẬP 

1. Giuse vâng lệnh Chúa truyền 

2. Lời tiên tri ứng nghiệm 

C. GIÁO PHỤ LATINH

I. THÁNH GIÊRÔNIMÔ (340 - 420)

II. THÁNH AUGUSTINÔ (354-430)

1. Đề cao đức tính của thánh Giuse

2. Hôn nhân đích thực và kỳ diệu giữa Giuse và Maria

III. THÁNH BÊNAĐÔ

1. Bàn Về Quyền Chức Thánh Giuse

2. Giuse: Chồng Đức Maria, Cha Chúa Cứu Thế

D. TÓM KẾT CÁC GIÁO PHỤ


A. CÁI NHÌN CHUNG

Thật khó mà biết được chính xác lòng đạo đức trong các thế kỷ đầu của Kitô giáo dành cho thánh Cả Giuse. Tất cả các tư tưởng của các Kitô hữu đầu tiên thường hướng về chính Chúa Giêsu: đời sống, cái chết và sự sống lại; Chúa Thánh Thần hiện xuống trong chương trình cứu độ khi tin vào Chúa Giêsu Kitô. Đức trinh nữ Maria cũng vậy, trong thời gian dài đã không có một nghi lễ dành cho cá nhân hay tập thể. Có lẽ sự rao giảng Tin Mừng cổ nhất được nhận ra trong Tin mừng thánh Marcô qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan cho đến khi Chúa Giêsu lên trời. Những trình thuật trong phần đầu được khai mở liên quan đến thời thơ ấu của Chúa Giêsu đó là những chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu và thánh Luca.

Chỉ đến thế hệ thứ hai, con cái của những tín hữu đầu tiên, mới thấy xuất hiện những điều liên quan đến việc sùng kính của các Kitô hữu nhưng vẫn chưa có một nghi thức chính thức nào.

Những lễ kính của Kitô giáo một thời gian rất lâu dành cho việc Chúa sống lại, Phục sinh và Chúa Thánh Thần hiện xuống đến lễ Ngũ Tuần. Những bài viết của các giáo phụ được gọi là “Tông truyền” bởi vì họ sống rất gần với các Tông đồ cũng chủ yếu minh giải đức tin về Chúa Ba Ngôi, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, qua những bài giảng và cắt nghĩa Phúc Âm. Nhưng tìm hiểu kỹ, chúng ta có thể trưng dẫn ra một số tư tưởng của các Giáo phụ nói về thánh Giuse.

B. GIÁO PHỤ HY LẠP

I. THÁNH INHAXIÔ ANTIÔKIA (+107)

1. Chương trình kỳ diệu của Chúa trong hôn nhân Giuse và Maria

Một trong những giáo phụ cổ thời là thánh Inhaxiô Antiokia tử đạo năm 107 ở Rôma. Chúng ta có 7 lá thư rất giá trị của ngài. Một trong  số đó được gửi cho tín hữu Êphêsô: “Từ nguyên thuỷ, thái tử của thế gian này (Satan) đã chẳng biết sự đồng trinh của Đức Maria và việc sinh con của người cũng như cái chết của Chúa chúng ta. Ba mầu nhiệm đặc biệt này được thực hiện trong sự thinh  lặng của Thiên Chúa”. Trong bối cảnh đó, thánh Giuse không được nêu tên nhưng đặc tính mang chiều kích quan phòng về vai trò của ngài cũng được lưu ý. Vì cuộc hôn phối của thánh Giuse và Đức Maria mà việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra một cách đồng trinh ma quỷ không biết được. Thánh Giêrônimô thuộc thế kỷ IV giải nghĩa: Tại sao Chúa Giêsu không chỉ sinh ra bởi một trinh nữ mà bởi một người đã đính hôn? – Một cách đặc biệt, nhờ lịch sử của thánh Giuse mà lịch sử của Maria cũng được xác định; và cũng để Mẹ không bị ném đá như một người ngoại tình bởi người Do Thái.

2. Trinh nữ “đã đính hôn” sinh con

Trong cuộc di cư chạy sang Ai Cập, Mẹ cũng đã có sự nâng đỡ bởi chính thánh Giuse. Thánh tử đạo Inhaxiô còn nêu thêm một lý do: Việc sinh sản Hài nhi được giấu kín đối với ma quỷ bởi vì Hài nhi không chỉ được mang thai bởi một trinh nữ mà bởi người trinh nữ đã đính hôn.

II. THÁNH GIÚTINÔ (100 – 165)

1. Thời thơ ấu của Chúa Giêsu

Chúng ta biết rằng thánh Giútinô, người gốc Palestin, đã nói nhiều đến thánh Giuse trong khảo luận “Đối thoại với Tryphon” mà người ta cho rằng nó xuất hiện khoảng năm 155. Chính bởi thánh Giútinô mà chúng ta biết rằng Hài nhi Giêsu ở trong một cái hang (grotte), và cũng nhờ ngài mà người ta biết rằng thánh Giuse đã làm nghề thợ mộc.

2. Chúa Giêsu là hoa trái của Thánh Thần

Thánh Giútinô nhấn mạnh về điểm căn bản này: Chúa Giêsu là con thánh Giuse nhưng đó là điều sai lầm, Giêsu đích thực là con Thiên Chúa và “hoa trái bởi lòng Đức Maria chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần”.

Điều rất quan trọng đối với những người “Ngộ đạo thuyết”, là những người tự xem mình là “thông hiểu”, đã làm lung lạc tín hữu khi họ cho rằng Giuse là cha đích thực của Đức Giêsu chứ không phải là cha nuôi hoặc cha theo pháp lý. Một cuộc chiến kịch liệt chống lại những người lạc giáo này đã xảy ra, đặc biệt hai tác giả nổi danh là thánh Irênê là vị giám mục thứ hai của Lyon – Pháp và Tertulianô bên Phi Châu.

III. THÁNH IRÊNÊ (130 - 203)

1. Sự đồng trinh của Đức Maria – Thánh Giuse là cha nuôi

Tác phẩm chính của thánh Irênê (130 – 203?) với tên  “Adversus Haereses“ hay “Contre les Hésésis” (Chống Dị giáo) xuất hiện khoảng năm 185. Trong khảo luận Các Văn Bản Giáo Phụ được P. Bertrand soạn thảo kỹ lưỡng trong cuốn “Cahiers de Joséphisme”, ông đã trình bày 14 trích bản trong sách của thánh Irênê về vấn đề thánh Giuse.

Irênê chống lại những người lạc giáo chối bỏ sự đồng trinh của Đức Maria và xem Đức Giêsu là người con theo tự nhiên của thánh Giuse. Trong nhóm Ngộ Đạo Thuyết về vấn đề này, ngài nhắm đến Cérinthe và Carporate.

Để chống lại nhóm lạc giáo này, thánh Irênê đã dựa vào Tin mừng Matthêu và Luca. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng: Maria trọn đời đồng trinh, Giuse không góp phần nào trong việc sinh hạ Chúa Giêsu, việc sản sinh đồng trinh này đã được tiên tri Isaia tiên báo về Chúa Giêsu và ngài tự nhận: ‘Đây còn có Đấng cao cả hơn Salomon… hơn Giona…’ (x.Mt 12,41-42); và Chúa Giêsu đã khen tặng Phêrô khi ngài tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x.Mt 16,16-17). Irênê cũng dựa vào thánh Phaolô khi gọi Chúa Giêsu là “Ađam mới” nghĩa là: Ngôi Lời nhập thể để phục hồi nhân tính đã bị sa đọa nơi “Ađam đầu tiên”. Qua đó, ta thấy chân lý nền tảng: Ađam đầu tiên là một “khởi đầu” (commencement), còn Ađam mới là “tái khởi đầu” (recommencement). Từ này mang nghĩa bao hàm: lấy lại, phục hồi lại, đặt vào trong trật tự.

2. Vai trò “được định trước” của Giuse

Irênê lại còn so sánh Eva cũ và Maria là Eva mới. Nhân loại đã phải chết bởi một người nữ; nhân loại được cứu độ cũng bởi một người nữ.

Irênê đã ca tụng thánh Giuse vì đã tin vào lời thiên sứ: “Đừng ngại nhận Maria về nhà mình, vì người con…” (Mt 1,20). Irênê đã hiểu sâu sắc vai trò mang tính quan phòng cần thiết của thánh Giuse. Thánh nhân là phát ngôn viên quan trọng trong truyền thống Kitô giáo về vấn đề này.

IV. TERTULIANÔ (155 - 223)

Xác định thiên tính của Chúa Giêsu và vai trò “được định trước” của Giuse

Chính trong tác phẩm De Carne Christi viết khoảng năm 212, Tertulianô nói về thánh Giuse. Cũng như thánh Irênê chống lại phe lạc giáo, điển hình là Cérinthe và Carporate, Tertulianô còn chống Apelle và Marcion.

Về Tertulianô, chúng ta chỉ cần ghi những dòng sau: “Thật chẳng thuyết phục khi nói con Thiên Chúa sinh bởi yếu tố con người; bởi vì nếu hoàn toàn là con người, Hài nhi đó không còn là Con Thiên Chúa; và nếu như vậy thì đâu có gì hơn Salomon và Giona”.

V. THÁNH EPHREM[2] (306-372)

1. Con của Giuse đã sinh ra mà không bởi Giuse

Là miêu duệ dòng Đavít, Giuse đã kết hôn với một thiếu nữ cùng dòng tộc. Thiếu nữ ấy sinh ra cho ông một người con, mà không có sự tri giao vợ chồng. Đã hẳn, Đức Kitô mà sinh bởi một người phụ nữ ngoài hôn nhân lại là điều bất xứng.

Maria đã sinh hạ một con trai không được đăng ký với tên Bà, mà phải với tên của Giuse, mặc dầu Hài Nhi ấy không phải tự ông mà có. Con của Giuse đã sinh ra mà không bởi Giuse.

2. Con Đấng Tối Cao cũng là con của Giuse

Giuse âu yếm ẵm bồng con Thiên Chúa, biểu hiện dưới hình dạng Hài Nhi với xiết bao cung kính, vì biết rõ Ngài là Thiên Chúa. Về hồng ân ấy, ông cảm tạ Thiên Chúa khôn cùng… Lúc nào ông cũng nửa mừng nửa sợ. Có lúc ông đã kêu lên: “Ai ngờ tôi được vinh dự lớn này là Con Đấng Tối Cao đã hóa thành con tôi!”.

3. Giuse được phúc chung sống với Con Thiên Chúa

- Ôi Giuse công chính! Ông có phúc vì Ngôi Lời làm người thơ ấu vừa tầm mức ông, đã lớn lên bên cạnh ông, dưới mái nhà ông, mà vẫn không rời xa cung lòng Thánh phụ.

Đấng vốn là Con của Chúa Cha đã được gọi là Con của Đavít, Con của Giuse. Ngài đã ưu ái nhận lấy những danh xưng phúc lộc ấy.

4. Chỉ có Chúa Giêsu mới khen ngợi thánh Giuse cho xứng

- Lạy Chúa Giêsu! Chớ gì mọi miệng lưỡi hãy ca tụng Mẹ Chúa Khôn cùng! Nguyện cho lòng Đấng đã cưu mang Chúa được tràn đầy phúc lộc!

Còn thánh Giuse, chẳng ai có thể ngợi khen ngài cho xứng, trừ Chúa là Con thật Chúa Cha vĩnh tồn, là Đấng đã khứng nhận ngài làm dưỡng phụ.

Suy tư cá nhân: Như vậy, Chúa Giêsu đã hết lòng thảo hiếu thánh Giuse. Chính trên lòng thảo hiếu của Chúa mà mọi sự sùng kính của ta đối với thánh Giuse cơ bản được chấp nhận.

VI. THÁNH GIOAN KIM KHẨU BÀN VỀ VỤ TRỐN SANG AI CẬP

Thánh Gioan Kim Khẩu (340-407) quê ở thành Antiôkia, giám mục thành Constantinôpôli, được mệnh danh là Kim Khẩu, vì sự khôn ngoan và tài năng hùng biện của ngài.

Đức Piô X đã tôn ngài làm Tiến sĩ Giáo hội và bổn mạng các nhà giảng thuyết.

1. Giuse vâng lệnh Chúa truyền

Thiên thần bảo ông Giuse rằng: “Hãy trỗi dậy dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập” (x.Mt 2,13). Thiên thần cho biết lý do là: “Bởi Hêrôđê toan lùng Hài Nhi mà giết” (x.Mt 2,13).

Thiên Chúa pha trộn cay đắng với ngọt bùi. Đó là cách Chúa đối xử với các thánh.

Trước hết, thấy bà có thai, ông đâm nghi nan bối rối, nhưng rồi có Thiên thần hiện đến giải tỏa mối lo sợ nghi ngờ. Lúc Ấu Chúa sinh ra ông vui mừng lắm nhưng lại sợ hãi xiết bao khi thành đô náo động, và ác vương thịnh nộ lùng tiêu diệt Hài Nhi!

Tiếp theo biến động này là niềm vui ngôi sao xuất hiện đưa Đạo sĩ tới thăm. Nhưng xiết bao lo sợ, khi Thiên thần cho biết Hêrôđê toan hại tánh mạng Hài Nhi và truyền cho Giuse bôn ba sương gió, nhưng dường như Chúa chẳng có mặt ở đó vậy.

2. Lời tiên tri ứng nghiệm

“Ta gọi Con Ta từ Ai Cập” (x.Mt 2,15).

Sự kiện “Xuất Ai Cập” cũng là một vinh dự lớn cho Trinh nữ Maria. Dân tộc Do Thái lấy đó là một đặc ân cho mình, thì Trinh nữ cũng có quyền như vậy. Người Do Thái tự hào nhớ lại mình đã ra khỏi Ai Cập, coi đó là một kỷ niệm vinh quang. Một tiên tri đã ám chỉ điều ấy khi ông kêu lên: “Há ta chẳng đem Israel ra khỏi Ai Cập ư?” (Am 9,7).

Cuộc xuất lưu và hồi hương của dân Do thái là hình bóng hai cuộc hành trình của Trinh nữ Maria. Dân Do thái sang Ai Cập là để thoát nạn chết đói. Đức Kitô sang Ai Cập là để tránh âm mưu đe dọa tính mạng Ngài.

Sang Ai Cập và từ Ai Cập trở về Nagiarét, thánh Giuse đóng vai trò quan trọng là người bảo vệ Mẹ Maria và Hài Nhi. Đây cũng là chương trình của Chúa.

C. GIÁO PHỤ LATINH

I. THÁNH GIÊRÔNIMÔ (340 - 420)

Thánh Giêrônimô là người đào sâu tư tưởng của các giáo phụ đi trước, nhưng ngài lại đặc biệt nghiêng về những kiến thức từ Thánh Kinh. Như chúng ta đã biết, ngài đã dịch toàn bộ Thánh Kinh qua tiếng Latinh với tên gọi là bản Vulgata (Bản Phổ thông), bản dịch được Giáo hội phê chuẩn và dùng trong Phụng vụ.

Thánh Giêrônimô cũng biết rất rõ về những Ngụy thư nói về thánh Giuse, nhưng ngài không mấy tin vào các tài liệu đó. Thánh nhân đặc biệt nói về sự trinh khiết của Đức Mẹ trong cuốn sách Aversus Helvidium xuất hiện khoảng năm 383 với tựa đề đầy đủ khác bằng tiếng Pháp là De la Perpétuelle Virginité De Marie Contre Helvidius (Về sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria – phản bác lại Helvidius). Trong đó, ngài quả quyết và chỉ ra rằng: tà phái này không hiểu các bản văn Thánh Kinh. Ngài chống lại các Nguỵ thư và còn nói đến giá trị của sự trinh khiết trọn đời của thánh Giuse: “Tôi xác định rằng không chỉ Đức Maria mà còn cả thánh Giuse cũng giữ mình đồng trinh, để trong cuộc hôn phối trinh khiết đó, Đức Maria đồng trinh đã sinh con. Và nếu Đức Maria được coi như hôn thê của ngài, người đã trở thành người bảo vệ còn hơn cả hôn phu. Phải kết luận rằng ngài luôn trinh khiết cùng với Đức Maria, để ngài xứng đáng được gọi là ‘cha của con Chúa’, vì ngài là hôn phu của Đức Maria.” Với nghĩa đặc biệt này, thánh Giêrônimô hướng mở tới sự trinh khiết trọn đời của thánh Giuse. Thánh Giêrônimô cũng cắt nghĩa tư tưởng của thánh Inhaxiô Antiokia, mà qua đó, Đức Maria đã có một hôn phu hoàn toàn sống khiết tịnh.

Có thể nói, thánh Giêrônimô là một giáo phụ nổi tiếng bàn về đức đồng trinh của thánh Giuse một cách căn bản, giống như thánh Gioan Kim Khẩu ở Đông phương.

II. THÁNH AUGUSTINÔ (354-430)

1. Đề cao đức tính của thánh Giuse

Giuse biết rõ mình không có dính dáng gì trong vụ bí mật của Maria, nên lẽ đương nhiên ông nghĩ: chả lẽ bà là thất tiết. Nhưng ông là người công bằng, chính trực, không muốn làm tổn thương danh dự của bà, nên đã quyết định âm thầm rút lui.

Ông đã bối rối, vì ông là hôn phu. Nhưng ông không ngược đãi, vì ông là người công chính. Cao cả thay sự công chính của Giuse! Ông tha thứ không phải để còn được chung sống với bà. Có nhiều ông chồng đã tha lỗi thất tiết cho vợ, là để giữ vợ lại mà thỏa mãn tình riêng. Còn Giuse tha thứ mà không có ý giữ bà lại. Như thế, mối tình của ông không vấn vương dục vọng. Ông không muốn nộp bà để bà bị luận tội, đó là do lòng nhân ái khoan dung.

Đáng phục thay đức tính của Giuse! Chính vì thế ông đã được chọn để làm chứng về đức đồng trinh của bà.

2. Hôn nhân đích thực và kỳ diệu giữa Giuse và Maria

Giả sử có đôi vợ chồng nào đồng thỏa thuận kiêng giữ suốt đời, thì dây hôn nhân của họ cũng không bị tiêu hủy; trái lại, càng thêm bền vững khi hai bên đều nắm giữ những điều đã cùng nhau đoan hứa, không phải trong sự quan hệ thể xác, nhưng trong niềm tin tưởng tâm hồn.

Không phải vô cớ mà thiên thần bảo Giuse “đừng sợ rước Maria về làm hôn thê” (Mt 1,20). Trinh nữ được gọi là hôn thê bởi do có hôn ước, chứ thực ra hôn phu của bà không hề gần gũi bà khi nào.

Giuse là hôn phu của Trinh nữ cùng do bởi hôn ước mà thôi, chứ không hề có việc đi lại thường tình. Nhưng bởi là hôn phu, ông được làm cha Đức Giêsu, theo một nghĩa cao trọng hơn danh nghĩa dưỡng phụ.

III. THÁNH BÊNAĐÔ[3]

1. Bàn Về Quyền Chức Thánh Giuse

Thánh Bênađô (1091 -1153) là giáo phụ cuối cùng, được mệnh danh là ca sĩ của Mẹ Maria. Thiết tưởng ta cũng có thể gọi ngài là ca sĩ của thánh Giuse nữa.

Bênađô đáng kể là tông đồ tiên phong về sự sùng kính thánh Giuse. Thế kỷ XII nhiều nhân vật có thế giá, nhất là Bênađô, với những bài giảng hùng hồn, đã đề cao vai trò của thánh Giuse trong thời thơ ấu Chúa Giêsu. Tán dương những vinh quang và nhân đức của ngài. Sự sùng kính thánh Giuse trong Giáo hội bắt đầu thăng tiến từ đó.

Thánh Bênađô chưa đạt tới mức độ giáo thuyết về thánh Giuse như ta ngày nay. Chức vị làm chồng, làm cha của thánh Giuse, đối với ông, xem ra có tính cách tạm thời và hữu danh hơn là hữu thực. nhưng điều đó không lạ gì, vì là buổi sơ khai.

2. Giuse: Chồng Đức Maria, Cha Chúa Cứu Thế

“Maria đã đính hôn với một người tên là Giuse” (Lc 1,26). Luca nêu tên người đó, nhưng không gọi là chồng, dường như chỉ muốn nói đến một người nhân đức.

Còn Mathêu thì nói rõ người đó là chồng Đức Maria. Điều này hợp lý, vì phải xưng ông bằng tước hiệu thuộc về ông, phải gọi ông là chồng của Maria, bởi lẽ cần cho người ta tin như vậy.

Cũng một lẽ đó, Giuse đáng gọi là cha Chúa Cứu Thế, mặc dầu thực sự không phải vậy, hầu cho người ta tin ông là cha Ngài, như Phúc Âm đã chép: “Chúa Giêsu khởi đầu công vụ vào trạc ba mươi tuổi, và người ta tưởng Ngài là con của Giuse” (Lc 3,23).

Thực ra, ông không phải là chồng của Mẹ, cũng không phải là bố của Con. Nhưng là sự an bài cần thiết, ông được gọi là chồng, là cha trong một thời gian, và được người ta nhìn nhận như vậy.

Hẳn Giuse, hôn phu của Đức Maria, là một người lương hảo, trung thành, hay nói đúng hơn  là “một tôi tớ trung thành khôn ngoan” Chúa đã đặt bên cạnh Đức Maria để làm Đấng an ủi Mẹ, là cha nuôi nấng Con, và trung thành cộng tác vào công cuộc lớn lao của Chúa.

(Trích dịch bài giảng: “Maria và Giuse” phần 3.)

D. TÓM KẾT CÁC GIÁO PHỤ

Thánh Bênađô tóm kết các giáo phụ đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta những truyền thống quý báu, những chỉ dẫn căn bản và nền tảng dẫn đến một suy tư về thánh Giuse mà chúng ta có thể triển khai:

- Những lý do tiền định về cuộc hôn nhân giữa thánh Giuse và Đức Maria và tính Dưỡng phụ của ngài với Chúa Giêsu.

- Đồng trinh trọn vẹn của Đức Maria và hoàn toàn không có yếu tố đàn ông trong việc thụ thai Đức Giêsu.

- Thánh Giuse hoàn toàn tin vào truyền thống tiên tri và lời loan báo của Thiên sứ tỏ lộ cho ngài về ý muốn của Thiên Chúa.

- Sự dấn thân của thánh Giuse trong kế đồ mầu nhiệm của việc nhập thể và của ơn cứu độ.

- Và sau này, thánh Tôma Aquinô nói thêm: “Khi Thiên Chúa kêu gọi một tạo vật đóng vai trò đặc biệt, ngài sắp xếp cho người ấy được những ân điển và ân sủng cần thiết để hoàn thành sứ vụ đó” (Somme théol. IIIa, Q27, art.4).

Trích sách: Để Hiểu và Yêu Mến Thánh Cả Giuse Hơn
Tác giả: Lm. Giuse Trần Đình Thụy
WHĐ (30.1.2021)



[1] Lược dịch từ: Msg. Leon Christiani, Saint Joseph, Apostolat de la Presse, 1962.

[2] Lược trích: Châu Thủy, Thánh Giuse trong Phúc Âm, NSTTĐM HOA KỲ,1989

[3] Lược trích: Châu Thủy, Thánh Giuse trong Phúc Âm, NSTTĐM HOA KỲ, 1989.